QUÂN ĐộI NHÂN DÂN (Cuối tuần) https://ct.qdnd.vn/van-hoc-nghe-thuat/khong-can-hu-cau-526945
SỰ THẬT CUỐN HÚT ĐẾN KHÔNG CẦN HƯ CẤU
(Đọc “Trần Hữu Nghiệp, đời là kẻ
sĩ” của Đỗ Viết Nghiệm - NXB Thanh Niên 2021)
Phần đông chúng ta đi làm cách mạng là để giải phóng cho chính mình, cho
gia đình mình, nói rộng hơn là cho quê hương đất nước mình khỏi áp bức
bóc lột. Còn Trần Hữu Nghiệp tham gia cách mạng
trong bối cảnh gia đình rất khá giả, có nhiều ruộng đất,(13 mẫu
ruộng). Ba ông đang là Đại hương cả, hai yếu tố đó nếu vào thời Cải cách
ruộng đất, rất dễ bị đấu tố, bị khép tội nặng thành phần địa chủ. Ấy vậy
mà ông Trần Hữu Nghiệp dám từ bỏ cuộc sống đủ đầy sung sướng để tham gia
Cách mạng.
Năm 1935 khi học xong 4 năm
Trường Y khoa Đông dương tại Hà Nội, ông sang Pháp học tiếp 2 năm để lấy
bằng doctor ( bác sỹ) tại Trường Đại học Y Paris. Trở về quê hương ở,
Trần Hữu Nghiệp mở phòng mạch tại Mỹ Tho, thời đó bác sỹ còn ít, phòng
mạch của ông rất đông khách, tiền vô nhiều như nước, đến nỗi ông phải “
rùng mình khó chịu”. Có vợ
đẹp cùng 3 người con khôn,(Vợ cũng là con đại điền chủ, Huyện Hương
Điểm, tỉnh Bến Tre), thế mà ông đành bỏ cái gia tài ấy, gia đình ấy, để
đi vào vùng kháng chiến, chịu đựng thiếu thốn, gian khổ, hy sinh. Đến
nỗi vợ bỏ đi lấy chồngTây. Như vậy Trần Hữu Nghiệp phải hy sinh nhiều,
nhiều lắm. Bởi Trần Hữu Nghiệp có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù bọn
ngoại bang đang dày xéo quê hương mình, nên ngay từ khi còn đang học
trường Trung học công tỉnh Bến Tre, cậu học trò Trần Hữu Nghiệp đã tham
gia tuần hành trong đám tang cụ Phan Chu Trinh, làm chấn động tỉnh lỵ
Bến Tre. Kết quả cậu và một số học sinh khác bị đuổi học.
Trần Hữu Nghiệp là người vượt biên ra miền Bắc để báo cáo Trung ương,
Bác Hồ, về tình hình Nam
bộ và xin vũ khí vào chi viện cho chiến trường Nam bộ. Đoàn vượt
biên đi bằng thuyền gồm 5 thành viên trong đó có bà Nguyễn Thị Định, họ
là những người đặt “nền móng” cho con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên
biển sau này (Đoàn tàu không số).
Trần Hữu Nghiệp được Bác Hồ, Chính phủ mời tham gia vào Ban chấp hành và
là đảng viên đầu tiên của đảng Xã hội Việt Nam. Ông từng là hiệu trưởng
trường Cán bộ Y tế Trung ương ở miền Bắc suốt 10 năm, đào tạo hàng ngàn
y, bác sĩ cho cả hai miền, nhất là trong chiến trường Nam bộ, đầy hiểm
nguy và gian khổ. Ông hai lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Qua tác phẩm, ta cũng được biết về kỷ niệm đẹp của bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp với bác Tôn trong chuyến tháp tùng bác Tôn sang Liên Xô và Cộng
hòa dân chủ Đức, họ có tình cảm
tốt đẹp, đầy ấn tượng với nhau. Người chứng kiến và khâm phục trình độ
tiếng Pháp của bác Tôn khi bác sửa lại những trang bản thảo của ông;
chứng kiến phong cách làm việc cẩn thận, rất liêm khiết của bác. Một chi
tiết rất “Thâm cung bí sử”: khi Đoàn trở về đến Bắc Kinh được Chủ tịch
Quốc hội Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ
tiếp. Lúc rượu Mao Đài ngà ngà, Lưu Thiếu Kỳ nói : “Đảng
các đồng chí thành lập sau đảng của chúng tôi mà mười lăm năm đã giành
được chính quyền, nay nếu phải chờ năm mươi năm nữa mới thống nhất đất
nước cũng là sớm”, câu nói đó làm “ly
rượu trên tay bác Tôn nổi sóng, bắn ra những tia rượu rơi xuống mặt bàn
ướt sũng”. Bác Tôn xúc động thật sự, bởi chỉ còn không bao lâu nữa,
theo hiệp định Giơ-ne-vơ, chúng ta tin rằng tổng tuyển cử sẽ diễn ra hai
miền Nam Bắc, thống nhất Tổ quốc. Vậy mà sao Lưu Thiếu Kỳ nói câu đó?
Quả nhiên Hiệp định Giơ-ne-vơ không được thi hành, chúng ta phải chiến
đấu hơn 30 năm mới thống nhất đất nước. Lưu Thiếu Kỳ có phải là nhà tiên
tri?
Đỗ Viết Nghiệm có giọng văn như thứ rượu quý, dìu dịu, nồng nàn, rất dễ
lôi cuốn người uống say lúc nào không biết. Bởi vậy ông viết đến 4 cuốn
truyện ký, tôi đọc cuốn nào cũng bị giọng văn của ông chinh phục, phải
đọc một mạch cho đến trang cuối cùng, mặc dù đó chỉ là truyện ký về
người thật việc thật, đây là ưu điểm của anh do vốn kiến thức, vốn sống
phong phú, đó có lẽ còn là vốn trời cho nữa.
Cuộc đời của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có quá nhiều sóng gió, vô cùng phong
phú và cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hào hùng, như bài ca vĩ
đại, mỗi con người sống, chiến đấu như những người anh hùng, chỉ cần
viết như thật đã là những tấm gương điển hình, tính cánh điển hình của
người anh hùng. Không cần hư cấu vẫn hấp dẫn như một cuốn tiểu thuyết
“Thép đã tôi thế đấy” của Nikolai Otrovsky. Trần Hữu Nghiệp như nhân vật
Pavel - cũng trui qua lửa đỏ của cách mạng với lòng yêu nước nồng nàn.
Tôi vừa đọc lại cuốn “ Sử ký Tư Mã Thiên”
và cuốn “Thủy Hử” của Thi Nại Am, đến khi đọc
Trần Hữu Nghiệp đời là kẻ sĩ,
liên tưởng những nhân vật như Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Dương
Quỳnh Hoa, tướng Nguyễn Thị Định, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, cha mẹ, vợ
con bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và hàng trăm nhân vật khác hiện lên xung
quanh nhân vật chính Trần Hữu Nghiệp như những người anh hùng. Họ có
tính cách, có số phận, có hành động như những nhân vật lịch sử của Tư Mã
Thiên, hay tính cách điển hình sinh động của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
Nhà văn khắc họa được một nhân vật để người đọc nhớ khó lắm thay. Bởi vì
nhớ nhân vật độc giả mới nhớ đến tác giả. Đỗ Viết Nghiệm, chỉ bằng
truyện ký của mình đã cho chúng ta nhớ được khá nhiều nhân vật, họ vừa
có thật, vừa như huyền thoại, đó là thành công của cây bút khắc họa nhân
vật không cần hư cấu.
Nguyễn Trường.
Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp
LỜI THỀ TẬN HIẾN CHO DÂN CHO NƯỚC
Phạm Quang Đẩu
Bác sĩ Trần Hữu nghiệp sinh ra trong một gia đình nông dân tại xã Tân
Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Sớm có tinh thần yêu nước, mới 15 tuổi
ông đã tham gia truy điệu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh mà bị đuổi
học khỏi trường công ở Bến Tre. Ông lên Sài Gòn xin vào trường tư thục
Huỳnh Khương Ninh, với sức học trội bật, ông học nhảy lớp. Năm 1928, đỗ
thứ nhì Brevet élementaire, được chính thầy Huỳnh Khương Ninh vận động
xin cho học bổng học tiếp ở trường Chasseloup Laubat. Năm 1931 ông thi
đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội, 6 năm sau có bằng bác sĩ hạng ưu và được
sang Pháp tu nghiệp. Năm 1939 ông về nước mở phòng mạch tư ở thị xã Mỹ
Tho. Cách mạng Tháng tám 1945 nổ ra ở Nam Bộ, cùng với nhiều trí thức
yêu nước ở Pháp về, như các bác sĩ: Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Hưởng,
Phạm Hữu Trí...ông gia nhập Việt Minh. Rồi bước ngoặt cuộc đời bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp vào tháng 3-1946, khi ông đang phụ trách cứu thương ở
mặt trận cù lao An Hóa, được gọi về Khu 8, tham gia phái đoàn cùng giáo
sư Ca Văn Thỉnh và bà Nguyễn Thị Định ra Bắc gấp để báo cáo tình hình
với Trung ương xin chi viện vũ khí cho Nam Bộ. Đến Hà Nội, phái đoàn
được Hồ Chủ tịch tiếp và sau đó bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được giữ lại công
tác ở Cục Quân y vừa mới thành lập. Cuối năm 1946, Toàn quốc kháng
chiến, ông rời thủ đô đi thanh tra quân y ở Bắc Bộ và Liên khu 4. Do có
nguyện vọng trở về quê hương chiến đấu, ông tiếp tục đi sâu mãi vào phía
Nam với trách nhiệm Tổng thanh tra quân y. Giữa năm 1947, ông cùng bác
sĩ Nguyễn Văn Hưởng vừa từ Sài Gòn ra chiến khu bắt tay xây dựng ngành y
tại căn cứ, được cử làm Phó giám đốc Sở Y tế quân dân y Nam Bộ, trực
tiếp phụ trách các tỉnh Khu 8. Bắt đầu từ đây ông vừa làm thầy trên bục
giảng, vừa trực tiếp khám chữa bệnh, ở đâu, lúc nào cũng nêu cao y đức
và chính ông là tấm gương sáng về y đức. Bà Đoàn Thúy Ba, hiện ở Tp.Hồ
Chí Minh, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế nhớ lại: “Năm ấy tôi học lớp y tá
Miền của thầy Trần Hữu Nghiệp. Thầy lên lớp bao giờ cũng thu hút chúng
tôi do cách diễn đạt khúc triết, lô-gic, đôi khi hài hước, dí dỏm. Thầy
còn là pho sử sống về nền y tế cách mạng, những gương hy sinh của cán bộ
y tế mà thầy đã kể còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi đến ngày hôm nay.
Lần ấy vào lúc nửa đêm, có tin báo một chị cán bộ trong cơ quan đang trở
dạ, là một ca đẻ khó. Thầy trò choàng túi cứu thương, đốt đuốc lá dừa
xuyên rừng đến nơi ngay. Đứa trẻ đã được đỡ ra oe oe cất tiếng khóc chào
đời, nhưng sản phụ đang kiệt sức do bị “nhau tiền đạo”, máu tuôn xối xả.
Ngón tay thầy bấm chặt vào động mạch bụng của sản phụ để cầm máu và bảo
chúng tôi: Máu thầy thuộc nhóm B, hãy xem sản phụ nhóm máu gì? May sao
chị cũng cùng nhóm máu, vẻ mặt thầy bớt căng thẳng, ra lệnh tiếp: Lấy
máu thầy trích thẳng vào tĩnh mạch cho sản phụ! Bằng cách tiếp máu trực
tiếp, kịp thời như vậy đến sáng đã cứu được người mẹ. Tôi còn được chứng
kiến một ca cấp cứu khác của thầy. Có anh chiến sĩ trẻ bị đạn địch bắn
nát chân đưa về hậu cứ. Vết thương đã hoại tử, đành phải cưa chân để cứu
người. Phương tiện lúc đó quá thiếu, thầy mổ chính, đã động viên anh
thương binh: Không có thuốc gây mê, gây tê, rất đau đấy, em ráng chịu
nghen! Anh thương binh mất nhiều máu mặt nhợt nhạt, nhưng còn tỉnh táo.
Bỗng anh đề nghị kíp mổ dừng vài phút. Mọi người chưa hiểu chuyện gì,
thì anh bất ngờ cất tiếng hát, bài
Tiến quân ca. Dường như bài ca đã lấy lại tinh thần cho anh, hát
xong anh nhỏ nhẹ bảo: Bắt đầu được rồi, thưa bác sĩ. Thầy cầm con dao
phẫu thuật lên mà dòng lệ chảy dài trên gò má, chúng tôi thì ai cũng mím
môi để khỏi bật ra tiếng khóc khi phụ mổ cùng thầy…”
Năm 1966, tại chiến khu bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được đứng trong đội ngũ
Đảng CSVN. Tại sao tham gia cách mạng đã hơn 20 năm đến lúc đó bác sĩ
mới vào Đảng? Nguyên do là lần ra Hà Nội năm 1946, chính Bác Hồ đã yêu
cầu bác sĩ cùng các ông Nguyễn
Xiển, Hoàng Minh Giám lập đảng Xã hội, đảng của trí thức yêu nước để
tham gia vào chính phủ cách mạng lâm thời. Rồi nhiều năm trôi qua, đã
đến lúc cần ông chính thức đứng trong đội ngũ người cộng sản. Nhà thơ nữ
Lê Giang, sinh năm 1930, hiện ở TP.Hồ Chí Minh, nhớ lại: “Dưới cánh rừng
miền Đông Nam Bộ, chi bộ tổ chức lễ kết nạp, tôi được phân công chuẩn bị
lời thề cho bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Nhưng ông bảo: Khỏi cần, tôi tự thề.
Và dưới cờ Đảng, cờ Tổ quốc ông đã thề cống hiến toàn bộ tâm hồn và sức
lực cho nước, cho dân, lời thề xuất phát từ trái tim nhiệt huyết của
ông.”
Bên cạnh việc giảng
dạy và trực tiếp khám chữa bệnh, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn rất hứng thú
với việc viết sách, báo phổ biến kiến thức y học. Từ năm 1943 ông đã in
cuốn Phép nuôi con; rồi năm
1962: Chữa bệnh cho con khi xa
thầy thuốc; năm 1975: Chủ động
bảo vệ hạnh phúc gia đình; năm 1978:
Nói chuyện với người uống rượu;
năm 1981: Nói chuyện với người hút
thuốc. Tập hồi ký Thời gian
trong mắt tôi (NXB Văn nghệ 1993) là cuốn sách đáng chú ý nhất.
Trong đó, ông là người trong cuộc của nhiều sự kiện quan trọng của đất
nước, lần đầu tiên được mô tả với giọng văn chân thực và cảm động. Đoạn
dưới đây kể về một kỷ niệm giữa
ông với Chủ tịch Tôn Đức Thắng:
“Bác Tôn râu tóc bạc trắng, tướng đi đĩnh đạc.
Bên cạnh là luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam. Trong tiếng vỗ tay lúc khai mạc buổi lễ, trí nhớ tôi
lại đang vướng vít trong hai cảnh cũ ở Hà Nội năm nào.
Cảnh thứ nhất: câu lạc bộ Ba Đình, tháng 8 năm 1958. Một nhóm
khách, đông không quá vài trăm, được Phủ Chủ tịch mời đến dự lễ gắn Huân
chương Sao Vàng cho Chủ tịch Quốc hội Tôn Đức Thắng nhân dịp mừng thọ
thất tuần. Tôi được đến với tư cách là Ủy viên trung ương Mặt trận Tổ
Quốc và đồng hương với Bác Tôn. Khai mạc, Bác Hồ nói mấy lời, nêu thành
tích và công lao của Bác Tôn, gắn huân chương và ôm hôn giữa tiếng vỗ
tay vang dậy. Hôm ấy, Bác Tôn mặc bộ đồ ka ki giản dị. Trước tim, bên
ngực trái, là Huân chương Sao Vàng vừa gắn, lóng lánh dưới đèn điện.
Phía ngực phải, là huân chương nước ngoài theo quy ước quốc tế, trong đó
có Huân chương Cách Mạng tháng Mười mới được tặng, mà tôi đã có dịp đi
tháp tùng Bác sang Liên Xô nhận. Mắt Bác như rớm lệ, tay run run
khi nâng chén rượu mừng và nói vài lời đáp từ thật giản dị:
Tôi xuất thân từ một gia đình nông dân Nam Bộ, lúc nhỏ đã lên Sài
Gòn học nghề để tha phương cẩu thực. Chưa lần nào tưởng tượng ra cái
vinh dự tuyệt đỉnh của chiều hôm nay. Không biết nói gì hơn là từ đáy
lòng, xin mãi mãi ghi ơn Đảng, Hồ Chủ tịch và sự có mặt của tất cả các
đồng chí đến chúc mừng tôi.
Cảnh
thứ hai: Mùa hè năm 1965, Bác Tôn, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc trung ương,
đã nhận được đơn xin từ chức Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc của
tôi, bởi lần đi công tác này vào Nam chắc chắn là phải sẽ kéo dài nhiều
năm, không hẹn ngày trở lại. Một buổi
chiều, chị Tám Nguyễn Thị Lựu, phó Tổng thư ký Mặt trận, mời tôi đến trụ
sở Mặt trận dùng bữa cơm thân mật tiễn đưa. Ngoài chị Tám chỉ có thêm
hai người dự là Bác Tôn và đồng chí Trần Hữu Duyệt, Tổng thư ký Mặt
trận. Xong, Bác tiễn tôi ra tận cổng 48 phố Tràng Thi, giọng nói run
run, chậm chạp, đầy xúc động như năm nọ lúc nhận huân chương: Anh về
trỏng, nói giùm với đồng bào Nam Bộ và tất cả đồng chí, anh em, rằng tôi
rất nhớ quê hương, chỉ mong đợi ngày về. Nhưng sắp đến 80 rồi, còn có ai
cho đi nữa...”
Nhà
văn Nguyễn Quang Sáng, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam trong một
bài viết vào năm 1993, có đoạn: “Năm 1949 trong vùng kháng chiến đất U
Minh, tôi có tình cờ đọc được quyển
Hồ Chủ tịch trong lòng dân tộc
của tác giả Hằng Ngôn, nhà xuất bản Bến Tre. Đây là cuốn sách văn học
đầu tiên tôi được đọc trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp, để lại ấn
tượng rất sâu sắc, sau này tôi mới biết tác giả Hằng Ngôn chính là bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp. Giọng văn của cuốn sách tươi xanh dòng ngôn ngữ nông
dân Nam Bộ, quý hơn dưới những con chữ của anh là sự uyên bác của một
trí thức, y học của văn học. Y học của người thầy thuốc, trong anh đã
cất tinh thành văn học.”
Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có 6 người con, đều đã
thành đạt. Hồi đầu năm 1947, các con ông còn thơ bé,
phải xa chúng để đi làm cách mạng, ông đã có bài thơ
Nhớ con thật mộc mạc, xúc
động: Ra đi con Dũng mới u ơ/Hai trẻ Trí-Dung quá dại khờ/Chân bước
xuống xuồng ba rớm lệ/Hôn con, dặn lại gì bây giờ… “Dũng” chính là giáo
sư, tiến sĩ kinh tế Trần Hữu Dũng, chủ trang mạng Viet-studies.net nổi
tiếng hôm nay. Ông từng
sang Mỹ du học từ năm 1963, sau khi tốt nghiệp kỹ sư điện tử và cử nhân
vật lý, ông về nước làm chuyên viên tại Trung tâm Nghiên cứu nguyên tử
Đà Lạt. Năm 1972, ông qua Mỹ lần nữa và lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại đại
học Syracuse. Từ năm 1982, ông dạy môn kinh tế vĩ mô, kinh tế quản lý và
kinh tế thế giới tại đại học Wright State.
Ông
chuyên nghiên cứu kinh tế vùng Đông
Á,
trên phương tiện truyền thông ông cũng là một trong những nhà khoa học
Việt kiều có đóng góp về đổi mới tư duy kinh tế cho chính phủ Việt Nam.
|