Phong trào Phật giáo miền Trung – Huế
Chu Sơn
Phần Hai
Phong trào Phật giáo Miền Trung - Huế
thời kỳ dấn thân
(1954-1966)
*****
Chương II
Cuộc dấn thân lần thứ nhất
Đấu tranh vì mục tiêu tự do và bình đẳng tôn giáo
Đương đầu với chính quyền Ngô Đình Diệm
1. Nguyên nhân gần : Cờ Phật giáo và mùa Phật Đản 1963
Sau 1954, tại Thừa Thiên Huế và một số
tỉnh miền Trung, hằng năm đến mùa Phật Đản (ngày 8 tháng 4 ÂL) và lễ Vu
Lan (ngày rằm tháng 7 ÂL) là tưng bừng lễ hội. Bàn thờ, cổng chào, xe
hoa, lồng đèn, cờ xí, mô hình các sự tích, các biểu tượng liên quan đến
ngày sinh và cuộc đời của đức Phật, các cuộc cắm trại của các Gia đình
Phật tử, các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ…không những rực rỡ, tưng bừng
trong và ngoài khuôn viên các chùa lớn nhỏ – đặc biệt là chùa Từ Đàm và
chùa Diệu Đế – mà cả đến
trên một số đường phố, công viên và hầu hết nhà riêng các gia đình cư
sĩ. Ở Huế vào thời điểm ấy ít ra có đến trên dưới 70% gia đình hân hoan
tham gia lễ hội. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ, yên vui, thanh bình. Nếu
có một du khách đến Huế trong các dịp lễ hội ấy mà sau đó nghe tin có
tình trạng đàn áp, kỳ thị tôn giáo tại Việt Nam thì chắc chắn người ta
sẽ không tin và cho là vu khống, bịa đặt, nói xấu chính quyền.
Tuy nhiên, chuyện chính quyền Ngô Đình
Diệm kỳ thị đàn áp, âm mưu tiêu diệt Phật giáo và độc tôn Thiên Chúa
giáo là điều có thật. Chuyện xảy ra trong tất cả các cơ quan hành chánh,
các đơn vị quân đội, các trường học và đặc biệt ở nông thôn. Ở Thừa
Thiên – Huế chưa tới 10% dân số là người theo Thiên Chúa giáo. Số còn
lại là người theo đạo Phật, đạo thờ cúng ông bà và tín ngưỡng dân gian,
một số ít là tín đồ Tin Lành. Như vậy cứ cho người Thiên Chúa giáo chiếm
tỷ lệ 10% trong các trường học, các cơ quan hành chính, các đơn vị quân
đội, các nơi công cộng như chợ búa, bến tàu xe, rạp hát, rạp xi nê. Thế
mà 90% người ngoại đạo lại
phải suy tôn ông tổng thống Thiên Chúa giáo mỗi ngày. Những công chức
cao cấp lại phải cơm áo gạo tiền vào tận Nam bộ để học các khoá
Duy linh – Nhân vị do ngài tổng giám mục Ngô Đình Thục, anh ruột ngài
tổng thống chủ trì, các linh mục dạy dỗ; lại phải vào tận Sài Gòn, ra
tận La Vang để dự các thánh lễ tại Vương cung thánh đường., lại phải
dâng lễ vật lên ngài tổng giám mục nhân lễ Ngân Khánh, lại phải đút lót,
biếu xén các của quí vật lạ lên ngài cố vấn chính trị miền Trung Ngô
Đình Cẩn, lại bị đảng Cần Lao, Thanh niên Cộng hoà của ông Ngô Đình Nhu
và Phụ nữ Liên đới của Trần Lệ Xuân chèn ép doạ nạt, lại bị vu khống là
Việt cộng để rồi bị bắt bớ, tra tấn, tù đày và giết chóc. Năm 1957, kỳ
nghỉ Phật Đản chính thức bị chính quyền bãi bỏ trong các trường học, học
sinh không được nghỉ học như ngày Chúa giáng sinh. Ở nông thôn tình
trạng này còn trầm trọng hơn. Ở nông thôn công cuộc
Thiên Chúa Giáo hoá
bắt đầu từ việc cha cố đi làm công tác tổ chức, tuyển chọn cán bộ, viên
chức ở tận thôn ấp, xã phường, quận huyện. Công cuộc Thiên Chúa giáo hoá
không chỉ bắt đầu từ trên xuống mà còn từ dưới lên. Ở nông thôn
phong trào “theo đạo có gạo mà ăn” là sự thật phổ biến. Cùng bần hoá
nông thôn là một sách lược trong mưu đồ Thiên Chúa giáo hoá. Ở nông thôn
các gia đình theo đạo Phật muốn yên ổn làm ăn, sinh sống chỉ còn cách
theo đạo Thiên Chúa, bằng không thì tai ương hoạn nạn, hoặc còn có cách
nữa là bỏ xứ mà đi. Ngày 20.2.1962 Phật giáo gởi một thư tố cáo lên tổng
thống Diệm và chủ tịch Quốc hội về những tội ác mà chế độ đã thi hành
đối với Phật tử ở Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Thư không được trả
lời.( Linh mục Trần Tam Tỉnh, Dieu et Cesar, Sdestasie,
Quốc sách ấp chiến lược không chỉ nhằm
một đối tượng duy nhất là Việt cộng mà còn là Phật giáo đồ. Công cuộc
Thiên Chúa giáo hoá của chế độ Ngô Đình Diệm là một kế hoạch tiệm tiến,
tằm ăn dâu. Đặc biệt tại thành phố Huế, nơi có tám chín mươi phần trăm
quần chúng theo đạo Phật, Nho Phật, hoặc thờ cúng Tổ Tiên thì việc tiến
hành kế hoạch đó lại cần thận trọng và kiên trì. Do vậy mà các lễ hội
Phật Đản, Vu Lan được tổ chức hàng năm là một những cái gai gây nhứt
nhối cho anh em nhà họ Ngô và tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa giáo. Tuy
nhiên những người có hiểu biết và kinh nghiệm chính trị đôi chút như Ngô
Đình Cẩn, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu… thì có thể nhẫn nhịn chờ đợi, còn
những người xốc nỗi như Trần Lệ Xuân, nóng vội như Ngô Đình Thục thì
thời điểm 1963 là quá sức họ.
Họ chẳng còn nghị lực để chứng
kiến “cái vẻ nhơn nhơn đầy thách thức của cái đám ma quỉ bụt thần quê
mùa dốt nát ấy” qua lễ hội Phật Đản 1963.
2. Diễn biến phong trào
Chiều ngày 6 tháng 5 năm 1963 Ngô Đình
Thục từ La Vang vào lại tòa Tổng giám mục với lòng buồn bực và căm giận.
Trên đường đi con người ôm ấp khát vọng trở thành hồng y ấy đã chứng
kiến quan cảnh reo vui, cờ xí và cổng chào mà đồng bào Phật tử đã chuẩn
bị để đón chào ngày Đản sinh của vị thầy vĩ đại. Thế là câu chuyện cấm
treo cờ Phật giáo bắt đầu vào chiều hôm sau. Thế là cuộc đụng độ giữa
hai lực lượng: chế độ Cần Lao Thiên Chúa giáo Ngô Đình Diệm và Phật giáo
bắt đầu. Đây là một cuộc đụng độ kỳ lạ giữa một bên tua tủa dùi cui và
ma trắc, lưỡi lê và súng ống, lựu đạn và xe tăng, xích sắt và nhà tù,
tấn công và đàn áp, mưu ma và chước quỉ…, và một bên chỉ có tràng hạt và
kinh mõ, kiến nghị và tuyên ngôn, biểu tình và tuyệt thực, đỉnh cao là
vị pháp thiêu thân.
Chiều ngày 7 tháng 5 năm 1963, theo lệnh
từ Sài Gòn, cảnh sát Thừa Thiên – Huế đến từng nhà, từng chùa bảo gỡ bỏ
các Phật kỳ và những lễ vật trần thiết ngoài khuôn viên. Quần chúng Phật
tử ngỡ ngàng, phẫn nộ, nhiều người bất tuân. Chẳng bao lâu sau đó,
khoảng 5000 Phật tử dẫn đầu bởi hai vị sư già là Thích Giác Nhiên, Thích
Tịnh Khiết và một số nhà sư thuộc giáo hội Phật giáo miền Trung – Huế
đến tòa hành chánh chất vấn tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng. Ông Đẳng bảo là
cảnh sát đã hiểu lầm mệnh lệnh thượng cấp và cho xe đi loan báo để đồng
bào Phật tử yên tâm tiếp tục mừng Phật Đản. Nhưng về phía cảnh sát thì
cứ thi hành triệt để mệnh lệnh họ nhận được.
Sáng ngày 8.5.1963, như nhiều năm trước,
lễ Phật Đản tổ chức chính thức tại chùa Từ Đàm. Thông thường lễ khai mạc
vào khoảng 8 giờ. Nhưng năm nay lễ Phật Đản khai mạc chậm vì đoàn rước
Phật từ chùa Diệu Đế chưa lên kịp. Nguyên do là khi đoàn rước Phật đi
qua đường phố Trần Hưng Đạo, nhiều biểu ngữ có nội dung chống đối chính
quyền được trương ra không do chủ ý của ban tổ chức. Nhà sư Thích Mật
Hiển (người chỉ huy cuộc rước)
ra lệnh dẹp bỏ đi. Phải mất nửa tiếng đồng hồ vì vụ việc này.
Nhưng khi đoàn đi qua bên kia cầu Trường Tiền, những biểu ngữ ấy lại
xuất hiện. Sợ trễ giờ khai
mạc, nhà sư Mật Hiển chẳng làm gì hơn là cứ để đoàn tiếp tục diễn hành.
Đến Từ Đàm, đoàn rước Phật với những biểu ngữ bất thường được biển người
đang có mặt hoan hô nhiệt liệt. Nguyên văn những biểu ngữ ấy như sau:
- Kính Mừng Phật Đản.
- Cờ Phật giáo quốc tế không thể bị
triệt hạ.
- Phật giáo đồ nhất trí bảo vệ chánh
pháp dù phải hy sinh.
- Yêu cầu chính phủ thi hành chính sách
tôn giáo bình đẳng.
- Phản đối chính sách bất công gian ác.
- Đã đến lúc chúng tôi bắt buộc đấu
tranh cho chủ trương tôn giáo bình đẳng.
- Chúng tôi không từ chối một hy sinh
nào.
Đoàn rước Phật đi vào vị trí được chờ
sẵn. Quang cảnh chùa Từ Đàm sáng hôm ấy thật kỳ lạ. Cả biển người nhưng
vẫn trật tự, im lặng và trang nghiêm. Trước lễ đài các nhà sư cao tuổi
và các chức sắc đại diện chính quyền ngồi trên những ghế dành riêng.
Trên lễ đài, trước máy phóng thanh, sau lời giới thiệu của nhà sư Thích
Đôn Hậu, nhà sư Thích Trí Quang trình bày ý nghĩa ngày Phật Đản và làm
sáng tỏ nội dung các biểu ngữ trên theo cách của ông. Lời ông ngắn gọn
từ tốn nhưng chắc nịch và lôi cuốn. Ý ông nhẹ nhàng uyển chuyển nhưng
cương quyết. Ông kết luận rằng những mục tiêu Phật giáo đề ra phải được
thành đạt, nhưng đấu tranh trước sau cũng chỉ với phương pháp bất bạo
động. Ngoài phương pháp bất bạo động phát xuất bởi lòng từ bi, trí tuệ
và sự dũng cảm được huân tập từ lời Phật dạy, người Phật tử không có gì
hơn.
Cả biển người yên lặng, ánh mắt của họ
cùng hướng lên ông với lòng ngưỡng mộ dành riêng cho vị lãnh tụ. Vì lời
ông cũng là tâm ý của họ.
Đàn áp đẫm máu tại đài phát thanh Huế
Như những năm trước, nội dung lễ Phật
Đản được ghi âm, đài phát thanh Huế sẽ phát lại vào buổi tối. Thời bấy
giờ máy thu thanh chưa phổ cập, nhiều người không có máy thường tập
trung quanh đài phát thanh Huế để nghe các chương trình họ ưa thích.
Những trận đá banh do Huyền Vũ tường
thuật trên đài phát thanh Sài Gòn chẳng hạn, quanh đài phát thanh Huế và
cả chân cầu Tràng Tiền đầy đặc người đứng nghe. Tối Phật Đản 8.5.1963,
số người đứng chờ nghe càng đông hơn. Ngoài những người không được nghe
lời “Thầy” khi sáng trên Từ Đàm, còn có nhiều người hơn đến để chất vấn
tại sao đài không thực hiện buổi phát thanh như ngày này năm trước? Có
khoảng sáu bảy ngàn người vây quanh đài phát thanh với lòng tràn đầy
phẫn nộ.
Từ sớm chính quyền đã ra lệnh Tiểu khu
Thừa Thiên và Quân vụ thị trấn Huế cắm trại 100%. Thiếu tá Đặng Sĩ,
(người Thiên Chúa giáo) phó tỉnh trưởng nội an chỉ huy binh lính, cảnh
sát, mật vụ và các phương tiện chống biểu tình như xe vòi rồng, xe tăng,
đến bao vây quanh đài phát thanh. Xe vòi rồng phun nước tứ tung, đạn mã
tử từ các xe tăng bắn nổ chát chúa. Quần chúng nhất là thanh thiếu niên
hổn loạn. Lựu đạn cay nổ khắp nơi. Lựu đạn thật, súng lớn, súng nhỏ bắn
ra từ các xe tăng. Xe tăng xốc tới nghiền nát đám đông mặc kệ ông tỉnh
trưởng và nhà sư Trí Quang đã cố gắng hết sức khuyên bảo đám đông giải
tán và kêu gọi lực lượng an ninh có thái độ hòa hoãn. Nhưng cơn thịnh nộ
của chính quyền Ngô Đình Diệm chẳng hề được kiềm chế. Cuộc đàn áp đã
diễn ra vô cùng khốc liệt. Kết quả là tám thiếu niên bị giết chết và
nhiều người bị thương. Ngày hôm sau các phương tiện truyền thông của
chính quyền tại Huế và Sài Gòn loan tin là Việt Cộng ác ôn đã len lỏi
vào đám biểu tình gây ra vụ tàn sát đẫm máu.
Một người Đức, bác sĩ Erich Wullff, giáo
sư tại đại học Y khoa Huế từ năm 1961, chứng kiến từ đầu cuộc náo loạn
tối 8 tháng 5 năm 1963 tại đài phát thanh Huế, đã mô tả về những nạn
nhân của vụ tàn sát đẫm máu như sau:
“
Giữa đường trước khách sạn dành riêng cho cố vấn quân sự Mỹ, tôi gặp
Paul Miller, một người Mỹ làm trong văn phòng đại học. Anh ta kể rằng:
“họ đã đi qua đây. Thiếu tá Đặng Sĩ, người cầm đầu đoàn quân, đã bảo anh
ta phải lánh mặt đi chỗ khác. Sắp có màn giết người, vì ông ta đang nhận
được lệnh từ cấp trên dẹp vụ bạo loạn tại đài phát thanh với bất cứ giá
nào”. Ngay cả Paul cũng không biết có người chết hay không. Anh ta đã
trải qua trận bắn phá trong khách sạn “cố vấn”. Nhưng anh ta biết rằng
thiếu tá Sĩ là người Ky tô quá khích và là một người thân tín của tổng
giám mục Thục…”
“Khu nhập viện có khoảng 20 người bị thương đang nằm, không có ai bị
thương trầm trọng cả…”
“Nhà xác nằm cạnh nhà thương điên…Dưới ánh sáng yếu ớt của đèn bạch lạp,
chúng tôi thấy có bảy thân người đầy máu me được đặt trên ba bàn khám
nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực thân thể còn nguyên vẹn. Nhưng năm cái
xác – tất cả là trẻ em thì không còn đầu. Nơi một người phụ nữ thì có
những vết đạn bắn vào cánh
tay, vai và cổ. Các xe thiết giáp đã bắn nát đầu các em thiếu nhi, có lẽ
vào lúc các em leo qua hàng rào của đài phát thanh và nhô đầu ra trước…”
“… Khi tôi muốn quay
đi không muốn nhìn cảnh thê thảm này nữa, thì tôi chợt thấy bên cạnh một
cánh tay của một xác trẻ em, một con mắt dính vào một ít da đầu và một
khúc xương trán…”
(Lễ Phật Đản tại Huế – Trích hồi ký của
Erich Wulff – Việt dịch
Minh Nguyên – kỷ niệm 40 năm Phong trào Phật giáo 1963)
Tuyên ngôn 10. 5. 1965
Sau vụ đài phát thanh, chính quyền Ngô
Đình Diệm tại Thừa Thiên – Huế dưới sự điều động của phó tỉnh trưởng nội
an Đặng Sĩ đặt cố đô trong tình trạng báo động. Quân đội, cảnh sát, công
an, mật vụ với xe pháo, vũ khí và những phương tiện đặc biệt chống “nổi
loạn” sẵn sàng ứng chiến trước và trong khuôn viên Quân vụ Thị trấn.
Quanh chùa Từ Đàm nhiều binh lính súng gắn lưỡi lê, lưng đeo lựu đạn đi
lại với vẻ mặt đằng đằng sát khí. Các nhà sư và trí thức Phật tử họp,
soạn thảo một bản tuyên ngôn gởi tới tổng thống Ngô Đình Diệm. Tuyên
ngôn gồm 5 điểm (gọi là 5 nguyện vọng):
1/ Đề nghị chính phủ
thu hồi vĩnh viễn công văn triệt hạ giáo kỳ Phật giáo.
2/ Đề nghị chính phủ công nhận quyền tự
do truyền đạo và thực hành tôn giáo của tăng ni tín đồ Phật giáo.
3/ Đề nghị chính phủ chấm dứt tình trạng
bắt bớ và khủng bố tín đồ Phật giáo.
4/ Đề nghị chính phủ đối xử công bằng
đối với Phật giáo cũng như Thiên
Chúa giáo và bãi bỏ Dụ số 10 xem Phật giáo như một hiệp hội.
5/ Đề nghị chính phủ bồi thường xứng
đáng cho những nạn nhân vô tội bị sát hại tại Đài phát thanh Huế và
trừng phạt đích đáng kẻ chủ mưu và cố tình gây ra tội ác.
Có người bảo đây là cuộc đụng độ giữa
Đông và Tây, giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
Tôi không nghĩ như thế.
Có người bảo đây là cuộc đấu tranh sinh
tồn giữa một bên là Phật giáo Việt Nam đã hồi sinh sau mấy trăm năm suy
đồi hội nhập với một số khía cạnh tích cực của nền văn minh hiện đại, và
một bên kia là tập đoàn phong kiến Nho giáo lạc hậu, lỗi thời kết hợp
một cách bản năng với cặn bã của nền văn minh Thiên Chúa giáo biến dị
trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Việt – Mỹ.
Trên đại thể tôi chia sẻ nhận định này.
Phong trào Phật giáo chống tập đoàn Ngô
Đình Diệm nổ ra tại Huế – miền Trung vào giữa tháng 5 năm 1963 và kết
thúc tại Sai Gòn vào đầu tháng 11 năm ấy, gây sửng sốt cho cả Việt Nam
và toàn thế giới, ở ngoài dự kiến của chính phủ Mỹ và đảng Cộng Sản.
Không ai có thể hình dung trong lòng Việt Nam ngoài sức mạnh kháng chiến
Cộng Sản còn có một nội lực hùng hậu và lạ lẫm đến như thế.
Đế quốc Mỹ tính toán sức mạnh trên trên
khối lượng, tính năng vũ khí và đồng đô la.
Đảng Cộng Sản Việt
Phong trào Phật giáo đã thể hiện một sức
mạnh khác, đó là sức mạnh của tình yêu, của tinh thần vô uý và của chỉ
với phương sách bất bạo động.
Từ năm 1960, chế độ Ngô Đình Diệm ở
trong một tình thế phức tạp và cực kì mâu thuẫn.
Một mặt anh em nhà họ Ngô và bầu đoàn
yên trí rằng mình đã bước vào thời kỳ ổn định. Bởi tất cả các đối thủ,
các chướng ngại đều bị đánh tan, dẹp yên và công cuộc Cần Lao Thiên Chúa
giáo hoá guồng máy quyền lực đã đặt xong nền móng. Hầu như tất cả các
đơn vị quân đội, các cơ quan hánh chính, các ban ngành từ trung ương
xuống địa phương quận huyện, phường xã, thôn ấp, các nguồn lợi kinh tế
béo bở đều đã được dàn xếp, ban phát cho người của tập đoàn và bè cánh
nắm giữ. Mỹ tăng cường viện trợ quân sự, kinh tế và hỗ trợ ngoại giao để
phát triển uy thế của Diệm trên trường quốc tế. Nhờ có trực thăng, thiết
vận xa M 113 và cố vấn quân sự Mỹ mà quân đội Việt Nam Cộng Hoà tổ chức
được những cuộc hành quân thọc sâu hơn các căn cứ kháng chiến. Các toán
biệt kích, thám báo được tung nhiều hơn vào lãnh thổ miền Bắc và các
vùng căn cứ kháng chiến bên Lào và Campuchia. Anh em nhà họ Ngô thỏa
thuê trước những gì đạt được, tin chắc chiến thắng Cộng Sản là ở trong
tầm tay, công cuộc biến miền
Mặt khác, đại bộ phận nhân dân miền
Tuy nhiên, biến cố quan trọng nhất trong
năm 1960 là sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTGP),
chấm dứt thời kỳ đen tối của các cán bộ chính trị nằm vùng trên toàn bộ
các tỉnh thành miền Nam suốt năm sáu năm liền nhịn nhục, chịu đựng không
biết bao nhiêu hành vi tàn ác hiểm độc từ các chiến dịch sát Cộng, diệt
Cộng. Thực ra, MTGP xuất hiện chỉ là sự công khai hoá một thủ pháp chính
trị trong sách lược cách mạng hai chân, ba mũi, ba vùng chiến lược từ
nghị quyết 15 của Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam, do ông Lê Duẩn –
tổng bí thư đề xuất. Nghị
quyết 15 là ánh sáng đưa đường chỉ lối cho kháng chiến miền
Thế là chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu thời
kỳ tứ phương thọ địch.
Năm 1961, rồi đến 1962 theo những tin
tức tình báo Mỹ thì “Cộng quân
tăng cường hoạt động trên 80% lãnh thổ ở nông thôn”. Ở thành phố Sài
Gòn thì đặc công Việt cộng tấn công Mỹ bằng bom ở nhiều nơi.(Hoàng Linh
Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, nxb CAND, 1988).
Ngô Đình Diệm ban bố tình trạng khẩn
trương. Kêu gọi Hoa Kỳ và các quốc gia khác thuộc phe Thế giới Tự do
giúp đỡ.
Mỹ tăng cường quân viện, thành lập bộ tư
lệnh quân đội Mỹ tại Sài Gòn (MACV). Tổng thống Kennedy gởi phó tổng
thống Johnson tới Sài Gòn công kênh Diệm lên hàng nhà lãnh đạo tầm cở
thế giới. Tuy nhiên tình hình của chế độ Diệm vẫn không tốt lên chút
nào. Trong lòng chế độ tiếp tục đổ vỡ. Tháng 2 năm 1962, nhóm các sĩ
quan không quân Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc Lập, làm
đảo chánh hay cảnh cáo Diệm về tình trạng độc tài gia đình trị? Sau lưng
nhóm này là những chính
khách thuộc các đảng phái, phe nhóm chính trị mà Ngô Đình Nhu gọi là đám
xôi thịt.
Nhưng thảm hoạ của chế độ Ngô Đình Diệm
thực sự bắt đầu từ trận đại bại Ấp Bắc. Ấp Bắc là một thôn nhỏ nằm cạnh
thị xã Mỹ Tho, cách Sài Gòn 50 km về phía Tây. Nhiều tiểu đoàn Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) gồm bộ binh, biệt động quân, lính dù, lính bảo an, pháo
binh, trực thăng, tàu chiến, thiết vận xa M 113 cùng 31 cố vấn Mỹ được
điều tới đây để đánh nhau với một tiểu đoàn Việt cộng. Trận chiến xảy ra
ác liệt. Quân VNCH bị đánh tan tác. Quân Việt cộng rút lui an toàn. Kết
quả 65 binh lính và sĩ quan VNCH với 3 cố vấn Mỹ bị giết, nhiều người
khác bị thương, 16 trực thăng bị bắn hạ hoặc hư hại nặng, mấy chiến xa,
tàu thuỷ nhỏ, xe pháo bị bắn cháy, bắn chìm. ( Hoàng Linh Đỗ Mậu, sđd).
Lập trường của chính giới Mỹ đã chia hai
sau trận Ấp Bắc. Đã có đề xuất thay Diệm bằng nhân vật khác để đánh
thắng Cộng Sản.
Vụ Phật giáo nổ ra tại Huế trong nhận
thức của Mỹ và tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa giáo Ngô Đình Diệm lúc ban
đầu chỉ là vấn đề địa phương không khó giải quyết. Chính giới Mỹ và
phương Tây vào thời điểm ấy rất thiếu hiểu biết về Phật giáo nói chung
và Phật giáo Việt
Năm nguyện vọng mà Phật giáo miền Trung
– Huế đề xuất sau vụ cấm treo cờ chiều ngày 7 tháng 5, và vụ đàn áp đẫm
máu bằng xe tăng, lựu đạn trước Đài phát thanh Huế tối hôm sau, ngày 8
tháng 5, đã được gởi khẩn cấp tới chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhưng nhiều
ngày sau vẫn không có bất cứ một hồi âm nào, ngoại trừ những lời tố cáo
cho rằng Việt cộng là thủ phạm sát hại 8 thiếu niên trước đài phát thanh
Huế. Những dấu hiệu ban đầu ấy tiên báo rằng sẽ không có việc thoả mãn 5
nguyện vọng phải chăng, bức thiết và tối thiểu của Phật giáo đồ miền
Trung – Huế.
Thực ra 5 nguyện vọng của Phật giáo
không ở ngoài các nguyên lí của hiến pháp và luật pháp Việt Nam Cộng Hoà
về sự công nhận các quyền tự do và bình đẳng của các công dân,
ngoại trừ câu viết lố lăng đầy ẩn ý ở phần mở đầu Hiến Pháp thời Đệ
Nhất Cộng Hòa: “Ý thức rằng nước
ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng
tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mệnh trước Đấng
Tạo Hóa và trước nhân loại…)
Tuy nhiên trong việc thực hành luật pháp
thì chính quyền Ngô Đình Diệm cho rằng:
1/ Phật giáo đã không tôn trọng luật pháp khi treo cờ ở nơi công
cộng.
2/ Phật giáo chỉ là một hiệp hội theo qui định của dụ số 10 do
Bảo Đại ký năm 1950. Theo tinh thần của dụ số 10 thì các hiệp hội (như
hội đá banh, hội thả diều…) chỉ được phép hay bị đình chỉ hoạt động theo
quyết định của chính quyền địa phương. Như vậy Phật giáo trong tư cách
pháp nhân là một hiệp hội không thể đòi các quyền tự do của một tôn giáo
và không có quyền đòi bình đẳng với Thiên Chúa giáo là một tôn giáo đích
thực và duy nhất được công nhận trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà.
Theo tinh thần và cách lập luận đó, anh
em Ngô Đình Diệm và chính quyền Cần Lao Thiên Chúa cho rằng không có
tình trạng bắt bớ khủng bố tôn giáo mà chỉ có chuyện trừng trị theo pháp
luật những hội viên hiệp hội (Phật giáo) nào vượt quá quyền hạn của mình
(được qui định bởi dụ số 10 dành cho các hiệp hội) và vi phạm luật pháp.
Hoặc giả: Những người mà
Phật giáo cho là phật tử bị bắt bớ, khủng bố chỉ là bọn Cộng Sản đội
lốt, mà Cộng Sản thì đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật theo luật số
10/59
(cũng con số 10).
Về phía Phật giáo đã nhìn nhận vấn đề và
những sự kiện theo một cách khác: 1/
Nếu bảo treo cờ tôn giáo ở nơi công cộng trong các lễ hội tôn giáo là vi
phạm luật pháp thì chính gia đình, chính quyền Ngô Đình Diệm và giáo hội
Thiên Chúa giáo đã vi phạm nhiều vô số kể. Bằng chứng là:
- Lễ Giáng Sinh hàng năm được tổ chức
tưng bừng trong và ngoài nhiều khu vực công cộng: trong các doanh trại
quân đội, trên các đại lộ công viên ở Sài Gòn, Huế, Quảng Trị, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Nha Trang, Đồng Nai…Nói chung là khắp
các tỉnh thành miền Nam.
- Năm 1959, cờ xí giáo hội La Mã, ảnh tượng đức mẹ tràn ngập nhiều nơi
công cộng tại Sài Gòn và nhiều tỉnh thành khác nhân đại hội Thánh Thể và
lễ nâng nhà thờ Đức Bà lên hàng Vương cung thánh đường.
- Năm 1961, tại Quảng Trị, nhân lễ kỷ
niệm Đức Mẹ hiện ra và khánh thành Vương cung thánh đường La Vang; cờ
xí, ảnh tượng, khải hoàn môn thiết trí khắp nơi trên quốc lộ 1 từ Huế
qua Quảng Trị đến La Vang và nhiều khu vực khác trong tỉnh Quảng Trị.
Đồng bào ngoài Thiên Chúa giáo tỉnh Quảng Trị cũng bị bắt ép đi dự Thánh
lễ.
- Lễ khánh thành nhà thờ Chúa Cứu Thế do
Ngô Đình Thục chủ quản xây cất, và lễ Ngân Khánh (kỷ niệm 25 năm linh
Mục Ngô Đình Thục được phong giám mục 1938 – 1963) của ngài tổng giám
mục cũng đã phô diễn quan cảnh như vậy khắp nơi phía bờ Nam sông Hương.
Rất nhiều viên chức, sĩ quan và tướng lãnh quân đội, thương gia ngoài
Thiên Chúa giáo cũng bị thúc ép hiến dâng lễ vật lên Đức Cha.
2/ Dụ số 10 là một sản phẩm, một thủ
đoạn của thực dân Pháp, vua Bảo Đại chỉ là kẻ thừa hành. Thực dân Pháp
áp lực để Bảo Đại ký Dụ này nhằm mục đích trước mắt và là hạn chế, tiêu
diệt Phật giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho Thiên Chúa giáo bành trướng.
Mục đích lâu dài và thâm độc hơn là chuyển đổi tâm hồn, não tuỷ Việt Nam
từ truyền thống (trong đó có phần đóng góp quan trọng của đạo Phật) qua
Thiên Chúa giáo, biến vĩnh viễn đất nước này thành lãnh thổ phía Đông
của nước mẹ Đại Pháp. Ngô Đình Diệm đã “bài phong, đã thực” sao không
huỷ bỏ dụ số 10? Phải chăng Ngô Đình Diệm lợi dụng chỉ dụ này để thực
hiện mưu đồ Thiên Chúa giáo hoá toàn miền Nam, biến phần lãnh thổ này
thành đất đai của đức Chúa Trời và người đại diện là giáo hội La Mã?
3/ Phật giáo là một tôn giáo có lịch sử
hai ngàn năm trăm năm, đã là gốc rễ của một trong các nền văn minh vĩ
đại một thời rực rỡ của nhân loại, hiện đang là ánh sáng tâm linh của
mấy trăm triệu con người trên trái đất.
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ
những kỷ nguyên đầu tiên của lịch sử dân tộc, đã góp phần hình thành và
phát triển tâm hồn, trí tuệ Việt Nam, đã góp phần to lớn trong công cuộc
phục hồi nền độc lập sau hàng ngàn năm nô lệ, đã tham gia tích cực vào
sự nghiệp bảo vệ, mở mang và xây dựng đất nước ở hai triều đại Lý –
Trần.
4/ Chỉ có bọn xâm lược, bọn cướp nước và
con đẻ của chúng mới đánh giá và đối xử với Phật giáo như một hiệp hội
trong ý đồ tiêu diệt Phật giáo, đào cắt gốc rễ văn hóa lịch sử dân tộc
trong mưu đồ xâm chiếm vĩnh viễn đất nước Việt Nam.
Âm mưu và sách lược đó của bọn thực dân
đế quốc và chính quyền phụ thuộc là tội ác không những đối với dân tộc,
đất nước Việt
Chính quyền Ngô Đình Diệm hoàn toàn
không có lí do chính đáng khi duy trì dụ số 10.
5/ Năm nguyện vọng của Phật giáo là tối
thiểu. Thái độ và phương pháp đấu tranh của Phật giáo là mềm dẻo, bất
bạo động nhưng không khoan nhượng.
Trong một quốc gia dân chủ như hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà xác lập, như
mô hình lí tưởng mà tập đoàn Ngô Đình Diệm, chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ
đã rêu rao và tự hào trong quá trình đấu tranh với chế độ Cộng Sản độc
tài đảng trị,
thì năm nguyện vọng của Phật
giáo miền Trung – Huế nêu lên trong Tuyên Ngôn ngày 10 tháng 5,
chẳng có gì để anh em nhà họ Ngô phải phẫn nộ mà la toáng lên rằng cách
ứng xử của Phật giáo là ngông cuồng, là làm loạn cả. Chính các nhà lãnh
đạo Việt Nam Cộng Hoà cũng biết như thế nên ngay từ đầu họ đã né tránh
thảo luận trực tiếp, không thẳng thắn, thiếu thiện chí để giải quyết dứt
điểm vấn đề trong tinh thần hoà hợp hoà giải dân tộc. Nhiều người bảo
tập đoàn Ngô Đình Diệm chỉ xem việc cấm treo cờ Phật giáo như là một cái
cớ để thực hiện mưu đồ và sách lược độc tài toàn trị – Thiên Chúa hoá
miền
Tôi chia sẻ nhận định này.
Nhận định như thế, Ban lãnh đạo Phật
giáo (BLĐPG) cùng một lúc chuẩn bị hai phương án để sẳn sàng ứng phó:
Một
là
kiên trì đàm phán với chính quyền để đạt được 5 nguyện vọng trong tinh
thần hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa:
Chúng ta đã thấy Tuyên Ngôn 5 nguyện
vọng được soạn thảo và công bố tại chùa Từ Đàm ngày 10 tháng 5, đã gởi
tới Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chính phủ tại Sài Gòn, chính quyền tỉnh
Thừa Thiên – Huế liền sau đó. Không thấy hồi âm.
- Ngày 15 tháng 5, một phái đoàn đại
diện nhiều khuynh hướng Phât giáo đã đến dinh Gia Long gặp tổng thống
Ngô Đình Diệm để trao tận tay ông các văn bản đã gởi qua bưu điện và đã
công bố qua báo chí.
Đến ngày 16 tháng 5 Tuyên Ngôn được công
bố trước báo chí và các cơ quan truyền thông khác tại chùa Xá Lợi có
chính quyền tham dự, lại bị các cơ quan truyền thông của chính phủ bêu
rếu, nhục mạ và vu khống là phong trào do Cộng Sản điều động.
Ngày 23 tháng 5, một bản phụ đính và một
bản phụ trương được soạn thảo để làm sáng tỏ nội dung của Tuyên Ngôn
ngày 10 tháng 5, và minh định quan điểm lập trường của Phật giáo về
những vấn đề liên quan mà chính quyền đang xuyên tạc. Phụ đính và phụ
trương nêu rõ:
* Chỉ có kêu gọi chính phủ tôn trọng
quyền tự do tôn giáo, không kỳ thị, đối xử với Phật giáo ngang bằng với
Thiên Chúa giáo. Phật giáo không coi Thiên Chúa giáo là kẻ thù. Phật
giáo không mưu đồ lật đổ chính phủ.
* Phật giáo trong truyền thống cũng như
trong hiện tại luôn đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên. Tuyệt đối
không để cho bất cứ ai lợi dụng.
Tất cả các văn bản (tuyên ngôn 10.5, phụ
đính và phụ trương 23.5) đều được Ban Lãnh đạo Phong trào Phật giáo Đấu
tranh gởi đến tổng thống Ngô Đình Diệm qua một ban đại diện, cũng không
có hồi âm.
Hai là tiến hành đấu tranh
dân chủ bằng phương pháp bất bạo động:
Ngày 25 tháng 5, một Ủy ban Liên phái
Bảo vệ Phật giáo được thành lập theo sự triệu tập của Đại lão hòa thượng
Thích Tịnh Khiết. Thượng tọa Thích Tâm Châu được cử đứng đầu tổ chức
này. Lần đầu tiên các tập đoàn, các môn phái Phật giáo trên toàn miền
Lúc 10 giờ ngày 30 tháng 5, một cuộc
biểu tình tuần hành của 352 tăng ni xuất phát từ chùa Ấn Quang đến trước
Quốc hội yêu cầu gặp chủ tịch Trương Vĩnh Lễ để trao cho ông thư của hòa
Thượng Thích Tâm Châu, người đứng đầu Ủy ban Liên phái, yêu cầu Quốc hội
có thái độ dứt khoát trước những nguyện vọng của Phật giáo. Qua thư này,
Thượng tọa Thích Tâm Châu còn thông báo về cuộc tuyệt thực sẽ diễn ra
vào buổi chiều.
Theo đề nghị của hòa thượng Thích Tịnh
Khiết, một cuộc tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ của toàn thể tăng ni trong
toàn miền
Ngày 31 tháng 5, đại diện sinh viên các
trường, các phân khoa Đại học Huế họp tại chùa Từ Đàm làm kiến nghị gởi
đến tổng thống Ngô Đình Diệm yêu cầu thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật
giáo.
Từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 6, với lực
lượng Gia đình Phật tử làm tiền phong, đoàn Sinh viên Phật tử làm nòng
cốt, thanh niên, sinh viên, học sinh Huế rầm rộ tổ chức nhiều cuộc biểu
tình, bị đàn áp dã man bằng dùi cui, bán súng, lựu đạn cay, lựu đạn hóa
học và chó săn. Hàng trăm người bị thương nặng. Các bác sĩ tại bệnh viện
Huế bị cấm cứu chữa cho các bệnh nhân này. Các bác sĩ người Đức giảng
dạy tại đại học y khoa trở thành ân nhân của họ. Tổng thư ký đoàn Sinh
viên Phật tử Phan Đình Bính bị bắt và bị chết sau đó do bị tra tấn giả
man. Đoàn biểu tình kéo về cố thủ tại chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm bị bao
vây, bị cắt điện cắt nước. Các chùa Bảo Quốc, Linh Quang cũng ở trong
tình trạng tương tự. Sinh viên Phật tử tổ chức tuyệt thực 48 giờ tại Từ
Đàm.
Tại Sài Gòn, chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi,
chùa Giác Minh, chùa Từ Quang … trở thành những trung tâm đầu não của
cuộc đấu tranh. Cuộc tuyệt thực đã diễn ra tại Ấn Quang và Xá Lợi với
bảy tám trăm tăng ni tham dự.
Hưởng ứng cuộc đấu tranh của sinh viên,
thanh niên, học sinh Huế; sinh viên, thanh niên, học sinh Sài Gòn và các
tỉnh cũng hướng về Phong trào Phật giáo, tập trung về các chùa trung tâm
và lần hồi tham dự vào cuộc vận động của Phật giáo đồ, biến nó thành
cuộc đấu tranh của đại đa số nhân dân, bất kể sự đàn áp dã man và những
nguy hiểm, đe dọa về phía chính quyền.
Tại các tỉnh, các Tỉnh giáo hội và
trường Bồ Đề đồng loạt trở thành bản doanh của phong trào. Các Cuộc biểu
tình, tuyệt thực đã diễn ra sôi nổi với hàng ngàn người tham dự mỗi nơi.
Chính quyền đã đàn áp thẳng tay, đã tấn công, phong tỏa, cô lập, bắt bớ,
đánh đập những người tham gia đấu tranh.
Lúc đầu bạo lực Ngô Đình Diệm nhắm vào
các cuộc mít tin, biểu tình trên đường phố, quảng trường. Tiếp đến chúng
bao vây, tấn công vào các trung tâm đầu não, ngăn chặn các trục lộ giao
thông, cắt đứt các liên lạc trong ngoài, áp dụng thủ đoạn cúp điện nước,
cấm vận, cô lập đầu não với quần chúng. Đồng thời chúng ra sức ngăn chặn
sự liên lạc của lực lượng đấu tranh giữa Sài Gòn và các tỉnh.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã điều động
một lực lượng đông đảo gồm công an mật vụ, cảnh sát dã chiến, nhảy dù và
nhiều đơn vị quân đội trang bị các vũ khí sát thương cá nhân, các phương
tiện đàn áp như lựu đạn cay, lựu đạn hóa học, lựu đạn hỏa mù, ma trắc,
kẽm gai, xe tăng, xe vòi rồng… vào các chiến dịch đàn áp. Các chiến dịch
đàn áp ngày càng trắng trợn, bạo tàn hơn, nhắm vào những con người chỉ
trang bị duy nhất một niềm tin vào một dạng thể năng lực ẩn tàng nhưng
hùng hậu nơi mỗi con người: Đó là tình yêu thương được thể hiện qua việc
tự bảo vệ mình, đấu tranh bất bạo động để giảm trừ, hóa giải bạo lực và
các thứ ma chướng đã xâm chiếm ngự trị nơi một bộ phận nhân loại khác.
Trong trường hợp này là tập đoàn Ngô Đình Diệm.
Trước tình hình cuộc đấu tranh của Phật
giáo ngày một lan rộng và quyết liệt, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn
không muốn nhượng bộ. Một mặt âm thầm tiến hành các kế hoạch bôi nhọ, vu
khống và hủy diệt; một mặt bày kế hoãn binh. Một Ủy ban Liên bộ được
thành lập do phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ cầm đầu, với hai bộ trưởng
Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương làm thành viên, đề nghị Ủy ban Liên
phái Phật giáo hợp tác để giải quyết các khúc mắc trong hiện tại, hướng
tới thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật giáo đồ. Để bày tỏ thiện chí, Phật
giáo đồng ý hợp tác. Một phái đoàn hỗn hợp gồm các thành viên của hai Ủy
ban đi Huế để giải tỏa tình trạng phong tỏa và cố thủ ở các chùa Từ Đàm,
Bảo Quốc, Linh Quang, Diệu Đế; và để xả bình hơi từ phía lực lượng đấu
tranh. Đây chỉ là động tác giả. Chính quyền vẫn không thể hiện một thiện
chí cụ thể nào. Vẫn tiếp tục tạo bằng chứng giả để bôi nhọ, vu khống và
vây ráp nhiều trung tâm đầu não tại Sài Gòn và các tỉnh thành khác ngoài
Thừa Thiên – Huế. Thấy được âm mưu của chính quyền, Phật giáo quyết định
tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh với biện pháp cuối cùng là vị Pháp
thiêu thân.
Nhà sư Thích Quảng
Đức tự thiêu.
Trưa ngày 11 tháng sáu, nhà sư Thích
Quảng Đức, 67 tuổi đã tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt
trước sự chứng kiến của một số phóng viên, nhà báo nước ngoài (Simon
Michaud của AFP, Malcolm Browne của AP, Neil Sheehan của UPI) và quần
chúng đang có mặt trên đường phố. Hình ảnh một nhà sư già tự quẹt diêm
đốt mình, uy nghi ngồi trong lửa cháy làm rung động lòng người, không
chỉ là người Việt Nam, mà bất cứ ai còn có lương tri trên thế giới.
Thích Quảng Đức, cái tên như một dấu hỏi lớn từ các châu lục hướng về
Việt
Tôi chưa phải là Phật
giáo đồ, tôi chưa hoàn toàn tin vào đạo lí “dĩ đức báo oán” nhưng khi
đọc báo biết tin và thấy ngài Thích Quảng Đức uy nghi ngồi trong lửa
cháy ngày 11.6.1963, tôi đã vô cùng xúc động và ngưỡng mộ.
Thích Quảng Đức, Thích
Quảng Đức, suốt mấy chục năm liền cái tên ấy vang vọng trong tâm trí tôi
khi thì mạnh mẽ như một khúc quân hành, khi thì sâu lắng, nồng nàn như
một lời tự sự, khi thì thanh thoát, dịu dàng như một ánh trăng. Dường
như cái con người uy nghi ngồi trong lửa cháy đó đã hút hết vào trái tim
vĩ đại và nhân hậu của mình tất cả cái nóng bức nghiệt ngã của
trần gian, để lại cho tôi một khoảng trời trong xanh mát mẽ và tĩnh
lặng.
Thích Quảng Đức, Thích
Quảng Đức, cái tên như những dấu hỏi lớn từ khắp các châu lục hướng về
Việt
Tuy thế, sự kiện một nhà sư tự thiêu tại
ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt của Sài Gòn lại gây cho anh em nhà
họ Ngô những cảm nhận trái khuấy. Hai ông Diệm Nhu thì nổi giận vì cảm
thấy bị khiêu khích. Bà Nhu thì đánh hơi được mùi thịt nướng. Bà tuyên
bố nếu “sư sãi nào cần nướng”
bà sẽ cung cấp xăng dầu. Tổng Giám mục Thục thì bảo:
“chỉ là lửa rơm”. Họ càng
cứng lòng tối dạ hoa chân múa tay điều động thêm binh mã, trang bị thêm
phương tiện, uy hiếp và khép chặt vòng vây chung quanh các trung tâm đầu
não của phong trào.
Trước khi tự thiêu, nhà sư Thích Quảng
Đức viết để lại mấy “Lời nguyện Tâm huyết”:
…
1. Mong ơn Phật tổ gia hộ cho
tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận 5 nguyện vọng tối thiểu của
Phật giáo Việt
2. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật
giáo Việt
3. Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho
chư Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố bắt bớ
giam cầm của kẻ ác gian.
4. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình
quốc dân an lạc.
…
Một ngày sau khi nhà sư Thích Quảng Đức
tự thiêu, hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết, và hai nhà sư Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh bay vào Sài Gòn
trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh.
Di thể của nhà sư Thích Quảng Đức được
tôn trí tại chùa Xá Lợi. Cảnh sát, công an, binh lính thuộc Lực lượng
đặc biệt với những khí cụ đàn áp phong tỏa tất cả các ngã đường dẫn vào
chùa. Hàng chục ngàn Phật giáo đồ và đồng bào các giới đổ dồn về chùa Xá
Lợi để chiêm bái vị Bồ tát. Trong sân chùa và bốn mặt đường quanh chùa
không còn chỗ cho cảnh sát công an. Theo dự tính lễ rước di thể bồ tát
Thích Quảng Đức sẽ được tổ chức vào 6 giờ ngày 16. Ban Lãnh đạo Phật
giáo đấu tranh muốn nhân dịp này tiến hành một cuộc biểu dương lực với
nhiều trăm ngàn người tham dự.
Thông cáo chung.
Vô cùng bối rối trước dư luận thế giới
và trước áp lực ngày càng gia tăng của sức mạnh quần chúng, chính quyền
phải ra lệnh nới vòng vây và đề nghị thành lập Ủy ban Liên bộ và Ủy ban
Liên phái, khẩn trương họp “để giải quyết dứt điểm các yêu cầu của Phật
giáo.”
Cuộc họp của hai Ủy ban bắt đầu từ buổi
sáng ngày 14, kéo dài đến 2 giờ sáng ngày 16 mới kết thúc với một bản
Thông cáo chung gồm năm điểm:
1/ Qui định thể thức treo cờ Quốc gia và
cờ Tôn giáo.
2/ Tách các hội Tôn giáo ra khỏi dụ số
10.
3/ Chính quyền cam kết không trả thù
những người tham gia đấu tranh vì 5 nguyện vọng, và điều tra các vụ
khiếu nại của Phật giáo.
4/
Chính quyền tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do truyền giáo và hành đạo
của Phật tử
5/ Trừng phạt những người có trách nhiệm
trong vụ thảm sát tại đài phát thanh Huế và bồi thường thích đáng cho
gia đình các nạn nhân.
Cuối bản Thông cáo chung, ngoài chữ ký
của các nhân vật chủ chốt của hai Ủy ban, còn có chữ ký xác nhận của
tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và hội chủ Tổng hội Phật giáo
Việt Nam Thích Tịnh Khiêt.
Năm điểm của Thông cáo chung chứng tỏ
năm nguyện vọng trong Tuyên ngôn 5 điểm ngày 10 tháng 5
của Tổng hội Phật giáo Việt Nam gởi đi từ chùa Từ Đàm – Huế được
thành đạt, và đồng thời cũng chứng tỏ thiện chí của chính quyền.
Chính quyền lật lọng
Thông cáo chung.
Ký được Thông cáo chung, chính quyền như
trút đi một gánh nặng: Một khi đạt được các mục tiêu, Phật giáo không
còn lý do để tranh đấu.
Ngay sau khi Thông cáo chung được ký
kết, chính quyền cho xe đi loan báo khắp các đường phố Sài Gòn và điện
đi các tỉnh rằng là 5 nguyện vọng của Phật giáo đã được thỏa mãn, bà con
Phật tử nên giải tán trở về nhà ổn định cuộc sống. Đồng thời chính quyền
khẩn thiết đề nghị phía Phật giáo tạm hoản lễ an táng Thích Quảng Đức và
giải thích cho quần chúng
Phật tử nội dung của Thông cáo chung cùng thiện chí của chính quyền.
Phía Phật giáo nửa tin, nửa ngờ. Một mặt bày tỏ thái độ hòa hoãn với hy
vọng Thông cáo chung được thực thi. Một mặt đề cao cảnh giác phòng khi
chính quyền nuốt lời lật lọng.
Rõ ràng là chính quyền đã nuốt lời lật
lọng. Chính quyền chỉ loan báo Thông cáo chung trong buổi sáng 16 tháng
6 để phía Phật giáo cho lệnh hoãn đám táng Thích Quảng Đức dự trù tổ
chức vào 6 giờ sáng hôm đó, nhằm thủ tiêu cuộc biểu dương lực lượng được
phía Phật giáo chuẩn bị nhân đám táng của vị bồ tát. Đạt được mục đích
trước mắt, Ngô Đình Nhu cùng với cảnh sát và Thanh niên Cộng hòa tổ chức
mít tin phủ nhận Thông cáo chung. Bà Ngô Đình Nhu thì hiệu triệu Phụ nữ
Liên đới lên án “trò quấy rối, phản loạn của bọn sư sãi”. Từ đó chính
quyền không hề nhắc đến Thông cáo chung trước công chúng nữa, mà ra sức
đánh phá Phật giáo và tăng cường trấn áp quần chúng bằng các hành động
bạo lực như trước đây, lại còn bày đặt thêm một số các âm mưu nham hiểm
và bẩn thỉu:
+ Hình thành Tổng hội Phật giáo Cổ Sơn
Môn, tạo điều kiện để tổ chức này phủ nhận Tổng hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất.
+ Tập hợp một số thương phế binh bất
hảo, người ăn xin và người bị bệnh phong đến quậy phá tại các chùa Xá
Lợi, Ấn Quang…
+ Tập họp hàng trăm du đảng cạo trọc đầu
giả làm sư đến những nơi công cộng giở trò càn quấy nhằm bôi nhọ Phật
giáo.
+ Tâp họp mấy trăm nhân viên ngầm, cạo
trọc đầu giả làm tăng ni đi quyên tiền, thuê người may cờ Mặt trận Giải
phóng để vu khống Phật giáo hoạt động cho Việt cộng.
+ Tổ chức phiên tòa xử những nhân sĩ trí
thức tham gia vụ đảo chánh ngày 11.11.1960.
Nhà văn Nhất Linh là một trong số những người nhận được trát hầu
tòa.
+ Ấn định thể thức treo cờ chỉ dành
riêng cho Tổng hội Phật giáo Việt
+ Xác định vụ sát hại đẫm máu tại đài
phát thanh Huế tối ngày 8 tháng 5 là do Cộng sản gây nên.
Phản ứng của nhà văn
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
Để trả lời những hành động xảo trá, gian
ác của chính quyền: Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam quyết định uống
thuốc độc tự tử vào tối ngày 7.7. Ông để lại những dòng trối trăn sau
đây:
“Tôi không chịu để
ai xử tôi cả. Đời tôi để lịch sử xử. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử
Quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản.
Tôi chống đối sự vụ đó và tự hủy mình cũng như Hòa thượng Thích Quảng
Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do. Ngày 7. 7.
1963. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam”.
Cái chết của nhà văn Nhất Linh gây sự
phẫn nộ trong đông đảo quần chúng. Ngày 13 tháng 7, khoảng bốn, năm chục
ngàn người tham dự tang lễ của nhà văn quá cố. Qua đó nói lên nhận thức
và thái độ của quần chúng đối với chế độ Ngô Đình Diệm.
Phật giáo tiếp tục
cuộc đấu tranh bất bạo động.
Ngày 14.7
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt
- Nhắc nhở cho tổng thống Ngô Đình Diệm
biết là ông đã lật lọng, đã phản bội Thông cáo chung mà ông đã ký.
- Nhắc cho tổng thống Ngô Đình Diệm nhớ
là chính quyền đã tiến hành nhiều biện pháp mờ ám, tàn bạo, bẩn thỉu để
bôi nhọ và vu khống Phật giáo.
-
Báo cho tổng thống Ngô Đình Diệm biêt là Tổng hội Phật giáo Việt Nam và
Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo quyết định phát động cuộc đấu tranh
trở lại đòi thực thi Thông cáo chung.
Như thế là trên khắp các tỉnh thành miền
Nam, các chùa trung tâm, các Tỉnh giáo hội Phật giáo, các trường Bồ Đề,
các Gia đình Phật tử, các Khuôn tịnh độ đều đồng loạt tổ chức đấu tranh
với nội dung được chỉ đạo là:
- Kêu đòi chính phủ chấm dứt các hành
động đàn áp, khủng bố tăng ni, phật giáo đồ.
- Kêu đòi chính phủ nghiêm chỉnh thực
thi Thông cáo chung.
- Xác định phương pháp đấu tranh là bất
bạo động.
Ngày 15. 7. 1963, 150 tăng ni biểu tình
tuần hành đến trước tòa đại sứ Mỹ kêu gọi nước Mỹ can thiệp để chính
quyền Ngô Đình Diệm thi hành Thông cáo chung.
Cùng ngày, một cuộc biểu tình tuần hành
khác xuất phát từ chùa Giác Minh với hàng ngàn tăng ni, phật tử tham dự.
Cuộc biểu tình nêu rõ hai ý:
- Tố cáo chính phủ bội ước.
- Đòi thực thi Thông cáo chung.
Ngày 17. 7
khoảng 400 tăng ni tập trung tại chùa Xá Lợi, tuần hành qua các
đường phố Bà Huyện Thanh Quan, Lê Văn Thạch, Nguyễn Thông, Ngô Thời
Nhiệm, Lê Văn Duyệt , tới chợ Bến Thành. Khẩu hiệu đấu tranh là:
- Chính phủ hãy chấm dứt các hành động
đàn áp khủng bố.
- Chính phủ hãy nghiêm chỉnh thực thi
Thông cáo chung.
Cuộc tuần hành, biểu tình và mít tin
được dân chúng hưởng ứng nhiệt liệt và bị cảnh sát đàn áp dã man. Khoảng
300 tăng ni phật tử bị đánh đập tàn bạo, bị bắt quăng lên xe chở thẳng
về chùa Hoa Nghiêm nằm trong An Dưỡng địa, một nghĩa địa nằm giữa cánh
đồng trống ở Phú Lâm. Nhiều vòng kẽm gai đã được giăng bao quanh ngôi
chùa – nghĩa địa này. Các tăng ni phật tử bị nhốt như súc vật trong các
“chuồng” không có những phương tiện vệ sinh tối thiểu, bị hỏi cung, khai
báo lý lịch trong đêm, bị đánh đập tàn nhẫn. Các nạn nhân nữ bị càn quấy
thô bỉ. Nhiều người bị ngất xỉu, nhiều người bị thương, nhiều người bị
đưa đi mất tích. Ba ngày sau, trước sự đấu tranh quyết liệt của Ủy ban
Liên phái, của dư luận và báo chí nước ngoài, chính quyền mới thả họ ra.
Về đến chùa Xá Lợi, nhiều tăng ni, phật tử phải được cấp cứu y tế và
điều trị thương tích dài ngày. Ủy ban Liên phái hỏi chính quyền về những
người mất tích, chính quyền trả lời họ đang được giữ lại để tiếp tục
điều tra. Sự phẫn nộ của quần chúng và Phật giáo đồ lên cao độ.
Thủ đoạn mới của chính quyền.
Ngày 18.7, qua làn sóng của đài phát
thanh Sài Gòn, tổng thống Ngô Đình Diệm gởi đi một thông điệp có nội
dung như sau: Để chứng tỏ tột bực tinh thần hòa giải và sự chân thành
thực thi Thông cáo chung, và cũng để đánh tan những luận điệu tuyên
truyền xuyên tạc gây chia rẽ của kẻ xấu, “chiếu theo đề nghị của Hội
đồng Liên bộ, tôi vừa chấp thuận:
1/ Chỉ thị của nghị định 358 ngày 9 tháng 7 năm 1963 ấn định thể thức
treo cờ của Phật giáo. Thể thức này đã áp dụng riêng cho Tổng hội Phật
giáo sẽ được áp dụng cho tất cả các môn phái nào tự ý công nhận Phật
giáo kỳ.
2/ Chỉ thị cho Ủy ban Liên bộ hợp tác mật thiết với phái đoàn Phật giáo
để cùng nghiên cứu điều tra giải quyết hoặc theo hồ sơ hoặc tại chỗ nếu
cần những khiếu nại liên quan đên sự thực thi Thông cáo chung.
3/ Chỉ thị các cấp quân dân chính mỗi người trong lĩnh vực của mình,
trong lời nói cũng như trong việc làm, tích cực góp phần vào việc thực
thi Thông cáo chung.
Cuối Thông điệp, tổng thống Diệm còn kêu gọi “quốc dân đồng bào ghi nhận
ý chí hòa giải của chính phủ và khách quan phán quyết,…không để ai làm
ngăn cản bước tiến của dân tộc trong nhiệm vụ diệt Cộng cứu quốc.”
Không phải đây là lần đầu ông Diệm bày
tỏ “thái độ chân thành và ý chí
hòa giải tột độ” thế này. Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo và toàn
thể Phật giáo đồ có đầy đủ ký ức và kinh nghiệm để khẳng định rằng sau
mỗi lần ông tổng thống nói đến mấy từ “thành tín”, “lương tri”, “trách
nhiệm”…là chính quyền sẽ
xuống tay tàn bạo và hiểm độc hơn. Lần này, trong và sau khi Ngô tổng
thống gởi thông điệp như thế thì chùa chiền tiếp tục bị bao vây, tăng
ni, phật tử vẫn tiếp tục bị bắt nhốt và Phật giáo tiếp tục bị đàn áp.
Phật giáo kiên tri
đấu tranh bất bạo động – Kêu gọi Mỹ ủng hộ.
Ngày 23.7, ni sư Diệu Huệ, mẹ của nhà
bác học Bửu Hội, họp báo ở chùa Xá Lợi cho biết bà sẽ tự thiêu để phản
đối chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Ngày 30.7, lễ thất tuần của bồ tát Thích
Quảng Đức được tổ chức trọng thể tại chùa Xá Lợi với hàng chục ngàn tăng
ni phật tử tham dự. Lễ thất tuần cũng được tổ chức tại khắp các chùa lớn
nhỏ trên toàn miền
Ngày 1.8.1963, hội chủ Tổng hội Phật
giáo Việt Nam, Thích Tịnh Khiết, gởi điện thư cho tổng thống Kennedy để
phản đối việc đại sứ Mỹ tại Sài Gòn tuyên bố với phóng viên hãng thông
tấn UPI rằng không có chuyện đàn áp Phật giáo tại Việt Nam.
Ngày 4.8
nhà sư Thích Nguyên Hương tự thiêu tại Phan Thiết.
Ngày 11.8 lễ cầu siêu cho nhà sư Nguyên
Hương được tổ chức tại các chùa, các Phật học viện, các niệm Phật đường
và khuôn tịnh độ khắp miền Nam. Tại chùa Xá Lợi, đoàn Sinh viên Phật tử
tổ chức lễ cầu siêu với hơn hai vạn người tham dự.
Ngày 12.8
nữ sinh Mai Tuyết An chặt tay tại chùa Xá Lợi để phản đối chính
quyền Ngô Đình Diệm.
Ngày 13.8
tăng sĩ Thích Thanh Tuệ tự thiêu tại Thừa Thiên – Huế.
Ngày 15.8
ni sư Diệu Quang tự thiêu tại Ninh Hòa Nha Trang.
Ngày 16.8 sinh viên, học sinh Huế bãi
khóa. Giáo chức các trường trung, đại học bãi công. Tiểu thương Huế bãi
thị. Chính quyền ra lệnh giới nghiêm. Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng
viện Đại học Huế, tuyên bố: “cuộc
đấu tranh của Phật giáo có chính nghĩa, chính sách của chính quyền là vô
đạo”. Giáo chức đại học Huế từ chức.
Cùng trong ngày 16.8, nhà sư Thích Tiêu
Diêu tự thiêu tại chùa Từ Đàm. 5000 Phật tử, Sinh viên, Học sinh túc
trực tại chùa Từ Đàm để bảo vệ thi hài của ông.
Sau các cuộc tự thiêu, đã diễn ra nhiều
cuộc xô xát giữa tăng ni, đồng bào phật tử và lực lượng cảnh sát, an
ninh của chính quyền. Phía phật tử bảo vệ nhục thân của các Thánh tử đạo
để tổ chức đấu tranh và tiến hành chôn cất theo các nghi lễ Phật giáo.
Phía chính quyền cướp xác để thủ tiêu đối tượng đấu tranh của “bọn phản
loạn.”
Ngày 17.8 hòa thượng Thích Tịnh Khiết,
hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, ra lệnh cho các chùa, các Phật học
viện, các niệm Phật đường, khuôn hội trên toàn miền Nam tổ chức lễ cầu
siêu cho các tăng ni đã vị pháp thiêu thân.
Ngày 18.8 hưởng ứng lời kêu gọi của đoàn
Sinh viên Phật tử Sài Gòn, hàng chục nghìn người tập trung về chùa Xá
Lợi tham gia cuộc mít tin tuyệt thực. Cũng trong ngày này, với lực lượng
Gia đình Phật tử, Sinh viên, Thanh niên Phật tử làm nòng cốt và tiên
phong, hàng triệu Phật giáo đồ trong các đô thị miền Nam đã tham dự các
cuộc mít tin, tuyệt thực, biểu tình…Tăng ni, Phật giáo đồ toàn miền Nam
cương quyết đấu tranh đến thành đạt các mục tiêu tự do và bình đẳng tôn
giáo cho dù phải hy sinh nhiều hơn nữa.
Chiến dịch Nước Lũ
Đêm 20 rạng ngày 21, một cuộc tổng tấn
công – tổng bố ráp của công an, cảnh sát dã chiến và Lực lượng Đặc biệt
của chính quyền Ngô Đình Diệm vào chùa Xá Lợi, chùa Ấn Quang, chùa
Théravada, chùa Giác Minh, chùa Từ Quang (tại Sài Gòn), chùa Từ Đàm,
chùa Linh Quang, chùa Bảo Quốc, chùa Diệu Đế (tại Huế), các chùa Tỉnh
Giáo hội và tất cả các chùa, các tư gia của tăng ni phật tử
lãnh tụ đấu tranh trên toàn miền Nam. Lực lượng chính phủ đập phá
các khu vực thờ tự, tượng phật, chuông mõ, kinh sách và bắt đi trên 1300
người riêng tại Sài Gòn. Ở Huế và các tỉnh thành còn lại có hơn 2000
người bị bắt. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, các thượng tọa Thích Tâm
Châu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, sư bà Diệu Huệ, cư sĩ Mai Thọ
Truyền, bác sĩ Lê Khắc Quyến, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nói chung, tất cả
các lãnh tụ đấu tranh, các trí thức phật tử có uy tín đều bị bắt. Nhiều
cuộc hành hung, xô xát đã diễn ra trong đêm kinh hoàng này. Rất nhiều tu
sĩ, phật tử đã bị đánh đá bằng báng súng, bằng dùi cui, ma trắc và bị
dẫm đạp xô đẩy đến thương tích. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết 80 tuổi bị
đánh trọng thương ở mắt. Hai mắt của tượng Phật Thích Ca tại chùa Xá Lợi
là hai viên kim cương cũng bị móc lấy đi, toàn thân bức tượng bị bắn sức
mẻ nhiều nơi. Cuộc tổng tấn công, tổng bố ráp của bạo lực Ngô Đình Diệm
đêm 20.8 đã biến các cảnh chùa trên toàn miền Nam thành những nơi hoang
tàn. Nhà sư Trí Quang không bị nhận diện, từ trại giam Bến Cát đã trốn
thoát, tìm đến tị nạn tại tòa Đại sứ Mỹ.
Khi nhẫn tâm tiến hành cuộc đàn áp đẫm
máu tối 8.5.1963 giết chết tám thiếu niên ở đài phát thanh Huế, anh em
Ngô Đình Diệm đã khai mở con đường đi vào tăm tối.
Lần này, khi hăm hở phát động cuộc tổng
tấn công bố ráp chùa chiền và bắt cóc toàn bộ các tăng ni, phật tử, trí
thức là những lãnh tụ đấu tranh, gia đình họ Ngô đã chính thức đào huyệt
mộ cho chính mình.
Câu hỏi mà nhà cầm quyền Mỹ đặt ra từ
khi tuyển chọn Ngô Đình Diệm và suốt 9 năm đưa ông lên làm tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa: “– Liệu chúng ta có thắng được Cộng Sản với Diệm hay
không?” nay đã có câu trả lời. Mỹ không thể thắng được Cộng Sản với Ngô
Đình Diệm chỉ được hậu thuẫn bởi một thiểu số nhân dân miền
Con đường độc tài Gia – đình – Thiên –
Chúa – giáo toàn trị và mưu đồ biến miền Nam thành một quốc gia riêng
biệt của chế độ Ngô Đình Diệm đã kiên định lập trường Cộng Sản nơi một
bộ phận quần chúng miền Nam, đã đẩy một bộ phận quần chúng khác nghiêng
về phía Cộng Sản, và đã trung lập hóa bộ phận quần chúng thứ ba còn lại.
Mỹ cộng với Diệm và 10% dân số miền Nam là Cần Lao Thiên Chúa giáo không
thể thắng 90% dân số miền Nam còn lại, cộng với
nhân dân miền Bắc, Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản, cộng với Liên Xô
và Trung Quốc. Hai bài toán cộng và một bài toán trừ trong 10 con số đơn
chẳng lẽ các nhà chiến lược Hoa Kỳ không nghĩ tới? Chắc đã có người nghĩ
tới, nhưng đa số trong chính quyền Mỹ vào thời điểm đó vẫn còn tin vào
sức mạnh vô địch của quân sự và đồng đô la như một tín điều tôn giáo.
Như thế là đến thời điểm đó (tháng
8.1963) Mỹ vẫn còn muốn ở lại Việt Nam, và khuynh hướng thay Diệm bằng
một nhân vật khác để đánh bại Cộng Sản trở nên thắng thế trong chính
giới Mỹ.
Trong hồi ký: Lễ Phật Đản 8.5.1963 (Minh
Nguyện dịch – Kỷ niệm 40 năm phong trào Phật giáo – Khuôn Việt xuất bản)
bác sĩ Wulff kể một chi tiết rất đáng quan tâm: Sau khi chứng kiến cảnh
đàn áp thô bạo tại Đài phát thanh Huế, sau khi nhìn thấy tận mắt 8 xác
chết bẹp đầu, mất tay, lòi mắt của các thiếu niên trong nhà xác bệnh
viện Huế, bác sĩ Wulff tìm đến nhà người bạn tên Tuân ( giáo sư Bùi
Tường Huân) để kể cho ông này nghe những gì đã xẩy ra.
“Tuân tức thời hiểu được tầm quan trọng chính trị của biến cố. Tuân nhận
định rằng những cuộc biểu tình khắp toàn quốc của các giới Phật tử sẽ
làm giảm uy tín ông Diệm, và cuối cùng người Mỹ sẽ bỏ rơi ông ta. Quân
đội vì sợ cúp viện trợ sẽ tìm cách lật đổ ông ta.”
Trí thức, Sinh viên
và quân đội nhập cuộc. Nhân dân miền
5 giờ 30 phút sáng ngày 21.8.1963, tổng
thống Ngô Đình Diệm triệu tập hội đồng chính phủ để thông báo tình trạng
khẩn cấp:
“Việt cộng đã mang vũ khí vào cất dấu tại các chùa Xá Lợi, Théravada,
Giác Minh, Từ Quang, và nhiều chùa khác trong thành phố. Việt cộng cũng
đã đột nhập thành phố và trà trộn trong các sư sãi. Những đơn vị chức
năng của chính phủ đã phát hiện kịp thời, đã tiến hành chiến dịch truy
quét bắt gọn bọn chúng, thu được nhiều vũ khí và tài liệu. Các lực lượng
chức năng trung thành với chính phủ đang và sẽ tiếp tục thi hành trách
nhiệm của họ”.
Trí thức, sinh viên,
đảng phái, các giáo phái khác (ngoại trừ Công giáo),
quân đội và toàn dân vào cuộc
Vừa nghe xong lời thông báo của tổng
thống Diệm, bộ trưởng ngoai giao Vũ Văn Mẫu đã phẫn nộ đập bàn phản đối
hành động dã man mà chính phủ đã chủ trương và đang thực hiện đối với
Phật giáo. Ông tuyên bố từ chức, bỏ cuộc họp ra về. Ông xuống tóc để bày
tỏ thái độ sám hối (vì đã cộng tác với chế độ độc tài gian ác đến thời
điểm đó), khẳng định lập trường quay lưng với chế độ và can đảm dấn thân
vào cuộc đấu tranh mà Phật giáo đang bỏ dở. Bất chấp hiểm nguy, ông xông
xáo đi vận động bạn bè và đồng nghiệp ở các trường đại học đứng lên thể
hiện vai trò và nhiệm vụ của người trí thức. Trước hành động bạo ngược
và âm mưu tiêu diệt Phật giáo của anh em Ngô Đình Diệm, hưởng ứng lời
kêu gọi của giáo sư Vũ Văn Mẫu, trí thức trong các đại học, trung học
cùng đông đảo sinh viên, học sinh Sài Gòn và các tỉnh miền Nam đã nhất
tề đứng lên.
Ngày 21.8 tại Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ
với sự xướng xuất của giáo
sư Lê Sĩ Ngạc, đông đảo sinh viên quyết định bãi khóa bày tỏ lập trường
chống chế độ.
Ngày 22.8 giáo sư Phạm Biểu Tâm, khoa
trưởng đại học Y khoa Sài Gòn tuyên bố từ chức. Ông bị bắt. Sinh viên và
giáo sư Y khoa đồng loạt biểu tình phản đối.
Chiều ngày 21.8 Ban Chỉ đạo Sinh viên
Liên khoa của các trường đại học ở Sài Gòn thành lập. Ban kêu gọi giáo
sư từ chức, kêu gọi sinh viên, học sinh bãi khóa, kêu gọi đồng bào các
giới ủng hộ cuộc đấu tranh của trí thức, sinh viên, học sinh chống chế
độ Ngô Đình Diệm. Hưởng ứng lời kêu gọi, Học sinh các trường Trưng
Vương, Gia Long, Võ Tường Toản tổ chức mít tin, biểu tình, bãi khóa.
Cuộc đấu tranh khởi đầu là của Phật giáo, đến thời điểm này trở thành
cuộc đấu tranh chung của đại đa số nhân dân Miền
Phản ứng và thủ đoạn của vợ chồng Ngô Đình Nhu
Ngày 22.8
Ngô Đình Nhu kêu gọi Thanh niên Cộng hòa cùng ông
“làm rõ chính sách”. Cùng
ngày, chính quyền thông báo rằng: Các cơ quan chức năng đã khám phá
nhiều hầm vũ khí của Việt cộng tại các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Théravada.
Nhiều ngàn người, đa số là sinh viên, học sinh bị bắt.
Ngày 24.8 chính quyền thành lập tổ chức
Phật giáo thuần túy nhằm thay thế Tổng hội Phật giáo Việt
Ngày 25.8 một cuộc mít tin, biểu tình
lớn với nhiều ngàn sinh viên học sinh tham dự được tổ chức trước chợ Bến
Thành. Cảnh sát đã bắn vào đám biểu tình. Nữ sinh Quách Thị Trang, 16
tuổi, bị trúng đạn chết. Nhiều người khác bị thương. Hơn 1000 sinh viên,
học sinh bị bắt nhốt vào trại Quang Trung.
Ngày 10.9
bà Ngô Đình Nhu cầm đầu một đoàn dân biểu đi dự Hội nghị Quốc tế
Nghị sĩ tại Nam Tư. Mục đích chính của đoàn là đi giải độc dư luận ở
Châu Âu và Bắc Mỹ về “những cáo buộc sai lầm và vu khống chế độ Việt Nam
Cộng Hòa đàn áp Phật giáo”. Cuộc giải độc của bà Nhu và các dân biểu gia
nô thất bại thảm hại. Báo chí quốc tế nghi ngờ những thông tin và phát
biểu của bà. Việt kiều la ó và ném trứng thối. Đến Mỹ, cha bà, Đại sứ
Trần Văn Chương, không cho gặp, tổng thống Kennedy từ chối tiếp kiến.
Khi báo chí hỏi về những lời phàn nàn của Giáo Hoàng Paul VI về tình
trạng đàn áp Phật giáo của chính quyền VNCH, bà Nhu cho rằng Giáo Hoàng
đã thiếu khôn ngoan vì đã đánh giá sai lệch về bà và anh em nhà Ngô
trong các hành động ứng xử với Phật giáo, và như thế sẽ có hại cho đạo
Công giáo.
Phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc – Thủ đoạn của Ngô Đình Nhu – Các tăng
ni, phật tử tiếp tục tự thiêu.
Ngày 5.10
nhà sư Thích Quảng Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành
Ngày 7.10 Đại
hội đồng Liên hiệp quốc nhóm họp để bàn về cuộc khủng hoảng tôn giáo ở
Việt
Ngày 21.10 một phái đoàn Liêp hiệp quốc
tới Sài Gòn để điều tra về những cáo buộc vi phạm nhân quyền và đàn áp
Phật giáo tại Việt
Ngày 27.10 nhà sư Thích Thiện Mỹ tự
thiêu trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. Trước khi tự thiêu nhà sư Thích
Thiện Mỹ đã viết bốn bức thư: Một gởi cho tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
Ngô Đình Diệm, một gởi cho hòa thượng Thích Tịnh Khiết, người lãnh đạo
tối cao của phong trào Phật giáo đấu tranh, một gởi cho ông U Than tổng
thư ký của Hội đồng Liên hiệp quốc, và một gởi cho phật giáo đồ Việt
Nam. Xúc động trước cái chết của nhà sư, đọc bốn bức thư của nhà sư để
lại, tôi viết trong nhật ký những dòng sau đây:
“ Này các
ông các bà, còn có tội ác và sự dối trá nào lớn hơn mà các vị đã không
làm chỉ để với mục đích huỷ diệt chúng tôi – những người chẳng có gì
khác ngoài niềm tin vào sự sống, tình thương và sự bình đẳng giữa chúng
sinh. Không có gì ở trên, ở trước, ở sau sự sống ấy, ngoài nỗi đau mà do
mê muội lầm lạc và ham muốn vô độ, chúng sinh – trong đó có chúng ta –
đã cùng chuốc lấy, đẩy xô nhau vào con đường bi thương tăm tối.
“ Đức Phật Thích Ca, thầy của chúng tôi, Người đã chỉ cho nhân
loại một con đường khác và những phương pháp thích hợp để
mỗi con người tự giải thoát ra khỏi nỗi khổ mênh mông như biển.
Con đường ấy nằm giữa dân tộc và nhân
loại.
Con đường
ấy luôn rộng mở, không tự biến thành pháo đài, thành gươm giáo, thành
bom đạn, để tiêu diệt bất cứ ai chưa dấn bước.
Không có chiến tranh, không có đầu rơi máu đổ, không có đau thương, chia
lìa, thù hận trên con đường Đức Phật đã chỉ.
“ Này các ông các bà, tội ác mà quí vị đã gây ra cho dân tộc Việt Nam,
cho chúng tôi – những người đi con đường của đức Phật – là vô cùng to
lớn. Để chống lại tội ác đó, chúng tôi không thể “máu kêu trả máu – đầu
kêu trả đầu,” bởi con đường đức Phật đã dạy cho chúng tôi là: Từ bi hỉ
xả đến cả muôn loài, huống hồ gì, quí vị và chúng tôi đều là dân
một nước là con một nhà. Trong cái tình cảnh chẳng đặng đừng như hiện
tại, chúng tôi chỉ còn biết đem sự sống của chính mình mà trang trải.
“ Đức Phật, người thầy của chúng tôi nói rằng: mầm hạt tốt lành
hiện hữu trong hết thảy mọi dạng thể của sự sống. Con đường ngài đã chỉ
và cách thế mà Phật giáo Việt Nam đã thể nghiệm, chúng tôi rất mong là
nó sẽ góp phần giảm trừ những mê lầm ác nghiệp, tiêu tán và hoá giải mọi
khổ nạn hận thù, góp phần đem lại hoà bình, an lạc cho dân tộc và nhân
loại…”
Trong khi ở bên trời Tây bà Ngô Đình Nhu
đang giẫy nẩy hờn giận cha mình, đang hậm hực tổng thống Mỹ, đang chê
trách đức giáo hoàng, đang bị la ó và ném trứng thối, thì ở Miền Nam
hàng chục ngàn tăng ni, phật tử, trí thức, sinh viên, thanh niên, học
sinh đang bị nhốt trong các trại giam. Có lẽ Ngô Đình Nhu nghĩ rằng nhốt
hết “bọn sư sãi nổi loạn” là ông và đảng Cần Lao Thiên Chúa giáo của ông
có thể làm chủ được tình hình Miền Nam. Ông tiếp tục đàn áp bắt bớ. Ông
làm mọi chuyện mờ ám để vô hiệu hóa Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc.
Ông mưu đồ dìm Diệm xuống, nâng mình lên để khỏi bị cấn cái bởi cái ông
anh tổng thống “mềm như sứa” mà vợ ông đã có lần mắng nhiết. Ngô Đình
Nhu lo ngại và đề phòng một vài phe nhóm do “bọn Mỹ xúi dục” hay thân
Phật giáo âm mưu đảo chính. Ông cũng tổ chức đảo chính giả để chống đảo
chính thật. Nhưng ông không ngờ dưới chân ông âm ỉ quá nhiều những đợt
sóng ngầm đang chờ cơ hội bùng lên nuốt chửng ông.
Biến
cố 1.11.1963 – Chế độ độc tài Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
Những đợt sóng ngầm xuất phát từ tòa đại
sứ và cơ quan CIA đại diện quyền lực Mỹ tại Sài Gòn – cái quyền lực đã
đưa anh em nhà Ngô lên làm chúa tể của miền Nam, và quân đội – những
người đã một thời cúc cung tận tụy với Ngô tổng thống “anh minh”, với
ông cố vấn “thông minh tài trí”, với ngài tổng giám mục quyền uy đại
công thần của giáo hội La Mã, với ông cậu cố vấn chỉ đạo chính trị –
lãnh chúa Miền Trung.
Trên nguyên tắc, đảo chính là công việc
của người Việt Nam, tòa Đại sứ hay CIA không can dự vào, vì như thế là
chen lấn vào nội bộ đồng minh. Nhưng trong thực tế, bất cứ nhóm chuẩn bị
đảo chính nào cũng có quan hệ với một nhân vật lớn nhỏ nào đó của Mỹ.
Không như thế, một khi đảo chính thành công các nhà cách mạng lấy viện
trợ đâu mà chống Cộng và xây dựng đất nước? Chống Cộng, từ năm 1954, đã
trở thành đại lý độc quyền của Mỹ, đồng thời là dịch vụ của anh em nhà
Ngô. Về phía Mỹ: bất cứ phe nhóm đảo chính nào muốn thành công, điều
tiên quyết là có trả lời được câu hỏi liệu có khả năng giúp Mỹ đánh
thắng Cộng Sản hay không. Nay thì người Mỹ đã biết chắc chắn rằng với
chế độc tài gia đình trị và Công giáo trị, anh em nhà Ngô sẽ không đáp
ứng yêu cầu đó của Mỹ, huống hồ gì họ còn cố tình bắn tiếng cho người mỹ
biết là họ sẽ bàn thảo với Hà Nội…
Theo tài liệu Lầu Năm Góc, từ sau khi vợ
chồng Ngô Đình Nhu tiến hành chiến dịch Nước Lũ (20.8.963), tại Sài Gòn
có đến 10 nhóm âm mưu đảo chính. Theo Đỗ Mậu, vào thời điểm đó có bảy
tám nhóm…Ba nhóm chính thức mời ông tham gia.(Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi. Hồi ký Đỗ Mậu).
Đỗ Mậu – đại tá, đang là giám đốc An
ninh Quân đội, là đồng chí thân cận của “ông Cụ” suốt 20 năm (1943 –
1963), nôn nóng vận động đảo chính để cứu chủ. Theo Đỗ Mậu, nếu để người
khác làm đảo chính, ông Diệm sẽ bị giết. Đỗ Mậu chỉ muốn lật đổ vợ chồng
Ngô Đình Nhu và đảng Cần Lao Thiên Chúa giáo để miền Nam thoát khỏi chế
độ độc tài tham nhũng nhằm chống Cộng hữu hiệu hơn.
Trần Kim Tuyến, nguyên là Giám đốc sở
Nghiên cứu Chính trị (Tình báo Trung ương ), bạn thân của Ngô Đình Nhu,
bị nghi ngờ, điều đi làm đại sứ, muốn quay trở lại để thực hiện cuộc đảo
chính mà ông đã hoạch định.
Phạm Ngọc Thảo – đại tá, đệ tử ruột của
tổng giám mục Ngô Đình Thục, nguyên là tỉnh trưởng, đang là thanh tra ấp
chiến lược, thỉnh thoảng được mời vào dinh Gia Long để đàm đạo với hai
ông Diệm – Nhu một số vấn
đề chính trị chiến lược. Phạm Ngọc Thảo cũng đang ráo riết vận động đảo
chính. (Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên Việt Cộng được cài vào gia đình
Ngô Đình Diệm từ sau 1954).
Trần Văn Đôn, đang giữ chức tổng tham
mưu trưởng quân đội VNCH, là bạn chí cốt của vợ chồng Ngô Đình Nhu, đại
công thần của Ngô triều, cũng khẩn trương tập họp đồng chí bày binh bố
trận lật đổ chế độ gia đình trị.
Tôn Thất Đính, trung tướng, đang là tư
lệnh quân đoàn 3 và tổng trấn Sài Gòn Gia Định, là người được hai ông
Nhu – Diệm tin cậy và trọng dụng nhất trong hàng các tướng. Tôn Thất
Đính ngã về phía phe đảo
chính không khó khăn gì, vì ông cũng rất bức xúc với Ngô triều.
Tóm một câu, tám chín mươi phần trăm các
tướng, tá, úy già cũng như trẻ của quân lực VNCH đều muốn có đảo chính,
hoặc đang tổ chức đảo chính.
Cuối cùng có khả năng đảo chính thành
công nhất là nhóm các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính,
Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Trần Thiện Khiêm… Tòa đại sứ Mỹ và CIA nhận
thấy như thế. Đa số các tướng tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng nhận
thấy như thế nên lần hồi qui tụ về chung quanh ngọn cờ Dương Văn Minh và
tham mưu trưởng Trần Văn Đôn để rồi làm nên cuộc đảo chính – cách mạng
1.11. 1963. Kết quả là hai ông Nhu – Diệm bị giết vào sáng ngày 2 tháng
11 trong chiếc xe tăng do Mỹ chế tạo. Ngô Đình Cẩn bị tòa án Cách mạng
thực hiện án tử hình mấy tháng sau. Bà Ngô Đình Nhu sau chuyến công du
giải độc không về nữa. Tổng giám mục Ngô Đình Thục cũng không về nữa vì
giáo hoàng đã gọi qua La Mã, trao cho ông một chức vụ và răn đe đôi điều
từ mấy tháng trước. Như thế là chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm
đã cáo chung. Nhân dân Sài Gòn,Huế và các tỉnh thành miền Nam ùa ra
đường phố nừng vui chào mừng cách mạng thành công, công kênh các tướng
lĩnh và quân nhân như những anh hùng.
Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung, các tăng
ni, phật tử, trí thức, thủ lãnh sinh viên, các tù nhân bị án oan, các tù
nhân chính trị đối lập lần lược được giải phóng. Những chính khách và sĩ
quan lưu vong lục tục quay trở về. Đa
số nhân dân trong các đô thị Miền Nam mừng vui đón chào cách mạng
thành công, ca ngợi các vị anh hùng quân đội, tố cáo tội lỗi, triệt hạ
các tàn tích tội ác của gia đình họ Ngô, trừng trị bọn tay chân Ngô
triều gây tội ác, truy quét dư đảng Cần Lao Nhân Vị.
|