1
Đất
trời Nam thuở hoang xưa Năm
1979 ở tuổi gần bảy mươi xuân, cái tuổi người xưa ta thường đã đề huề
vui thú điền viên bên gia đình con cháu từ lâu, nhưng bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp, Nhà giáo nhân dân, người con ưu tú vùng đất Tân Thủy, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre, mới được Chính phủ cho về nghỉ hưu, cũng từ đây ông
có nhiều thời gian rảnh rang đôi chút về thăm quê hương. Tân
Thủy giờ đây thay đổi nhiều so với trước, ông gặp bao nhiêu người dân,
người thân, những con người ông quí mến, ông yêu thương một thời bình
yên, một thời giông tố. Đất nước được tự do, lòng sảng khoái mà nhìn
đất, nhìn trời, mắt dõi rộng ra ngoài khơi xa nghe tiếng gió, tiếng sóng
vỗ mang theo vị mặn mòi của biển bất chợt nghĩ về tiền nhân, rồi tự hỏi:
“Tại sao cha ông mình xa xưa từ miền ngoài vào Bến Tre lại không tìm đến
một nơi nào khác như lên Mỏ Cày, Chợ Lách hay Sóc Sãi, Châu Thành để lập
nghiệp? Ở đó đất đai dễ làm, trồng cây gì, giống gì cũng xanh tươi cho
nhiều hoa thơm quả ngọt? Hóa ra không chỉ có ông, hậu thế từng có nhiều
người hỏi câu tương tự: “Đất Bến Tre rất lành, phù hợp trồng các loại
cây ăn quả, nhưng tại sao gọi là tỉnh Bến Tre? Trong khi tỉnh này không
phải là nơi có nhiều cây Tre?”. Một câu hỏi khá thú vị lại có phần thực
tiễn. Bến Tre có rất nhiều dừa. Dừa Bến Tre bát ngát, dừa mênh mang đại
ngàn như rừng như biển. Vậy tại sao, không lấy dừa đặt tên gọi là tỉnh
Dừa? Dừa Bến Tre trở thành biểu tượng sức mạnh, ý chí, trải qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ! Dừa là chất men say xúc tác của
nhiều nhà thơ, nhà văn, nhạc, họa. Và nói không ngoa đến nỗi ông nhạc sĩ
Nguyễn Văn Tý, một lần về Bến Tre nhìn dừa có ngay cảm hứng, để viết nên
ca khúc tuyệt phẩm “Dáng đứng Bến Tre” ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng
cảm, kiên cường, bất khuất, lập nên nhiều chiến công lẫy lừng của người
con gái Bến Tre:
“Ai đứng như bóng dừa/tóc dài bay
trong gió/có phải người còn đó/là con gái của Bến Tre/con gái của Bến
Tre/năm xưa đi tải đạn…”.
[1] Bài
hát ra đời không lâu sau đó nổi tiếng khắp mọi miền đất nước, rồi trở
thành như “tỉnh ca”. Quê hương Bến Tre như vụt lên, nổi tiếng một lần
nữa mà bất cứ ai khi nghe bài hát cũng nghĩ ngay tới phong trào Đồng
Khởi năm 1960 thế kỷ trước, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước!
Ngày nay dừa Bến Tre còn là nội lực chủ yếu, làm nên sự thịnh vượng của
tỉnh Bến Tre. Cây dừa gần như không vứt bỏ một thứ gì, quả dùng làm nước
uống giải khát tuyệt vời, cơm dừa già chế biến ra những hàng hóa cao
cấp, như mỹ phẩm làm đẹp, xà bông thơm, làm kẹo, làm mứt ngọt ngào hấp
dẫn. Thân dừa, quả dừa làm ra các mặt hàng mỹ nghệ độc đáo có một không
hai. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, tiền nhân xưa lấy tên Bến Tre không
phải không có lý, đặc biệt người xưa lại rất coi trọng chữ đạo, chữ
nhân, chữ nghĩa, chữ tình. Tìm hiểu sâu mới biết thêm, ngày xưa người
dân Bến Tre có nghề thủ công đan lát từ nguyên liệu cây tre rất phát
triển, nhưng đất cù lao có nhiều giồng lại không phù hợp cho trồng cây
tre nên họ phải nhập tre từ nhiều nơi khác ngoài tỉnh về. Đất Bến Tre
sông rạch nhiều, giao thương trao đổi buôn bán sản vật hầu hết đều qua
vận chuyển bằng đường sông. Có thuyền, ắt có bến. Thuyền từ miền Đông,
miền Tây chở tre qua ngã sông Hàm Luông hay sông Ba Lai tới, đều vào một
cái bến trung tâm ghe thuyền đậu san sát, ở đó có người bán người mua
đông vui tấp nập. Tre được dân phu bốc lên chất đầy trên bến dài hàng
trăm mét, rồi được bán lẻ đi khắp nơi đến tay người thợ đan lát. Tên Bến
Tre ra đời từ đấy (nhưng thực ra đây cũng chỉ là một cứ liệu chưa mấy
vững chắc?!). Rồi không biết từ bao giờ, cái nghề đan lát nổi tiếng Bến
Tre đó lại dần mai một và đến hôm nay nó gần như mất.
Bến
Tre ngày nay ngắm nhìn từ trên cao xuống giống một tuyệt phẩm bức tranh
thiên nhiên trời ban cho, nó nằm trên ba cái cù lao như ba con cá voi
khổng lồ bơi ra biển lớn, cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Ba
Tri quê hương bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nằm trên cù lao Bảo, chót mũi là xã
Tân Thủy còn gọi là Giồng Bông. Những lưu dân Việt thuở hoang xưa đến
đây rồi trụ lại, họ sống qua mấy trăm năm sướng khổ, buồn vui là một câu
chuyện dài đẫm mồ hôi và nước mắt.
* Có
lẽ cuốn sách xưa nhất ngày nay ta biết được là
“Chân Lạp phong thổ ký” của
Châu Đạt Quan là người Trung Hoa, sống ở thời nhà Nguyên khi theo chân
một phái đoàn ngoại giao sang Chân Lạp, đến Ăng Ko. Phái
đoàn Trung Hoa ngày ấy đi bằng thuyền gỗ đầu chạm Rồng, (đương
nhiên bấy giờ là con đường thuận lợi nhất, nhanh nhất chỉ bằng cách này
xuôi Nam vượt biển Đại Việt, rồi ngược sông Cửu Long qua Mỹ Tho ngang
đồng Tháp Mười). Cảnh thiên nhiên độc lạ cuốn hút, Châu Đạt Quan nhìn
sang hai bên bờ sông thấy vô vàn những bụi mây dài, nhiều cây to, cát
vàng, lau sậy mọc um tùm trổ bông trắng xóa. Trong mục núi sông ông ta
cũng viết, những chòm cây rậm rạp trong rừng trũng thấp (có lẽ đây là
rừng Sác). Cửa sông quá rộng cũng có nhiều cây to, những lùm mây dài
xanh tốt, tạo chỗ cho chim chóc làm tổ và trú ẩn của loài muông thú.
Chim nhiều đến nỗi, đứng trên thuyền cũng còn nghe được cả tiếng hót
vang dội theo gió cuốn. Thuyền đi được hơn nửa chặng đường sông, lần đầu
tiên tác giả nhìn thấy những cánh đồng lúa rộng bạt ngàn, không có một
gốc cây to, trâu rừng, bò rừng, hàng ngàn con tụ họp từng đàn đang ung
dung gặm cỏ.
Thiên nhiên như vậy, còn câu trả lời người Việt có mặt ở đất phương Nam
là từ khi nào? Theo sử sách của người Việt, cũng như người nước ngoài
trong đó chủ yếu là người Pháp, những nhà nghiên cứu hay các thương gia
từng ở Việt Nam một thời gian dài, thì người Việt có mặt ở Nam Bộ là rất
sớm. Thế kỷ XVI trở về trước, cũng có rất nhiều người nước ngoài qua lại
vùng đất này như người Nhật, Mã Lai, Ấn Độ, Trung Hoa. Người ta cũng
nhìn thấy tuy không nhiều, có người phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, họ dù là cư dân nước nhỏ, nhưng trong lãnh vực buôn bán lại có
những đội thương thuyền cực kỳ hùng mạnh, tuy nhiên vào Nam Bộ họ không
dừng lại mà tiếp tục đi xa hơn lên tận Nông pênh. Ở vùng Tây Nam Bộ cũng
có người Khme, nhưng thời đó họ sống chủ yếu ở vùng đất Lục Chân Lạp
(Campuchia) là những nơi cao ráo, dễ làm ăn, nguồn lợi nhiều, nhưng do
dân số ít, đất đai lại rộng lớn nên họ gần như bỏ trống vùng đất phía
Đông (Tây Nam nước ta bây giờ) quanh năm trũng nước lại hoang vu, nhiều
băng đảng cướp phá và đầy thú dữ.
Người Việt đến vùng hạ lưu sông Mê Kông nơi không có mỏ vàng, mỏ bạc,
đậu khấu, trầm hương, tơ lụa, hồ tiêu, đây lại là vùng đất trũng, nhưng
bấy giờ có một nơi tương đối sung túc dễ dàng canh tác tạo ra nhiều lúa
gạo là Bãi Xàu gần cửa sông Hậu, còn phần lớn đất đai rừng rậm hoang vu
nhiều voi gầm, hổ báo, khí hậu lại ẩm thấp rất khó làm ăn. Loại rừng già
âm u mà Châu Đạt Quan nhắc tới là giống cây mây dài, mọc hoang ở nơi đất
thấp rủ xuống nước chằng chịt xanh tươi, trải qua nhiều thế kỷ vẫn còn
để lại dấu ấn những cái tên như đường Xẻo Mây, rạch Chắc Cà Đao (tiếng
Khmer đao là mây). Rừng ở đây cũng có nhiều cây to, bóng chúng tỏa xuống
che phủ rộng một không gian lớn. Châu Đạt Quan nghĩ không hẳn là cây
sao, cây dầu, mà có thể là cây lâm vồ, cây gừa, cậy xộp với những rễ phụ
thòng xuống bám sâu vào đất lớn lên to như cây cột nhà, lá rụng xuống
năm này qua năm khác dày lên lớp lớp, tàn che tối om om, nơi phù hợp để
cọp, báo, heo rừng tới làm nơi sinh đẻ. Đất rừng, ruộng ngập nước mênh
mông lúa ma, lau trắng, sậy đế, mọc dễ dàng trên đất mới bồi. Tre mọc ở
đây cũng khá nhiều hoặc những vùng cao hơn nay vẫn để lại nhiều tên đất
như Bến Tre, Xẻo Tre, Vịnh Tre là vậy. Khắc
nghiệt, khó khăn làm nản lòng nhiều người nước ngoài đến tìm cơ hội mưu
sinh, nhưng lại không làm người Việt nhụt chí! Vì sao? Có rất nhiều
nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân rất cơ bản, những lưu dân người
Việt dù đến trước hay đến sau thuở hoang sơ ấy thì đều không thể trở về.
Trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê
Qúi Đôn. Họ Nguyễn chiêu mộ những người dân “có vật lực” ở xứ Quảng Nam,
từ các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Bình Định đưa đi khẩn hoang. Chúa
Nguyễn cũng có chính sách rõ ràng, cho phép những cư dân đó đến nơi mới
chiếm đất bao nhiêu tùy thích xây cất nhà cửa, làm vườn, trồng cau, chăn
nuôi gia cầm, gia súc. Lại cho thâu nhận con trai, con gái vùng cao,
vùng núi mua về làm nô tỳ (nô là trai, tỳ là gái). Nô tỳ còn được phép
kết hợp làm vợ, làm chồng để làm ăn cày cấy.
“Gia Định Thành Thông Chí”
của Trịnh Hoài Đức cũng chép, các chúa Nguyễn chiêu mộ lưu dân từ Bố
Chánh trở vô Nam đến ở khắp nơi. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh Đàng Trong
với Đàng Ngoài, rồi thời Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn ba lần truy đuổi vào
đất Gia Định, cũng là nguyên nhân dẫn đến các lưu dân trôi dạt vào Nam
Bộ đông đảo nhất. Dọc theo tả ngạn sông Tiền có làng Nha Mân, thuộc Cái
Tàu Hạ người Việt lập làng ở đây từ rất sớm. Lời đồn rằng, Nguyễn Ánh
khi bị quân Tây Sơn truy đuổi, trên đường tháo chạy đã cắn răng bỏ lại
một số lớn bầu đoàn thê tử gồm toàn cung phi, mỹ nữ xinh đẹp. Đám lưu
dân đặc biệt này ở lại dần dà kết thân, gá nghĩa với lưu dân người Việt
có mặt nơi đây khẩn hoang trước đó, rồi sinh con đẻ cháu đầy đàn. Đàn
bà con gái chân yếu tay mềm chuyên sống bằng nghề làm bánh, ít dãi nắng
dầm mưa, da trắng như bột, lời nói nhẹ nhàng, đi đứng khoan thai nổi
tiếng xinh đẹp. Từ đó có câu:
“Giồng nào cao bằng giồng Sa Đéc, gái nào đẹp bằng gái Nha Mân” là
vậy. Lý
giải về sự chịu đựng khó khăn gian khổ của người Việt, khi đã quyết làm
một việc gì họ không bao giờ bỏ cuộc. Nói ý này là gián tiếp người ta
nhắc đến chuyện Nguyễn Cư Trinh, người có công gày dựng đất Gia Định
xưa, rằng ông hiểu rất rõ nỗi thống khổ của người dân khi còn làm Tuần
phủ Quảng Ngãi, có dâng sớ khuyên chúa Nguyễn:
“Việc hại dân ngày nay thì cấp
tính, nuôi voi, nộp án, ba việc ấy là trước hết, ngoài ra những chi phí
quá lệ là rất nhiều. Dân thì một cổ bảy tròng. Dân Quảng ngãi chịu thống
thuộc nhiều nơi, đã chịu các nha trường sai dư, lại chịu lệnh các nha
sai viên vi tử, lại chịu lệnh các nha sai viên nguyên đầu, lại chịu lệnh
bản phủ, lại chịu quan sai lại nha môn, lại chịu lệnh các sai nhân, lại
chịu lệnh của người đi săn ngang dọc, há không phải mười con dê đến chín
người chăn, nghèo khổ thất nghiệp rất là đáng thương”. Đây chính là
nguyên do người dân liều mạng, bỏ xứ ra đi vào Nam Bộ thuở hoang sơ là
không hiếm. Còn
một dòng lưu dân khác vào giữa cuối thế kỷ XVI, có một bộ phận người đến
từ Trung Hoa vì khí tiết trung quân bài Mãn, phục Minh ra biển chạy vào
phương Nam do Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên), Dương Ngạn Địch chỉ
huy đem theo ba ngàn binh lính, đi trên năm mươi chiến thuyền được chúa
Nguyễn cho vào đất Mỹ Tho lập nghiệp mưu sinh. Một nhóm người khác có
tới hàng trăm người, hầu hết họ tộc con cháu do Mạc Cửu cầm đầu, dạt vào
Lũng Kỳ bấy giờ còn thuộc đất Chân Lạp (Campuchia), chọn nơi đây làm quê
hương mới. Sau mười năm chống chọi với đủ hiểm nguy lúc người Chân Lạp
đuổi, khi quân Xiêm truy sát, may nhờ khôn ngoan tài giỏi có tiền đút
lót bằng nghề buôn bán, đánh bạc mà trụ vững ở đất Lũng Kỳ, Sài Mạt. Đến
năm 1708 lấy tên gọi là Hà Tiên, rồi có mưu sĩ
tên Tô Quân người đồng hương khuyên Mạc Cửu, ra Thuận Hóa quy
phục dâng đất này lên chúa Nguyễn, được Chúa phong tước Tổng binh Cửu
Ngọc Hầu. Đặc biệt có một chi tiết, mà ngày nay trong sử cũng có chép từ
khi Mạc Cửu đặt chân tới Lũng Kỳ (Hà Tiên), ông thấy có nhiều lưu dân
người Việt lập thành làng xóm, sinh sống từ rất lâu rồi. Trải
qua bao nhiêu đời, người Việt miền ngoài mà chủ yếu là người miền Trung
dưới thời nhà Nguyễn, họ bỏ xứ ra đi dạt vào phương Nam tới phủ Gia
Định. Đất trời Nam Bộ dù rừng thiêng, nước độc, nhưng vốn người Việt
mang theo trong mình nền văn minh lúa nước, tổ tiên sống có tổ chức hơn
những người đi trước, họ nhận ra vùng đất trũng nước phương Nam có nhiều
tiềm năng lớn về nông nghiệp. Họ cũng thấy được “địa cuộc” tốt, không
phải ám chỉ nội dung huyền bí về phong thủy mà nơi đây có nhiều thuận
lợi tưới tiêu điều hòa cho cây lúa, cây màu khác. Sông rạch chằng chịt,
sức người chỉ cần điều chỉnh thêm sao cho có nước ngọt uống về mùa hạn,
không bị ngập nước về mùa mưa, đặc biệt dễ dàng lui tới trao đổi sản vật
làm ra, giao lưu kết nối văn hóa bằng đường thủy lên Bến Nghé, ra kinh
đô Huế và theo đường bộ cũng khá dễ dàng. Cứ
thế luận ra, người Bến Tre nói riêng và nhiều tỉnh miền Tây, miền Đông
Nam Bộ ngày nay có gốc gác tổ tiên từ miền ngoài vào, và đa số họ là cư
dân miền Trung, sớm thì thời tiền Chúa Nguyễn, chậm cũng là thời Quang
Trung, Nguyễn Ánh.
[1]
Ngoài ra còn có nguồn tư liệu chưa hẳn chính xác nhưng xem ra
cũng khá thú vị, ngày đó tỉnh Tiền Giang mê tài năng của vị nhạc
sĩ này, nên đã mời về giúp tỉnh sáng tác một ca khúc. Nhưng tiếc
thay cả nửa tháng ròng chẳng thấy sản phẩm đâu, rồi một buối
sáng đẹp trời khi đứng bên bờ sông Tiền nhìn sang bên kia sông
dạt dào bóng dừa xanh trong gió, mà bật nên bài ca bất hủ về Bến
Tre như ta đã biết?!
|