Phong trào Phật giáo miền Trung – Huế
từ Chấn hưng đến Dấn thân

 

Chu Sơn

 

 

Lời nói đầu

 

        Tôi là người ngoại đạo. Rất mong các học giả, các nhà Phật học và những Phật tử trong cuộc xem những trang viết này là một cảm nhận lịch sử. Tâm nguyện của tôi là góp thêm một tiếng nói, một cách tiếp cận vấn đề để các nhà chuyên môn có thẩm quyền dễ dàng hơn trong việc truy tìm tư liệu và nghe ngóng từ những góc nhìn khác nhau. Độc giả đời sau rất cần những nhận định phải chăng chứ không cần những “công trình nghiên cứu khách quan”. Lịch sử chẳng bao giờ khách quan cả. Dân tộc và nhân loại bao giờ cũng cần những tiếng nói phải chăng (trung đạo) và những nỗ lực hòa giải, hòa hợp và hòa bình. Tôi rất mong nhận được những tiếng nói phải chăng từ bạn đọc tôn kính.

 

Chu Sơn (chuson1112@yahoo.com)

 

   (Phần I sẽ đăng sau)

 

Phần Hai

Phong trào Phật giáo Miền Trung - Huế
thời kỳ dấn thân (1954-1966)

 

Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Genève, vĩ tuyến 17, sông bến Hải là những từ gây chấn động mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc trong tâm thức nhân dân Việt Nam.

Sau gần một trăm năm kháng chiến với rất nhiều đau thương, mất mát, hy sinh, vào giai đoạn cuối, nhân dân Việt Nam với sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã giành lại độc lập, chủ quyền trên một nửa đất nước: miền Bắc. Một nửa còn lại: miền Nam, nằm trong vòng kim cô của đế quốc Hoa Kỳ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của vinh quang và tự hào dân tộc. Đồng bào theo đạo Phật chia sẻ niềm vinh quang và tự hào ấy. Công cuộc chấn hưng đã góp phần, bước đầu làm sống lại tinh thần Phật giáo Lý – Trần, đã nối kết người phật tử với thân phận đất nước. Tăng sĩ, phật tử cũng tham gia “sát thát” như bất cứ người Việt Nam yêu nước nào.

Đất nước bị chia cắt, cuộc ra đi từ miền Bắc (di cư) của non một triệu con người, cuộc ra đi từ miền Nam (tập kết) của hàng trăm ngàn con người khác. Những biến cố này là nỗi đau, là món nợ, là sự nghiệp dở dang, là niềm ray rứt, hy vọng, là cơ hội để thực hiện một hoài bảo, một mưu đồ, một tham vọng… Mỗi cảm nhận, mỗi động thái tâm hồn, mỗi toan tính và hành động thể hiện tâm thức của từng bộ phận quần chúng nhân dân, kể cả từng cá nhân, gia đình trước khúc quanh lịch sử.

Xâm lược và đô hộ, thực dân và đế quốc, đàn áp và bóc lột, chém giết và tù đày, nô lệ và đói nghèo, cuộc kháng chiến trường kỳ và vô cùng khắc nghiệt, ý thức hệ, chánh kiến, tôn giáo, đảng phái, địa phương, địa bàn cư trú, thành phần xã hội, quyền lợi, địa vị, danh vọng… tất cả những thứ ấy cộng lại và nhiều thứ khác nữa đã tích tụ, đã tác động qua lại làm nên VẤN ĐỀ MIỀN NAM và VẤN ĐỀ VIỆT NAM với những điểm mốc thời gian: 1954, 1960, 1963, 1968, 1973, 1975. Phật giáo Việt Nam, Phật giáo miền Trung – Huế vào những thời điểm đặc biệt ấy đã thể hiện sự tham dự của mình. Sự tham dự mà như sự mong ước của nhà sư Trí Quang, người khởi xướng và chung sức lãnh đạo phong trào Phật giáo Dấn thân 1963 – 1966: trong cơn nghiêng ngửa của đất nước, ai (đảng Cộng sản, kể cả người Mỹ và thế giới (Chu Sơn) nhìn vào Phật giáo cũng nghĩ rằng đất nước này còn có cái ấy (Tiểu truyện tự ghi – Thích Trí Quang).

 

    

Chương I

Bối cảnh miền Nam Việt Nam sau Genève

Chế độ độc tài Ngô Đình Diệm

 

Điều 1 (chương một) của hiệp định Genève về Việt Nam qui định: “một đường ranh giới quân sự tạm thời được vạch ra để tập kết lực lượng quân sự của hai bên về phía sau”.

Mục 6 của tuyên bố cuối cùng ( không có chữ ký) nói rõ rằng: “ đường ranh giới quân sự là tạm thời và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được coi là biên giới lãnh thổ hay chính trị”.

Như vậy, vĩ tuyến 17 không phải là lằn ranh giới chia hai đất nước. Vĩ tuyến 17 chỉ là lằn ranh tạm thời giữa hai khu phi quân sự. Hai bên rút quân về phía sau khu phi quân sự ấy. Quân Pháp ở phía Nam, Việt Minh ở phía Bắc. Sau đó người Pháp rút quân về nước, và “một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức hai năm sau ngày hiệp định được ký kết để bầu chọn ra một nhà cầm quyền cho quốc gia Việt Nam Độc lập và Thống nhất”.

Tinh thần hiệp định Genève là như thế.

Nhưng các bên liên hệ đã làm gì trước và sau khi hiệp định được công bố? Ngày nay ta không khó lắm để mô tả mưu đồ và hành động của mỗi bên.

Về phía Mỹ: Mỹ là một trong chín bên tham dự hiệp định Genève về Đông Dương, tám bên còn lại là: Pháp, Liên Xô, Anh, Trung Quốc, Campuchia, Lào và hai phía Việt Nam là chính phủ Hồ Chí Minh, chính phủ Bảo Đại thuộc Pháp. Nhưng Mỹ đã không ký vào Tuyên bố cuối cùng tại Genève. (do Mỹ không ký, nên các nước khác cũng không ký).

Sách lược của Mỹ về Đông Dương sau chiến tranh thế thứ hai là:

-- Một: Ủng hộ Pháp phục hồi lại các  thuộc địa, tích cực giúp Pháp tái chiếm Đông Dương. Sử dụng Pháp như một tên lính đánh thuê để thực hiện sách lược toàn cầu của Mỹ ở châu Á.

-- Hai: Từ năm 1950 khi thấy Pháp sa lầy ở Việt Nam, Mỹ dần dần muốn đẩy Pháp ra và tự mình đảm trách vai trò cảnh sát quốc tế ở khu vực này. Việc tuyển chọn Ngô Đình Diệm (từ sau 1950), điều đình với Pháp, trả giá với Bảo Đại, cấu kết với giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã để đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng, và bày bố mưu ma chước quỉ để Ngô Đình Diệm chiếm đoạt mọi quyền lực và biến miền Nam thành một tiền đồn chống Cộng là những mắc xích nằm trong xâu chuổi sách lược của Mỹ ở Việt Nam, Đông Dương. Đông Nam Á và châu Á. Sách lược này bất chấp các quyền lợi tinh thần, vật chất của nhân dân, đất nước Việt Nam. Chính Mỹ là con ác chủ bài phá bỏ hiệp định Genève. Chưa đầy hai tháng sau khi hiệp định Genve chính thức công bố, Mỹ và các nước Úc, Tân Tây Lan, Hàn Quốc, Phi Luật Tân, Thái Lan ký kết hiệp ước  Liên Phong Đông Nam Á (SEATO), mặc nhiên xem Nam Việt Nam là vùng phu sóng của Mỹ.

Về phía tập đoàn Ngô Đình Diệm: Trong khi Mỹ muốn biến miền Nam thành một tiền đồn chống Cộng theo sách lược toàn cầu của họ, thì Ngô Đình Diệm nương nhờ thế lực Mỹ để thực hiện mưu đồ cát cứ lâu dài, tách miền Nam ra khỏi đất nước Việt Nam, xây dựng vùng lãnh thổ này thành một nước riêng biệt, một quốc gia độc tôn Thiên Chúa giáo.

Để thực hiện tham vọng đen tối chống lại quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc, Ngô Đình Diệm và tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa giáo của ông, một mặt ngang ngược phá bỏ hiệp định Genève, một mặt tiến hành các biện pháp sau:

      1/ Lật đổ Bảo Đại, người đã bổ nhiệm ông làm thủ tướng và đã quì lạy hứa trung thành “với hoàng thượng” trước khi trở về Việt Nam.

       2/ Tiêu diệt các đảng phái, các giáo phái.     

       2/ Tiến hành các chiến dịch đẫm máu tố Cộng, diệt Cộng, bắt bớ tra tấn và giết hại hàng chục ngàn người cựu kháng chiến, làm tan nát hàng trăm ngàn gia đình có thân nhân đi tập kết.

       4/ Thực hiện một kế hoạch lâu dài nhằm hạn chế, đàn áp và tiêu diệt Phật giáo.

Về phía miền Bắc, bên duy nhất thành thật muốn thi hành hiệp định Genève, đảng Cộng sản và chính phủ Hồ Chí Minh đã:

      1/ Triệt thoái hết lực lượng quân sự về phía bên kia bắc vĩ tuyến17. Để lại miền Nam những cán bộ chính trị nhằm vận động nhân dân đấu tranh để chính quyền Ngô Đình Diệm chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản của hiệp định Genève, tiến tới hiệp thương, tổng tuyển cử. Miền Bắc phải trả giá cho ảo tưởng chính trị này bằng cái chết hoặc tù đày gần trăm ngàn cán bộ đã trưởng thành trong kháng chiến và rất nhiều các cơ sở của họ.

      2/ Tiến hành cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc theo mô hình và sự chỉ đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc.

      3/ Đến khi không còn hy vọng gì chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành hiệp định Genève, thì đảng Cộng sản và chính phủ Hồ Chí Minh mới vận động sự trợ giúp của Liên Xô, Trung Quốc để phát động chiến tranh giải phóng. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời vào tháng 12 năm 1960 là hành động chẳng đặng đừng. Bởi “đất nước này là một, dân tộc này là một trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa.”

Đại thể tình hình chính trị ở miền Nam và cả Việt Nam sau hiệp định Genève là như thế. Còn tại Huế – miền Trung toàn cảnh xã hội ra sao?

Hơn bất cứ nơi nào trên cả miền Nam, chế độ Ngô Đình Diệm đã thực thi tại miền Trung – Huế các sách lược cực kì thất nhân tâm, nham hiểm và tàn ác:

      -- Huế là kinh đô của nhà Nguyễn, việc truất phế Bảo Đại và tước đoạt một số tài sản của Hoàng tộc đã gây bất mãn, khinh bỉ và căm giận trong đa số các giới thuộc cựu trào.

      -- Huế là kinh đô của Phật giáo, việc kì thị, bêu riếu, hạn chế, đàn áp và tiêu diệt Phật giáo đã thúc đẩy đồng bào Huế theo đạo Phật đoàn kết lại và đấu tranh sinh tồn với chế độ.

      -- Huế – miền Trung là xứ sở của những cực đoan chính trị, là nơi hoạt động sôi nổi của các đảng phái. Việc tố Cộng, diệt Cộng bằng các biện pháp Phát - xít và thanh toán các đảng Đại Việt, Quốc Dân Đảng đã biến anh em nhà họ Ngô thành kẻ thù không đội trời chung của tất cả.

      -- Huế – miền Trung là một khu vực kinh tế nghèo nàn, việc Ngô Đình Cẩn và anh em nhà họ Ngô bắt bớ, tống tiền, làm nhục và cướp bóc tài sản của một số thương gia, nhà doanh nghiệp đã khiến giới doanh thương hoảng sợ tìm đường làm ăn nơi khác, những người còn lại đa phần là tiểu thương âm thầm chịu đựng và khinh ghét chế độ. Đường lối kinh tế của tập đoàn Ngô Đình Diệm là bỏ rơi nông dân và dân nghèo thành thị, bao che cho địa chủ và bọn tư sản mại bản. Viện trợ Mỹ tập trung vào túi không đáy của bọn tham nhũng, vào bộ máy quân sự, công an mật vụ, thông tin tuyên truyền, hành chính thư lại.

Chính sách văn hoá giáo dục phục vụ cho mưu đồ cát cứ, nhân danh chủ nghĩa chống Cộng mà chống phá miền Bắc, cản ngăn việc thống nhất đất nước, tuyên truyền chủ nghĩa Duy linh – Nhân vị, thần thánh hoá anh em nhà họ Ngô, và cuối cùng là chống phá Phật giáo.

Một thị xã nhỏ như Huế mà có đến bốn trường trung học Thiên Chúa giáo: Pellerin, Providence, Jean D’art và Việt Hương. Tất cả các huyện thuộc lãnh thổ Thừa Thiên, Quảng Trị đều có trường tư thục do các Tu sĩ, Linh mục đảm trách. Trường Quốc Học đổi tên thành trường Quốc Học Ngô Đình Diệm. Viên đại học Huế do Linh mục làm Viện trưởng, phụ trách giảng dạy các môn văn sử và triết đa phần là Linh mục, Tu sĩ và Giáo sư Thiên Chúa giáo. Sách giáo khoa các môn học trên tập chú tuyên truyền cho đạo và nền văn minh Thiên Chúa giáo.

Tất cả các mưu đồ, sách lược và động thái của chính quyền Ngô Đình Diệm từ việc thay đổi các thành phần viên chức, thành phần dân cư theo tiêu chí Thiên Chúa giáo, đến việc đánh phá tiêu diệt niềm tin, nhân sự các bộ phận quần chúng ngoài Thiên Chúa giáo đều nhắm đến mục tiêu cuối cùng là biến Huế – miền Trung và cả miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, một nước Thiên Chúa giáo dưới sự quan phòng của đức Chúa Trời – “Đấng sáng tạo ra muôn loài có quyền năng và giá trị tuyệt đối”. Đất nước, Dân tộc và các nền văn hoá, văn minh khác chẳng là cái gì cả trước mắt giáo hội và số đông người Thiên Chúa giáo vào thời buổi ấy. Càng ngày đồng bào theo đạo Phật miền Trung – Huế càng thấy rõ nguy cơ Đạo pháp và Dân tộc bị huỷ hoại bởi chính quyền anh em nhà họ Ngô.

Nhưng nguy cơ đâu chỉ có đến từ một phía.

Đồng bào theo đạo Phật ở miền Trung – Huế, đặc biệt là thành phần trí thức (sau chấn hưng trí thức phật giáo tăng trưởng mạnh và đông) cảm nhận một nguy cơ đến từ phía khác: đó là chiến tranh và chủ nghĩa Cộng sản. Khi không thống nhất đất nước theo con đường hoà bình và theo tinh thần hiệp định Genève, đảng Cộng sản và chính phủ Hà Nội chắc chắn sẽ tiến hành chiến tranh giải phóng miền Nam, nối liền Nam – Bắc và xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản trên cả nước Việt Nam thống nhất. Đối với Phật giáo chiến tranh không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Và chủ nghĩa Cộng Sản theo sách vở và những thông tin họ nhận được qua báo chí, đài phát thanh, qua những người đồng đạo trở về từ bên kia giới tuyến, và đặc biệt qua kinh nghiệm bản thân – thì luôn luôn xem tôn giáo là kẻ đồng hành với phản động và lạc hậu. Trong kháng chiến chống Pháp hầu như tất cả các chùa chiền, sư tăng, phật tử đã không nhiều thì ít, không trực tiếp thì cũng gián tiếp, đều tham gia. Và kinh nghiệm đứng chung chiến hào với người Cộng Sản, số đông trong họ đinh ninh rằng bạo lực cách mạng sẽ quay chỉa về phía tôn giáo (trong đó có Phật giáo) sau khi đánh đuổi được ngoại xâm. Điều đang lưu ý là giới trí thức Phật giáo, sau buổi cầu siêu Thích Trí Thuyên và các tăng ni phật tử hy sinh trong kháng chiến tại chùa Bảo Quốc năm 1948, đã bắt đầu nghiên cứu học thuyết Cộng Sản tương đối có bài bản. Lần hồi họ nhận ra rằng chủ nghĩa Mác – Lê và Phật giáo có những khác biệt rất căn bản. Người Cộng Sản chủ trương duy vật và vô thần. Người Phật giáo chủ trương duy thức, không duy vật cũng không vô thần. Người Cộng Sản cho rằng những đau khổ trong mọi giai đoạn lịch sử là do giai cấp thống trị bóc lột và đàn áp người cùng khổ. Trong khi đó người Phật giáo cho rằng mọi đau khổ nơi trần thế là do tham sân si của mỗi con người trong tất cả mọi giai cấp chứ không trừ một cá nhân hay giai cấp nào. Người Cộng Sản chủ trương đấu tranh giai cấp bằng bạo động, và chỉ có bạo động. Người Phật giáo chủ trương đấu tranh để chuyển hóa các thực tại đau khổ bằng phương pháp bất bạo động, và chuyển hóa trong hòa bình…

Tình thế của Phật giáo từ sau hiệp định Genève là trên đe dưới búa.

Hồi năm 1972 ở trại thẩm vấn, nhà sư Thích Như Ý còn nói với tôi:

“Đấu tranh với chính quyền Ngô đình Diệm là khó, nhưng không khó bằng sống chung với người anh em Cộng Sản. Trong chế độ Ngô Đình Diệm số người có lí tưởng không nhiều. Bản chất của chế độ ấy là tham vọng độc tôn và quyền lợi tầm thường, điểm tựa dân tộc còn chông chênh hoặc không có. Cụ Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam thì ý thức, tình cảm dân tộc sâu sắc và mạnh mẽ nhưng tạm thời. Chủ nghĩa Cộng Sản đối với các vị là lí tưởng lâu dài. Lí tưởng ấy đối với cụ Hồ và các đệ tử của cụ là  để phục vụ dân tộc ở thời kỳ đầu, về sau phục vụ giai cấp vô sản và phong trào Xã hội Chủ nghĩa trên toàn thế giới. Phật giáo và Cộng Sản có một chút gần gủi ở mục tiêu dân tộc. Còn mục tiêu Xã hội Chủ nghĩa đối với Phật giáo rất xa lạ về lý thuyết lẫn thực hành”. Sư Như Ý còn nói thêm một câu mà cho đến nay tôi chưa hiểu hết:

“Nhiều người tiếc là Marx chưa tiếp cận với phương thức sản xuất châu Á. Tôi chỉ tiếc là Marx chưa tiếp cận đạo Phật và Dịch lí”.

Để thoát ra khỏi các nguy cơ trước mắt (chế độ Ngô Đình Diệm) và lâu dài (chủ nghĩa Cộng sản) như ở trên tôi đã trình bày, để khẳng định mình là một bộ phận sinh lực có quyền tồn tại và có trách nhiệm trước vận mệnh Đất nước, Dân tộc và Đạo pháp, Phật giáo Miền Trung – Huế đã chuyển mình qua giai đoạn khác, giai đoạn dấn thân.

Trong “tiểu truyện tự ghi” của nhà sư Thích Trí Quang có một đoạn như sau:

“Giáp ngọ 2946 (1954), kháng chiến chống Pháp kết thúc. Miền Nam ông Ngô Đình Diệm đứng ra. Việc này được biết rõ khi hội nghị Genève sắp kết thúc. Lần chót trước khi đất nước phân cách, mẹ con tôi đã nói chuyện với nhau khá nhiều. Rốt cuộc mẹ tôi bảo, vậy là miền Nam “quạ lang” vẫn hoành hành. Thôi thì con đi mà báo bổ cho Phật. Tôi đi và Ất mùi 2499 (1956? Chu Sơn) tôi nhân chức vụ hội trưởng Tổng trị sự hội Phật học, vận động đổi tên Phật học ra Phật giáo. Đưa Tổng Hội Phật giáo Viêt Nam vào đặt trụ sở tại Sàì Gòn, rồi nghỉ việc cho đến Quí Mão 2507 (1963) nhận lại chức vụ nói trên. Với chức vụ này, Phật Đản năm ấy tôi phát động, và chung sức lãnh đạo việc chống chế độ Ngô Đình Diệm. (Buddhismtoday.com).

Đoạn tự truyện này chứa đựng nhiều thông tin. Tôi chỉ nêu mấy điểm chính:

-- Thứ nhất: Vào thời điểm trước khi hiệp định Genève ký kết, nhà sư Trí Quang lúc bấy giờ vừa bước tới tuổi trung niên (ông sinh năm1923). Ông không ở lại trên miền Bắc mới được hoàn toàn giải phóng để xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, mà ông đi vào Nam để lo “báo bổ cho Phật”. Là một người hoạt động tôn giáo, vào thời điểm ấy (1954) ông biết rất rõ là không có vai trò trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa. Vả lại, chế độ Xã hội Chủ nghĩa cũng không cần ông trong tư cách một nhà tu hành chính danh.

Là một trong những người con ưu tú của Phong trào Chấn hưng, ông phải đến cái nơi mà tình thế cần. Nơi ấy “quạ lang” đang “hoành hành”, Phật đang cần được báo bổ”. Bởi nơi ấy, ông Ngô Đình Diệm – vị thượng thư đầu triều đạo Thiên Chúa dòng năm nào, nay đã “đứng ra”. Phải chăng đây là lời tiên báo, là cuộc dấn thân của một nhân vật tự biết mình sẽ nắm giữ vai trò “phát động” vàchung sức lãnh đạo” việc chống chế độ Ngô Đình Diệm? Hay, đây là một biện chứng tất yếu, một hành xử mẫu mực của một trong những thành tựu mà phong trào Phật giáo Chấn hưng đã dày công un đúc?

-- Thứ hai: là những lời mà nhà sư Trí Quang đã không ghi lại trong Tiểu truyện tự ghi. Ấy là: Phật giáo miền Trung – Huế đã làm gì, đã chuẩn bị ra sao trước khi vào cuộc? Đương nhiên là trong từng ấy năm trời (1954 – 1963) những người khởi xướng, lãnh đạo phong trào cùng với đông đảo các phật tử, quần chúng của họ, đã làm biết bao công việc để: chỉ với kinh kệ, chuông mõ, với tinh thần vô uý, chỉ với ánh sáng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi, chỉ với phương pháp bất bạo động, chỉ với niềm tin mãnh liệt và bền vững vào đạo pháp, họ đã đỉnh đạc đương đầu với các thứ ma chướng bạo tàn và hung hiểm từ chế độ Ngô Đình Diệm, để rồi góp phần quyết định đánh bại nó.

Trong khi tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa giáo Ngô Đình Diệm ồn ào phát động các chiến dịch bài Phong, đã Thực, diệt Cộng đằng đằng sát khí với máy chém và súng đạn, bắt bớ, tra tấn, tù đày, chém giết, thì bộ phận đầu não của phong trào Phật giáo Dấn thân Miền Trung – Huế, một mặt kiên trì khiếu nại, phản kháng và tố cáo các hành động tội ác của chính quyền đối với phật tử ở nhiều địa phương trong phạm vi luật pháp của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, một mặt âm thầm mà quả quyết tiến hành các chương trình kế hoạch, tổ chức và phát triển lực lượng để sẳn sàng thách đấu khi thời cơ đến:

* Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo tăng ni với qui mô lớn hơn, cải cách và nâng cấp chương trình, nội dung, phương pháp thích ứng với cơ, lý của đất nước và thế giới trong thời đại mới. Xây dựng Phật học viện Hải Đức, biến Nha Trang thành một trung tâm Phật giáo lớn của miền Nam. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tăng ni tiếp cận có chọn lựa một số môn học thuật ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập, kể cả việc gởi tu sĩ đi du học ở các học viện Phật giáo Thế giới.

* Mạng lưới các trường tư thục Bồ Đề từng bước tăng cường và mở rộng không những ở Huế mà ở nhiều tỉnh thành, huyện lị miền Nam. Trước năm 1963 mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm tìm đủ mọi cách làm khó dễ, ngăn chặn, phá hoại, số lượng các trường Bồ Đề có đến con số trăm.

* Cũng cố và phát triển hệ thống giáo hội các cấp. Mặc dù Tổng hội Phật giáo Việt Nam đã được thành lập ở Huế từ năm 1951, và sau đó Giáo hội Tăng già Toàn quốc cũng được ra mắt tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Tuy nhiên trong thực tế, các Tổng hội và Giáo hội thống nhất chỉ hiện hữu trên danh nghĩa, không phát huy được chức năng, tác dụng như mong ước của phật tử cả nước và các nhà lãnh đạo Phật giáo Miền Trụng. Bù lại Giáo hội Miền Trung – Huế lại tỏ ra đoàn kết, năng nổ và tích cực hoạt động. Trước tình hình miền Nam “quạ lang hoành hành”“Ngô Đình Diệm đứng ra”, sự năng nổ và tích cực ấy càng gia tăng.

Một mặt Phật giáo Miền Trung – Huế ra sức củng cố, phát huy vai trò, năng lực của các cấp giáo hội từ trung ương xuống địa phương, một mặt mở rộng mạng lưới các chùa, học viện, ni viện ở trong và ngoài khu vực miền Trung. Phật học viện Hải Đức được xây dựng ở Nha Trang từ sau 1954. Từ thời điểm này, Nha Trang từng bước trở thành trung tâm Phật học lớn của Miền Nam. Năm 1973 tôi có dịp đến Sa Đéc cùng với vị Đại đức hiệu trưởng trường Bồ Đề, Đại đức đưa tôi đi thăm Ni viện gần kề. Ni viện trưởng là một sư bà rất nổi tiếng tại các tỉnh miền Tây Nam bộ trong phong trào đấu tranh đòi thi hành hiệp định Paris. Thì ra Ni viện này do sư bà Diệu Không từ Huế vào kiến lập đã 15 năm trước đó (1958). Cũng năm 1973 tôi đến một nơi gọi là Quảng Hương – Già Lam ở Gò vấp (Sài Gòn), được biết ngài Trí Thủ đã khai mở cơ ngơi to lớn này từ năm 1956. Rất nhiều “chùa Huế” đã mọc lên trên đất Nam bộ sau mốc điểm lịch sử 1954 trong xu thế chuyển mình từ Chấn hưng qua Dấn thân của Phật giáo Miền Trung –  Huế.

* Phát triển Gia Đình Phật Tử: Song song với sự phát triển của mạng lưới chùa chiền, Phật học viện, Niệm phật đường và Khuôn hội, Gia Đình Phật Tử của các tỉnh miền Trung – Huế lớn lên không ngừng cả lượng và chất. Trước năm 1945, so với tổ chức Hướng Đạo Sinh, Gia Đình Phật Tử (lúc bây giờ là Gia Đình Phật Hoá Phổ) còn quá khiêm tốn. Sau 1954, tổ chức Phật tử trẻ tuổi này đã tỏ ra ngang ngửa bên cạnh anh bạn lớn tuổi của mình – tổ chức Hướng Đạo. Tại Thừa Thiên Huế vào năm 1963, đã có trên một trăm Gia Đình Phật Tử. Phật tử sinh hoạt bên cạnh các Khuôn hội và Niệm phật đường. Rất nhiều huynh trưởng Gia Đình Phật Tử có học vấn cao (tốt nghiệp đại học hay tương đương) và có trình độ chuyên môn vững vàng nên hoạt động Gia Đình Phật Tử là rất hữu ích, có uy tín không những trong Phật giáo đồ mà còn gây được thiện cảm ngoài xã hội.

* Phát hành báo chí: Từ sau 1954, Phật Giáo miền Trung – Huế  xuất bản tạp chí Liên Hoa và là lực lượng chính điều hành tạp chí Phật giáo Việt Nam – cơ quan ngôn luận trên danh nghĩa của Tổng Hội Phật Giáo Miền Nam.

Từ cuối năm 1955, Liên Hoa nguyệt san là cơ quan truyền bá Phật pháp của Giáo hội Tăng già Trung Việt, do thượng tọa Thích Đôn Hậu làm chủ nhiệm, nhà sư trẻ Thích Đức Tâm làm chủ bút và sư bà Diệu Không làm quản lý. Liên Hoa nguyệt san là hậu thân của Liên Hoa văn tập của Liên Hoa Tùng Thư do sư bà Diệu Không chủ trương. Ngoài phần nghiên cứu (lịch sử Việt Nam và Phật giáo) và dịch thuật kinh điển Phật giáo, Liên Hoa còn chuyển tải tinh thần đạo Phật, lập trường và hướng đi của Phật giáo miền Trung trước tình hình và bối cảnh mới của miền Nam qua các sáng tác thơ, văn, nhạc, họa và các tin tức Phật sự. Cộng tác viên thường trực của Liên Hoa là Thích Trí Quang, Võ Đình Cường, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Đăng Trí, Trụ Vũ, Thanh Thuyền, Nguyễn Thái… Thỉnh thoảng các nhà sư đang du học nước ngoài cũng gởi bài về đóng góp, như Minh Châu, Thiên Ân, Mãn Giác. Liên Hoa phát hành khắp các tỉnh thành miền Trung và cả Sài Gòn. Độc giả của Liên Hoa không chỉ là phật tử. Nhiều độc giả ngoài Phật giáo tìm đọc Liên Hoa mỗi tháng vì ở đó chứa đựng nhiều nội dung mà họ quan tâm. Cuối năm 1966 Liên Hoa đình bản.

* Như chúng ta đã biết, năm 1951, sáu tập đoàn Phật giáo của ba miền Bắc, Trung, Nam đã họp đại hội ở chùa Từ Đàm để thống nhất ý chí trong một giáo hội duy nhất là Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Tháng 4 năm 1956, Tổng hội Phật giáo Việt Nam họp đại hội kỳ II tại chùa Phước Hòa và chùa Ấn Quang. hòa thượng Thích Tịnh Khiết được đại hội tái cử làm hội chủ, hòa thượng Thích Huệ Quang và cư sĩ Chơn An được cử làm phó hội chủ, cư sĩ Mai Thọ Truyền làm tổng thư ký, thượng tọa Thích Tâm Châu làm ủy viên nghi lễ. Hòa thượng Huệ Quang còn được đại hội giao nhiệm vụ tổ chức cơ quan ngôn luận cho Tổng hội. Nguyệt san Phật giáo Việt Nam hình thành do hòa thượng Thích Huệ Quang làm chủ nhiệm, nhà sư trẻ Thích Nhất Hạnh làm chủ bút. Tạp chí Phật giáo Việt Nam qui tụ nhiều cộng tác viên có uy tín lúc bấy giờ như Tuệ Uyển, Thiện Hoa, Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Hữu Ba, Huyền Không, Thạc Đức, Trí Đức, Minh Châu, Thanh Từ, Kao Khả Chính, Tắc Phước, Như Thuyên, Võ Đình Cường, Thiên Ân, Đức Nhuận, Tâm Quán, Tâm Hỷ, Tâm Châu, Minh Đức, Trọng Đức, Thiều Chi, Lê Văn Định, Thẩm Oánh, Tống Anh Nghị, Dã Thảo, Trúc Diệp, Dương Xuân Dưỡng, Kiêm Minh…

Phật giáo Việt Nam là một tạp chí chuyên về đạo Phật, nhưng nội dung và hình thức chuyển tải phong phú, và đa dạng. Tinh túy của Phật giáo được thể hiện qua nhiều loại hình hoạt động văn hóa tư tưởng, nghệ thuật bao gồm luận thuyết, thơ, nhạc, họa, kịch, truyện, nghiên cứu lich sử, văn hóa dân tộc và thế giới.

Chủ nhiệm Thích Huệ Quang điều hành tạp chí Phật giáo Việt Nam đến số thứ ba thì qua đời đột ngột vì tai biến mạch máu não trong lúc cầm đầu phái đoàn Phật giáo Việt Nam đi dự hội nghị Phật giáo Liên Hữu lần thứ tư tại Nepal. Từ số thứ tư trở đi nhà sư Thích Nhất Hạnh là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tình hình Phật giáo sau đại hội II cũng chỉ thống nhất trên hình danh, các tập đoàn vẫn giữ nguyên bản vị trong việc điều hành những Phật sự quan trọng. Do vậy tạp chí Phật giáo Việt Nam chỉ thể hiện ý chí của  Phật tử  miền Trung hơn là tiếng nói chung của chức sắc lãnh đạo các tập đoàn khác. Tạp chí không được các tập đoàn đóng góp về mặt tài chính và quảng bá nên chỉ tồn tại được 28 số, đến giữa năm 1969 thì đình bản. Trong 28 số đó, Phật giáo Việt Nam thể hiện ba nội dung:

1/ Phê phán nghiêm khắc tình trạng “Ngã tướng” khống chế các tập đoàn, gây “mâu thuẫn nội bộ”, “cản trở công việc đối ngoại”, “phá vỡ các chương trình, kế hoach to lớn và tốt đẹp” được đề ra bởi Tổng hội, phá vỡ sự đoàn kết, ý chí và khát vọng thống nhất của đông đảo tăng ni và quần chúng Phật tử.

2/ Xây dựng bản sắc và nền tảng Tư Tưởng cho Phật giáo Việt Nam. Nhận thức rằng Phật giáo và đồng bào theo đạo Phật đang ở giữa hai ý thức hệ và hai thế lực chính trị, quân sự tương tranh. Một bên là chủ nghĩa duy vật vô thần, ý thức hệ và phe Xã hội Chủ nghĩa; và một bên là chủ nghĩa duy linh nhất thần, ý thức hệ Tư sản và phe Thế giới Tự do.  Phật giáo từ bản chất là  duy thức và trung đạo trên nền tảng tư tưởng Duyên sinh và Cộng nghiệp. Phật giáo không chủ trương đấu tranh với thiên nhiên, với con người, mà đấu tranh với các thứ ma chướng tích lũy lên từ tham sân si. Tạp chí Phật giáo Việt Nam vận dụng tư tưởng uyên nguyên của đạo Phật, phát huy tư tưởng cư trần lạc đạo của Phật giáo Lý – Trần, khế hợp với tư tưởng tự do, dân chủ và tinh thần khoa học làm nền tảng tư tưởng cho Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

3/ Phật giáo Việt Nam và con đường hòa bình, thống nhất đất nước: Ở giữa hai thế lực tương tranh, Phật giáo nhất thiết phải chọn con đường trung lập, đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước chỉ với phương pháp bất bạo động. Phật giáo muốn vận dụng bài học bất bạo động của Gandhi. “Ganhdi đã trở thành một bậc thánh, không phải chính vì đã dùng tay không mà toàn thắng trước súng đạn đó sao? Và Nehru đã nối tiếp sự nghiệp hòa bình của Ganhdi, người đã nhẫn nhục chịu đựng suốt 20 năm trời vào tù ra khám trong các cuộc biểu tình im lặng và hùng hồn, dưới những làn mưa roi da của cảnh binh Anh hùng hổ –  người ấy  ngày nay đã trở thành kẻ hòa giải vĩ đại trong các cuộc tranh chấp thế giới, không phải chính vì đã trung thành với chủ trương bất bạo động của mình đó sao?” ( Minh Đức – trong bài Đạo Hòa Bình Trong Nền Hòa Bình Thế Giới – Phật Giáo Việt Nam – Nguyễn Lang trích, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập III)

Công cuộc chuẩn bị lực lượng để bước vào giai đoạn dấn thân của Phật giáo Miền Trung – Huế theo như tôi đã trình bày là bước đầu tiếp cận. Rất mong các nhà nghiên cứu xem đây là những gợi ý để độc giả có được những thành quả nghiêm túc và đầy đủ hơn về một thời kỳ lịch sử quá ư phức tạp nhưng không kém phần thú vị.

                                 

Xem tiếp Chương 2