NGUYỄN TRUNG
DÒNG ĐỜI
Tiểu thuyết
15.
Tướng
về hưu Lê Hải dẹp lại một số việc để dành cả sáng chủ nhật cho gia
đình họ Phạm. Trước hết đến thăm ông bà Chính để bàn một số việc
liên quan đến công tác của Yến sau khi đã tốt nghiệp xuất sắc MBA ở
Anh.
Trước đấy ít lâu Lê Hải đã hỏi cặn kẽ về tình hình phân xưởng dược
và trao đổi nhiều chuyện với đại tá thủ trưởng K8 Trần Thu. Càng
hiểu sự khốn đốn của phân xưởng dược trong hoàn cảnh bao cấp ngày
một nghèo nàn, Lê Hải càng lo cho công việc của Yến. Đại tá Nghĩa đã
mấy lần giục Lê Hải sớm cùng với đại tá Trần Thu cân nhắc vài phương
án khác nhau để cho Yến đỡ bỡ ngỡ và có thể dồn tâm trí vào việc lựa
chọn các giải pháp.
Khi đến và trò chuyện được một lát với ông bà Chính, được vài câu,
Lê Hải đành tạm gác chuyện về Yến. Ông bà Chính đang khổ sở vì một
chuyện chẳng ai ngờ tới.
- Cách đây ba hôm, người vợ cũ của chồng Loan, chân bó bột, tay
chống nạng, từ Đắc Lắc ra tận ngoài này gặp cháu Loan! Vợ chồng
chúng tôi tan nát ruột gan... - ông Chính giải thích cho Lê Hải.
- Sao có thể như vậy được! - Lê Hải sửng sốt.
- Thế mới chết chúng tôi!... Cả nhà chúng tôi cứ như là ăn phải bùa
mê... - bà Chính than thở.
- Chúng tôi cứ nghĩ là cháu Loan và chúng tôi tìm hiểu rất kỹ bên
nhà giai, nhưng cuối cùng là bị lừa! Bị lừa một cách đê tiện! - ông
Chính buồn bã.
- Bọn chúng bỉ ổi đến thế là cùng, anh Hải ơi!...
- Có lẽ là lỗi tại tôi quá tin vào tổ chức... Nhìn thấy cái giấy
giới thiệu của đảng uỷ bên ấy là tôi yên tâm, không đặt ra câu hỏi
gì nữa! - ông Chính than vãn.
- Không, tại tôi! Nếu tôi không nôn nóng thôi thúc nó lấy chồng thì
đâu đến nỗi!.. – bà Hương ngắt lời chồng.
Ông bà Chính càng tự trách móc mình, Lê Hải càng không hiểu đầu đuôi
câu chuyện ra sao cả. Gạn mãi, cuối cùng Lê Hải được ông bà Chính kể
lại cho nghe từ đầu mọi sự việc đã dẫn đến nỗi bất hạnh của Loan.
... Không biết làm thế nào tên Sở Khanh mồi chài hay thuyết phục
được ông đại diện cơ quan mới của hắn tán thành mọi việc hắn nhờ.
Tìm hiểu nhau sau hơn một năm, hắn, người đại diện cơ quan của hắn,
cùng với mấy bạn bè chí cốt nhất và cha mẹ hắn xin đem trầu cau đến
làm lễ ăn hỏi Loan. Trong hai năm ấy ông bà Chính đã hai lần lên tận
quê hắn ở Cao Bằng mà vẫn bị lừa... - đơn giản là ông bà Chính rơi
vào một nơi đã được bài binh bố trận hoàn mỹ...
Ông bà Chính thay nhau thuật lại rành rọt từng lời, từng sự việc của
các nhân vật trong toàn bộ vụ lừa đảo. Ông bà kể lại tường tận theo
trình tự thời gian, cứ như là hai nhân chứng đang dựng lại một vụ án
hình sự trước thẩm phán viên Lê Hải…
Sao vợ con ở tận Đắc Lắc mà tên sở khanh lại ở tận ngoài này? Lê Hải
trầm ngâm một hồi rồi hỏi:
- Hắn được chuyển ra ngoài này theo yêu cầu quy hoạch cho thế hệ cán
bộ kế cận trong tương lai...
Ông Chính thở dài.
Lê Hải nhíu mày, hỏi:
- Chẳng lẽ một mình hắn đủ sức vừa đạo diễn, vừa đóng vai Sở Khanh?
- Vợ chồng tôi, cả cháu Loan, đều hỏi nhau như vậy và không trả lời
được anh Hải ạ!
- Nhưng ít nhất anh chị phải nghi ngờ một điều gì chứ, hoặc giả phải
có một cái gì đó đáng nghi ngờ chứ?
- Thực tình trước ngày cưới của cháu Loan chúng tôi không tìm được
một điều gì để nghi ngờ. Có lẽ tại chúng tôi cả tin! Người đỡ đầu
hắn đến gặp chúng tôi chính là người đại diện cho cơ quan của hắn,
phụ trách công tác tổ chức cán bộ hẳn hoi. Ông này đi đi lại lại nhà
chúng tôi mấy lần, kể rõ ngọn ngành lai lịch của hắn, ra sức vun
vào...
- Ông ta bị hắn lừa hay ông ta là đồng loã?
- Anh Hải ạ, nếu ở vào địa vị chúng tôi trước ngày cưới của cháu
Loan, dù anh có tỉnh táo đến mấy cũng không thể nào đặt ra cho mình
câu hỏi này, có phải thế không anh? Ai lại đi nghi ngờ người của
Đảng ở cơ quan bên ấy bao giờ!.. - ông Chính trả lời:
- Lầm lẫn là ở chỗ này, bất hạnh cho gia đình chúng tôi là ở chỗ
này! - Không kềm được nỗi đau, bà Chính òa lên, nức nở.
Tướng Lê Hải lặng người vì quá bất ngờ, vì choáng váng nỗi đau của
gia đình ông bà Chính. Ông không sao tìm được lời lẽ nào để an ủi
ông bà Chính.
... Người ta vẫn nói ở hiền gặp lành... Nhưng phải chăng trong cuộc
đời bây giờ cái đạo lý này chỉ còn là lời biện hộ cho sự thủ thúc an
phận, là lời tự thú nỗi bất lực, là cách tự thanh minh cho sự ngu
đần?.. Cả cuộc đời mình đã chứng kiến bao nhiêu chuyện cái thiện chỉ
là con mồi đáng thương hại của cái ác. Làm bạn với gia đình họ Phạm
từ hàng chục năm nay, mình thấy họ là những người có lương tri, có
nghị lực. Họ thận trọng, có trách nhiệm với cuộc sống, giàu lòng tự
trọng... Không lẽ tất cả những thứ đó chẳng nghĩa lý gì trong môi
trường ngoài đời còn nhiều hoang dã thế này? Hay họ là những kẻ ngu
đần nên đáng kiếp có một cuộc sống như vậy!?. Chẳng lẽ cái lẽ đời
trớ trêu như thế này sao? Bỗng Lê Hải chua chát rít lên:
- Ôi, Đảng đang để cho đảng viên đánh mất thứ quý báu của mình!
Không gian lạnh ngắt như ở dưới nhà mồ. Một hồi lâu Lê Hải mới lên
tiếng, giọng quyết liệt và đầy uy quyền của một vị tướng trên trận
mạc:
- Anh chị nhắc lại cho tôi đầy đủ họ tên thằng Sở Khanh xem nào?.
- Giấy đăng ký kết hôn ghi là Trương Hùng.
- Trương Hùng?... sao lại trùng tên với cái lão bí thư đảng đoàn
Trương Hùng giết vợ ở Bãi Cháy năm nào thế này?
Chuyện xảy ra ở nhà ông Chính khiến Lê
Hải toan về nhà không đi đâu nữa. Nghĩ như vậy, nhưng cái xe
đạp Phượng Hoàng lọc tọc đưa Lê Hải vào nhà Nghĩa. Thím Tuấn bệnh
tim vào thời kỳ nặng. Nghĩa thỉnh thoảng phải xuống trợ giúp Cúc một
tay và cũng là để an ủi em, chỉ còn một mình Nguyệt ở nhà. Cách đây
bốn tháng tiến sĩ toán Phạm Trung Tân đã được mời sang làm giảng
viên danh dự hai năm ở trường đại học Xtốc-khôm (Stockholm) trong
khuôn khổ hợp tác giữa hai trường, tuỳ công việc sẽ gia hạn hợp
đồng... Giới trí thức Hà Nội, giới tướng văn tướng võ trong Quân đội
trầm trồ: Đại tá Phạm Trung Nghĩa có hai con thì cả hai đều là tiến
sĩ toán... Cái gien nhà họ Phạm này thật đáng nể. Thế nhưng người
trong nhà hình như không có thời giờ và tâm trạng nhâm nhi vinh
quang này. Lê Hải chào chưa dứt lời, bà Nguyệt như với được “cái
giỏ” để trút bao bực dọc:
- Anh Hải ạ, tôi muốn hỏi anh điều này...
- Vâng, xin chị cứ nói.
- Đảng chỉ có một điều lệ, một tiêu chuẩn chung cho mọi đảng viên,
tại sao bây giờ trong Đảng lại có đủ mọi loại người, từ người chân
chính cho đến kẻ đểu cáng. Thế là thế nào?
- Tại sao chị lại đặt ra câu hỏi này?
- Tôi nghe anh chị Chính kể về người đỡ đầu, về thằng chồng đểu giả
của Loan... Càng nghĩ tôi càng thương cháu Nam. Cháu tôi hy sinh vì
ai? Cho ai? - Bà rưng rưng nước mắt.
- Tôi thừa nhận những tên đểu cáng trong Đảng ta thật không ít.
- Hắn lại còn là cán bộ thuộc diện quy hoạch cho mai sau, thế mới
kinh hoàng!. Anh có thấy điều này cực kỳ đáng sợ?
- Tôi vẫn canh cánh nỗi lo như vậy, chị ạ.
- Gần đây anh Nghĩa đã kể cho tôi nghe câu chuyện đi nằm biệt thự ở
Thạch Thất. Các anh giữ bí mật lâu quá, cả với tôi. Sao các anh tệ
thế! Bây giờ mỗi khi nghĩ đến chuyện này tôi vẫn còn rùng mình và
chưa hết giận anh Nghĩa, giận cả anh nữa!
- Quy hoạch cán bộ là công việc muôn thuở chị Nguyệt ạ. – Lê Hải cố
lờ chuyện Thạch Thất. - ...Chúng ta mới chỉ biết đến những việc đã
bộc lộ ra ngoài. Làm sao chúng ta biết được những hiểm hoạ còn đang
thời kỳ ủ bệnh?
- Nói như anh tôi không chịu, làm như thể tệ nạn cứ từ ở đâu trên
trời rơi xuống?
- Đúng là thực tiễn công tác cán bộ ngày càng có nhiều chuyện không
ổn, chị ạ.
- Không phải chỉ có câu chuyện về thực tiễn công tác cán bộ. Là
người dạy văn, tôi buộc phải tìm hiểu nhiều vấn đề xã hội trong từng
thời đại. Tôi lo rằng những tha hoá chúng ta đang nói tới chưa được
xem xét như những triệu chứng phản ánh một hiện tượng xã hội nào
đó...
- Chị muốn nói không thể coi những tha hoá ấy đơn thuần là những
hành vi của những cá nhân riêng biệt?
- Đấy không thể đơn thuần chỉ là hành vi của những cá nhân riêng
biệt. Ngẫm nghĩ những gì đã xảy ra đối với gia đình họ Phạm chúng
tôi, chuyện anh phải về hưu, chuyện cậu hộ tịch viên khu phố anh ở,
những chuyện hàng ngày ở khu phố tôi, chuyện học trò của tôi đi lao
động nước ngoài đến thăm tôi... Anh Nghĩa đã kể cho tôi nghe cả
chuyện cái xe đạp Mifa sặc mùi thuốc lá NB của chị Hậu nữa... Tôi
nghĩ nếu xem xét tất cả những sự việc ấy trong bối cảnh chung của
toàn xã hội, rõ ràng đấy là những biểu hiện nói lên một điều gì đó,
một diễn biến gì đó, đang xảy ra theo con đường riêng của nó anh
ạ... Nó không còn là một vài hiện tượng cá biệt rời rạc nhau nữa, ai
có thể dửng dưng?
- Chị thật là một nhà giáo nghiêm khắc. Nhưng chị không vô lý!
- Khi dạy các cháu học sinh phân tích một hiện tượng xã hội trong
một tác phẩm văn học, tôi đòi hỏi các cháu phải đi sâu tìm hiểu
những nguyên nhân kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của hiện
tượng ấy, các mối quan hệ ràng buộc... Chẳng lẽ chúng ta không cần
phải nhìn nhận xã hội chúng ta đang sống với con mắt như vậy sao?
- Dạy học trò bao giờ cũng dễ hơn tự dạy mình chị ạ. Đây thực sự là
vấn đề của chúng ta.
- Anh nghĩ xem, có năm nào chúng ta không học chính trị? Có tháng
nào chúng ta không họp chi bộ? Nhưng tôi lo là cuộc sống trong đời
và sinh hoạt chi bộ của chúng ta mỗi thứ cứ đi một đằng một nẻo.
- Không ngờ hôm nay lại được chị dạy cho tôi một bài học...
- Không dám, méo mó nghề nghiệp nhà giáo mà anh. Lẽ ra đây phải là
đề tài nghiên cứu khoa học của anh, anh Nghĩa, của giáo sư Đoàn Danh
Tiến.., đâu có phải là công việc của nhà giáo dạy văn như tôi!
Trời ơi, lại đề tài nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu. Lại những công
trình trên giấy, những công trình xa rời cuộc sống!
Cuối năm ấy Loan sinh con trai, đặt
tên cho con theo họ mẹ là Phạm Trung Dũng. Cuộc hôn nhân bị lừa làm
cho Loan tỉnh ngộ nhiều điều về cuộc đời. Ít nhất Loan hiểu rằng nền
nếp, những giá trị quý báu gia đình mình gìn giữ được dễ bị đánh
cắp, dễ bị tổn thương đến nhường nào nếu mình không có khả năng bảo
vệ những điều thiêng liêng ấy.
“Mình sẽ cho con mình tất cả những gì bố mẹ đã cho mình. Mình sẽ dạy
dỗ con mình có tất cả những phẩm chất cần phải có mà mình chưa có –
ít nhất để không ai có thể đánh cắp được cuộc đời của nó!”.
Nỗi đau đớn hun đúc lên ý chí quyết tâm nuôi con nên người.
Má sáu Nhơn là chủ hôn đám cưới của Võ
Sang. Ông Tám Việt là khách danh dự. Hai năm trời lặn lội của Lê Hải
và biết bao nhiêu cố gắng của Hai Phong, của Nghĩa, cuối cùng đã
thực hiện được một ước nguyện mà những người thân thương của cô dâu
và chú rể đều mong muốn. Bà Nguyệt và bà Hậu xứng đáng là hai cố vấn
cao cấp trong việc tác thành cho đôi vợ chồng này. Cô dâu là Nguyễn
Thị Trang, quả phụ trung uý liệt sỹ Lê Tùng Lâm, người đã cứu sống
Nghĩa.
Khi Lê Hải đến nhà ông Tám Việt chuyển lời của má Sáu Nhơn mời ông
dự buổi lễ thành hôn cho Sang và Trang, ông Tám nhận lời ngay.
- Má anh mời, tôi không thể từ chối, hơn nữa đây lại là đám cưới của
Võ Sang, vừa là người quê thứ hai của tôi, vừa nguyên là chỉ huy đơn
vị đã bảo vệ cơ quan tôi hồi chạy về Vĩnh Long, ơn nghĩa nhiều lắm.
- Anh xem, nếu ngày cưới Sang mà anh bận quá thì chúng tôi có thể
chủ động xê xích ngày cho khớp với lịch làm việc của anh, vì má tôi
và cả Võ Sang đều không có thói quen xem ngày xem giờ, nhưng má tôi
không muốn anh vắng mặt...
Ông Tám xem lịch sổ tay, tính toán một lúc, rồi đáp lại:
- Ngày này có bận thật, nhưng không sao, tôi đổi lịch làm việc một
chút và sẽ báo cáo vắng mặt vì có công việc quan trọng trong gia
đình.
- Ôi nếu thế thì má tôi và Võ Sang vui lắm. Mấy lần anh vào thăm, má
tôi đều nhận xét anh là người má tôi có thể nói chuyện được.
- Bà già của anh là người có tính cách mạnh mẽ, tôi rất mến những ý
kiến sắc sảo của bả, nói thẳng, nhưng tế nhị.
- Thú thực với anh, thỉnh thoảng má tôi vẫn cho bọn con cháu chúng
tôi những bài học đích đáng. Nhưng tôi vẫn lo...
- Bả còn minh mẫn lắm.
- Vâng, tôi vẫn lo má tôi và anh Hai Phong tôi suy nghĩ khác nhau
quá...
- Má anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Cuối năm nay chúng tôi sẽ tổ chức lễ đại thọ chúc mừng má tôi 80
tuổi.
- Ở vào tuổi của bả như vậy là quý lắm. Nếu gia đình không thấy gì
trở ngại, tôi đề nghị nên mời thêm mẹ cậu Chiểu, cho tôi có dịp được
chào bà, vì thời giờ ít quá và cũng đã lâu tôi chưa đến thăm bà
được.
Và theo yêu cầu của Tám Việt - Lê Hải còn kể cho ông nghe câu chuyện
“đám cưới Bắc-Nam” này.
... Thật ra việc thuyết phục cô dâu
chú rể đi đến quyết định thành hôn lúc đầu không có nhiều khó khăn
lắm. Trang coi ông bà Chính và ông bà Nghĩa như các anh chị lớn của
mình, những lời khuyên bảo từ phía gia đình họ Phạm rất hợp tình hợp
lý và có ảnh hưởng lớn đối với Trang. Tướng Lê Hải là thủ trưởng cũ
của Võ Sang, Hai Phong là người kết nạp Võ Sang vào Đảng trong những
ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở Vĩnh Long. Hai người này vừa hiểu
rõ tính tình Sang, vừa có uy tín lớn đối với Sang. Cuối cùng thì cô
dâu chú rể cũng thấy thương yêu nhau và nhận ra phải sớm tái tạo một
mái ấm gia đình.
... Nhưng không ai nghĩ là việc thuyết phục cháu Kim lại khó đến
thế.
Khi Trang bàn chuyện này với con gái, Kim bắt đầu lên cấp ba. Con
gái ở tuổi này tâm lý rất tế nhị và nhạy cảm. Mấy lần Trang gợi
chuyện, con gái đều im và lảng sang nói chuyện khác. Trang hiểu
những suy nghĩ của con mình...
... Kim không thể hình dung được đến một lúc nào đó trong nhà tự
dưng có một người đàn ông từ đâu đến, ...rồi mình sẽ phải gọi người
đó là ba, chiếm một phần yêu thương của mẹ mình... Trong khi đó tất
cả yêu thương của mình đã dành cho bố Lâm... Cùng với những năm
tháng côi cút, mẹ càng nói về bố Lâm bao nhiêu, Kim càng thương yêu
bố Lâm bấy nhiêu. Ngày ngày, trước khi đi học, hoặc giả lúc đi học
về, nhìn lên bàn thờ, nhiều khi Kim nghĩ rằng bố đang chào mình,
đang hỏi mình hôm nay con được mấy điểm, đang nói với mình một câu
chuyện gì đó... Không hiếm những lúc Kim hỏi bố trong ảnh về điều
này điều khác.., nhất là khi trong lòng gặp điều gì khó xử... Cả nhà
chỉ có hai mẹ con, nên Kim rất cởi mở với mẹ, thương yêu mẹ vô cùng,
song không phải điều gì cũng có thể hỏi mẹ được. Những lúc ấy Kim
lại tìm bố trên bàn thờ...
Cả Sang và Trang đã có lúc phải bàn với nhau:
- Hay là chúng ta chờ thêm vài năm nữa, cho đến khi Kim trưởng thành
hơn... Em chờ được...
- Anh xin tuỳ hai mẹ con em quyết định. Chờ đợi như vậy anh chịu
đựng được... Đừng lo gì cho anh... Anh không mong gì hơn là hai mẹ
con em hạnh phúc...
Đã thế, lên lớp 12, Kim lại có thêm nhiều bạn bè mới, nghĩa là thêm
nhiều sợi dây níu kéo Kim ở lại Hà Nội, mà Võ Sang thì lại muốn cả
nhà vào Sài Gòn...
Bà Nguyệt và bà Hậu mất công sức gần hai năm, bắt đầu từ việc làm
cho Kim thấy hai bà là chỗ dựa tin cậy của mình... Nhất cử nhất động
mọi việc của Trang và Võ Sang hai bà đều trao đổi cặn kẽ với Kim,
nghe ngóng phản ứng của Kim...
Thế nhưng khoảng một năm nay, cứ vài ba tháng Trang lại thấy con
mình xin phép về quê ngoại ở Thường Tín thăm mộ bố...
Trang, rồi bà Nguyệt, bà Hậu đoán già đoán non, nhưng không hiểu ra
sao cả...
Gia đình Trang và bên gia đình Lâm đã mấy lần đi đi về về, nhờ bao
nhiêu cơ quan, lặn lội khắp nơi trong vùng Bắc Thạch Hãn và cuối
cùng đã tìm được mộ Lâm và đưa về mai táng tại quê ngoại được ngót
nghét mười năm nay rồi... Thường thường trước ngày giỗ Lâm và cuối
năm trước khi Tết đến, cả hai bên gia đình Trang và Lâm đều đi viếng
mộ Lâm.
Việc Trang đi bước nữa, đều được cả hai bên bố mẹ hết sức vun vào.
Thế nhưng thỉnh thoảng Kim xin phép một mình về thăm mộ bố như thế
này, làm cho người lớn cả hai bên càng thêm lo.., nhất là ngày làm
lễ cưới cho Trang và Võ Sang sắp đến nơi rồi...
Bao nhiêu lần Trang tìm cách tâm sự để hiểu rõ con mình... Song Kim
lần nào cũng tìm cách chuyển rất nhanh sang nói các chuyện khác...
- Hay là hai mẹ con mình cứ sống mãi với nhau như thế này con nhé? –
Trang thực lòng hỏi con gái mình.
...Kim chỉ ôm lấy mẹ, không nói không rằng...
Trên chuyến tàu Bắc – Nam, khi vợ
chồng Lê Hải, vợ chồng Nghĩa và hai mẹ con Trang đã ổn định song
khoang ở của mình, vợ chồng Lê Hải và vợ chồng Nghĩa kéo nhau sang
khoang hai mẹ con Trang, Kim mở đầu câu chuyện:
- Các bác ơi, cháu thấy đường sắt của ta kém quá các bác ạ.
Bốn người lớn vào thăm khoang của mẹ con Kim không hiểu cháu mình
nói thế là ý gì: chê bai, đỏng đảnh? Vẫn còn hờn dỗi với đám cưới
của mẹ sao..?
Còn Trang thì ngoài nhiều điều lo khác, còn lo con mình sẽ thất lễ
với các bác.
Cũng may là con tàu lắc lư, tạo ra những khoảng cách ngắt đoạn câu
nói, bà Hậu kịp nghĩ ra một ý thăm dò cháu mình:
- Theo cháu cái gì là kém nhất?
- Theo cháu kém nghiêm trọng là khác, các bác ạ. Kém đến mức không
thể chấp nhận được!
Năm người lớn nhìn nhau bằng những con mắt lo lắng. - Vào làm lễ
cưới trong kia mà con bé cứ nhấm nhẳng thế này thì gay go quá... –
bà Nguyệt thì thào vào tai bà Hậu, tiếng ồn va đập của con tàu giúp
bà giữ kín được nỗi lo của mình.
- Kim ơi, nước mình còn nghèo, có tàu chạy thông suốt Bắc – Nam,
khoang nằm sạch sẽ, như thế là quý lắm rồi chứ con. Lẽ ra phải đi
hai ngày rưỡi, bây giờ rút xuống còn hai ngày. Như thế con phải có
lời khen mới công bằng chứ!.. – Trang tìm cách kiềm chế con.
- Không mẹ ạ. Chuyện nào đi chuyện ấy. Con vẫn dứt khoát, chê là
chê, rất chê!..
- Bác chịu cháu rồi, cháu chê cái gì nào? – bà Nguyệt tìm cách làm
cho không khí chuyện trò trong khoang dịu lại.
Kim lấy kẹo đưa cho mọi người:
- Cháu mời các bác ăn kẹo ạ, con mời mẹ. Xin các bác và mẹ ăn kẹo để
bình tĩnh nghe con nói rõ con chê bai cái gì ạ... – chia xong kẹo,
Kim về chỗ ngồi của mình, nói tiếp: - Các bác ạ, mẹ ạ… - vẻ mặt Kim
tỉnh bơ trong khi nói, -... đây là chuyến tàu Bắc – Nam chở cô dâu
vào Sài Gòn làm lễ cưới, thế mà không kết nổi mấy dây hoa tết vào
toa tàu!.. - khi nói gần hết câu, chính Kim cũng phải tủm tỉm
cười...
Tiếng cười bùng lên trong khoang tầu. Bà Hậu ôm lấy Kim:
- Con đành hanh quá con ơi! Chàng trai nào sau này được con chọn làm
hoàng tử thì chắc sẽ bị con bắt nạt không ngửng mặt lên được!..
Không khí vui vẻ trong khoang tàu tự nhiên ở đâu ập đến. Song có lẽ
hào hứng nhất là tướng Lê Hải. Ông mở mấy chai bia Vạn Lực(*) [(*)
Tên nhãn một loại bia chai Trung Quốc vào thị trường nước ta lúc bấy
giờ. Thời kỳ này chủ yếu ta mới chỉ sản xuất được bia hơi. Đàm phán
bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc còn đang tiếp diễn,
nhưng hàng hóa Trung Quốc đã bắt đầu tràn vào.] và nước ngọt, rót
vào các cốc mời từng người:
- Cháu Kim nói đúng quá, đây là chuyến tàu làm lễ cưới Bắc – Nam.
Chiến công này trước hết thuộc về cháu Kim, mẹ Nguyệt và mẹ Hậu! Xin
mời nâng cốc!..
Mọi người đang cười nói vui vẻ, Kim lại lên tiếng:
- Bác Hải ạ, đám cưới của mẹ cháu vui là thế mà ngôn ngữ của bác đầy
chiến tranh!
- Chết chưa anh Hải, nghỉ hưu bao nhiêu năm rồi mà vẫn chưa sạch cái
nghề tướng! – bà Hậu chọc tức chồng...
Lê Hải bàng hoàng, vì vui và không ngờ:
- Ôi cháu tôi đáo để quá!..
Nhân lúc vợ chồng ông Lê Hải và vợ chồng ông Nghĩa mải cười nói râm
ran với nhau về đám cưới sắp tới, Kim đứng dậy dắt tay mẹ mình ra
đứng trước khoang cửa sổ bên ngoài để ngắm phong cảnh. Thực ra Kim
muốn có cơ hội ôm chặt lấy mẹ mình để nói với mẹ những điều không
thể nói bằng lời...
Núi biển hùng vĩ bao la chuyển động trước mặt, nhưng Kim lặng lẽ gửi
gắm những ý nghĩ trong tâm hồn mình vào niềm yêu thương dạt dào mênh
mang không sao xác định được...
...Trang ơi, khi anh nhận ra cái ngốc về lãng phí thời gian của
mình, thì đây là đợt bổ sung quân lần thứ ba! Tiếc ơi là tiếc...
Súng lại nổ trước mặt rồi... Rút kinh nghiệm, đợt bổ sung quân lần
sau có lẽ anh sẽ viết được dài hơn...
... Ngoài các cuộc chiến dữ dội mịt mù tiếp nối nhau không dứt, khói
bom đạn nhiều khi đến nghẹt thở.., trong thành Quảng Trị thời gian
bây giờ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Chẳng có gì khác nhau giữa ngày và
đêm để tính xem anh đã xa em và con bao nhiêu lâu rồi. Đành dùng các
đợt bổ sung quân để đo đếm thời gian vậy!..
Lại một đợt bổ sung quân nữa... Đại đội Bách Khoa(*) [(1) Đợt tuyển
quân năm 1970, Đại học Bách khoa có hơn một trăm sinh viên và trợ
giảng nhập ngũ, trong đó Lâm và Đại cùng là trợ giảng, cùng được
Thành đội Hà Nội phân công phụ trách C45, thuần người của Bách khoa.
Sau đó, đợt tuyển quân năm 1971, số sinh viên Bách khoa nhập ngũ còn
đông hơn...] của anh đến hôm nay chỉ còn mỗi anh và Đại. Lần này anh
giao hết mọi việc nhận quân và phiên chế cho Đại, cái ông “Einstein
con” của chúng ta ấy mà. Cái triết lý “tương đối” của Đại rất được
việc, vì làm cái gì cũng nhanh gọn. Kể từ đợt bổ sung quân đầu tiên,
trong đại đội bọn anh không làm sao biết ai vào với ai để gọi tên
từng người. Lính mới đến và đi đều rất gấp, không kịp nhận mặt
nhau.... Tất cả bây giờ chỉ có một cái tên chung bất tửi C45... Nhận
quân mới Đại cũng không đủ thời giờ mà đếm, chỉ hô: “Ai được phân về
C45 đứng vào đây!” Không ai còn tên riêng của mình... Lệnh gì phát
ra cũng chỉ gọn lỏn “C45!”, dù là có lúc chỉ còn vài ba người... Hôn
em và con. Chào cậu mợ và tất cả cho anh.
... Đại thật hào phóng. Nó lại nhận hết mọi việc để anh viết được
vài dòng này, với điều kiện phải chuyển lời khen của nó về bữa bánh
tôm hôm nào em khao bọn anh trước khi lên đường. Tại em rán bánh
ngon hay là nhờ tem phiếu nhà mình hôm ấy mua được bột mỳ trắng? Tụi
anh nói với nhau không biết bao nhiêu lần về chuyện này. Kim đã bi
bô được thành câu chưa em? Nhớ em và con vô cùng...
Đợt bổ sung quân lần thứ năm.
Đại hy sinh mất rồi Trang ơi!.. – Đợt nhận quân bổ sung quân lần thứ
bảy, anh phải giao cho một chiến sĩ giữ chốt để đi nhận quân mới....
...
Cái thư bác Nghĩa năm nào chuyển từ chiến trường về cho mẹ Kim chỉ
là hai trang giấy đã úa vàng, hình như được xé ra từ quyển sổ nào
đó.., với những câu viết ngả nghiêng, vội vã, không đầu không
đuôi... Lá thư cuối cùng của bố Lâm!..
Từ khi lên cấp III, càng có nhiều chuyện phải nói với bố Lâm trên
bàn thờ, Kim càng giở lá thư cuối cùng này ra, đọc đi đọc lại không
biết bao nhiêu lần. Có lần chỉ là để nói chuyện với bức thư. Mỗi lần
là một cảm nhận mới, suy nghĩ mới. Song chỉ gần đây thôi, từ khi
chợt nghĩ được rằng mình còn phải yêu mẹ thêm cả phần yêu của bố
dành cho mẹ, Kim cảm thấy mình trở thành người lớn. Gần đây thỉnh
thoảng Kim xin phép một mình về thăm mộ bố Lâm chính là do điều này
thôi thúc... Cũng có lúc Kim còn nghĩ chính mình là bố Lâm, càng yêu
thương mẹ da diết... Chính vì yêu mẹ với cả tình yêu của bố Lâm, Kim
hiểu ra phải giúp mẹ đi bước nữa. Mẹ chịu đựng bao nhiêu hy sinh như
thế là quá nhiều rồi! Càng thương mẹ vô cùng...
Lúc này, đứng trước khoang cửa sổ tàu hỏa, Kim ôm mẹ, nhưng vẫn giữ
kín điều này trong lòng. Vì Kim nghĩ bây giờ mình đã là người lớn...
Nhìn phong cảnh bao la mênh mang bên ngoài khoang cửa sổ, Kim càng
ôm riết lấy mẹ mình, không nói không rằng.
Kim cố ôm riết mẹ để giấu nước mắt...
... Nhất định mẹ sẽ hiểu mình! Nhất định mẹ sẽ hiểu con, bố ơi!..
Con tàu kiên nhẫn trườn đi, lắc lư đày vô tư. Nó dường như không hay
biết hoặc không cần hay biết suy nghĩ của mọi người. Trong khoang,
trừ Lê Hải và Nghĩa, đây là lần đầu tiên bà Nguyệt và Hậu đi tàu Bắc
– Nam. Không khí vui vẻ trong khoang tàu và bao nhiêu chuyện để nói
lúc này thu hút hết tâm trí họ, chưa ai kịp ngắm nhìn quang cảnh mới
lạ bên ngoài cửa sổ đang chạy ngược đoàn tàu...
...
Trang và Sang quyết định làm lễ cưới
thật đơn giản: Làm thủ tục tại trụ sở cơ quan đăng ký kết hôn của
thành phố, có sự chứng kiến của đại diện các cơ quan và bạn bè. Lễ
cưới chính thức được tổ chức tại nhà má Sáu Nhơn, hoàn toàn trong
phạm vi gia đình. Sang nhờ má Sáu Nhơn lo cho việc này, vì họ hàng
thân thuộc của mình ở Vĩnh Long phiêu dạt hết mỗi người mỗi nơi. Lâu
nay bà Sáu coi Sang như con mình.
Má Sáu bắt dẹp hết mọi đồ đạc trong phòng khách lớn, thay rèm mới
cho các cửa sổ, dựng thêm bốn cây đèn chùm nhỏ ở bốn góc phòng, lấy
bàn xếp lại thành một bàn ăn dài chung cho tất cả cô dâu, chú rể,
khách và chủ nhà. Má sai kết một lẵng hoa to và đẹp, kê trên bục cao
phủ khăn trắng đặt ở một góc phòng. Thoạt trông như ở đấy mọc lên
một cây hoa đời tươi tắn các màu sắc, rất vui mắt, nhưng thoáng đạt,
tao nhã. Ánh đèn rọi vào làm cho cây hoa càng thêm sinh động. Bàn ăn
trải khăn trắng, điểm xuyết một vài lọ hoa nhỏ, toàn hoa hồng, các
màu sắc khác nhau. Đũa bát và các ly uống rượu được sắp đặt theo
kiểu tiệc ngồi trang trọng. Ngắm nghía, sửa chỗ này chỗ khác cho
thật vừa ý, má bắt đầu loay hoay lên sơ đồ, xếp đi xếp lại chỗ ngồi
cho từng người, cứ như là tiệc của nguyên thủ quốc gia chiêu đãi các
khách quý vậy.
Đám trẻ trầm trồ thừa nhận mọi thứ được má Sáu sắp đặt đẹp quá. Tất
cả cứ ngỡ rằng trong nhà mình tự nhiên hiện ra một phòng tiệc của
một nhà quý tộc nào đó mà chúng thường thấy trong các phim châu
Âu... Song chúng kinh ngạc hơn khi thấy giảng đến đâu, má Sáu lại
chỉ những trang sách, những trang ảnh của quyển sách má cầm trong
tay. Má Sáu nói rất tỉ mỉ về sơ đồ chỗ ngồi... Chúng đã thấy quyển
sách này trong thư viện của ông nội, đã một vài lần giở ra xem, chủ
yếu là xem ảnh, đứa nọ hỏi đứa kia không biết ngày xưa ông bà nội
mình mua quyển sách này để làm gì. Bây giờ thì chúng hiểu.
|