Ngô My phản hồi Bùi Đức
Hào
về bài viết
V́ bài viết của ông Bùi Đức
Hào có một đoạn tập hợp nhiều ư kiến từ nhiều người phê b́nh khác,
tôi xin được phản hồi bên dưới một vài ư kiến đó bằng chữ màu xanh.
Tôi chỉ xin nêu ư kiến và cảm nghĩ của ḿnh về Gió Lẻ và viết tắt
NPB như Nhà Phê B́nh hay Người Phê B́nh.
Thế nhưng,
trong Gió Lẻ, văn chị súng sính – và đôi khi hơi ngượng nghịu –
trong chiếc áo mới, nhất là ở phần đầu, như thể ng̣i bút chưa đủ hâm
nóng, dẫn tới những phê b́nh như của Nhă My (24):
“Cách viết
mới, nên người khen không ít, người không chấp nhận cũng nhiều thiệt
nhiều. Nhất là, người quen với Nguyễn Ngọc Tư chân quê dung dị, bảo
Gió lẻ khác chị xưa quá, như cô gái chân quê một bước đi ra thành
thị, với câu chữ làm duyên làm dáng (…) Nguyễn Ngọc Tư có lạ, có
mới, có biến đổi câu chữ kỳ ảo làm cho bạn có khi hơi mất đi chút
xíu cảm t́nh.”
Khi NPB Bùi Đức Hào nói
“... trong Gió
Lẻ, văn chị súng sính –
và đôi khi hơi ngượng nghịu – trong chiếc áo mới, nhất là ở
phần đầu, như thể ng̣i bút chưa đủ hâm nóng...”,
ông đă không chỉ ra được đoạn
văn đó súng sính hay ngượng nghịu ở từ nào, nghĩa nào. Theo tôi,
đoạn văn đầu tiên đó không có vẻ ǵ ngượng nghịu hay súng sính, nó
chỉ là không làm tốt cho phần mở đầu Gió Lẻ. Ví dụ, nếu tác giả đưa
đoạn văn đó về sau như một hồi tưởng, đồng thời bắt đầu Gió Lẻ bằng
đoạn thứ hai
“Họ không c̣n
nhớ màu của nắng, hay phía của mặt trời rơi, vào buổi chiều chiếc xe
tải rời một cái quán ăn bên ngă ba đường đi chợ Cỏ...”,
th́ tôi tin, câu chuyện sẽ
được mở màn sống động hơn, trực dẫn vào chuyến xe định mệnh của ba
con người.
Mỹ từ pháp
nhân cách hóa đôi lúc dường như bị “quá dose”, dễ cho cái cảm giác
văn hơi cầu kỳ, chẳng hạn như khi tác giả viết:
“Hôm ấy,
gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa” (trang 125);
Bắt đầu chuyện kể về cái
chuyến đi của những con người cô lẻ ấy bằng cuộc khởi hành của
gió. Gió đă bắt đầu “ướm chân vào mùa”, họ cũng vừa lên
đường... C̣n một biện pháp nào tốt hơn, thích hợp mà thi vị hơn thế
nữa không, trừ phi có ai thực sự ghét gió bởi thường lậm gió?
hay như ở tiểu
đoạn tả về cơn gió làm nền cho tác phẩm (trang 132), với những câu
giống văn chính luận nhiều hơn là văn truyện ngắn: “Và từ khi ĺa
nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó”,
“Và từ khi ĺa nhau, gió
dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó” là không nên dùng
cho Truyện ngắn? Lời khuyên này sẽ gây nhiều “nan giải” cho chính
người viết ra nó đấy. Khi B́nh Nguyên Lộc viết:
"Gió bấc lướt
trên ngọn cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và v́
không có lối ra gió quay cuồng, càng vặn thêm ḷng người vốn đă
lạnh"
(*), sao không hề nghe ai trách cứ?
Gió mà “quay cuồng” v́
“té vào giếng” rồi “vặn thêm ḷng người vốn đă lạnh...”
th́ chuyện nó có “dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó”
đâu có ǵ là không phải?
Xem “gió” của Ngô Phan Lưu
trong “Bầy Người Bé Nhỏ” ḱa: “Bầu trời như một tấm ch́ đang đè
sát xuống một biển nước màu gạch pha tro. Đè sát đến mức, gió lạnh
cũng phải ép ḿnh mới đi qua được.”
Gió phải tự “ép ḿnh mới
đi qua được” cái gầm trời sát sạt ấy đấy, khổ lắm. Gió
mỏi mệt tả tơi rồi, nhưng v́ bản chất hồn nhiên xuân th́ của nó, nên
gió lại “ướm chân vào mùa” tiếp tục lang thang, tôi nghĩ thế.
(*) – theo trích dẫn của NPB
Thụy Khuê,
Hợp Lưu 11/11/2008
Mặc dù có
người nghĩ Nguyễn Ngọc Tư chọn “bút pháp tượng trưng xen lẫn siêu
thực” (17) trong Gió Lẻ, độc giả vẫn dễ cảm thấy, ở tiểu đoạn tả
người say rượu (trang 128), h́nh ảnh “máu loăng” hơi bị gượng ép,
nhất là ở câu cuối:
“Cả người
anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đă ướt đẫm tới xương.
Chúng pha loăng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng ḍng
trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn
lẫy của những ḍng máu loăng.”
“Em quẩy túi lên vai”,
cuống cuồng bỏ đi, “em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn
lẫy của những ḍng máu loăng” ấy, bởi v́ đó là những ḍng “máu
lạnh” hay “máu hèn”?... (“Bữa ở trên đèo, tụi nó có tới sáu
thằng. Ḿnh đâu có bỏ chạy, ḿnh chỉ t́m người tới giúp.” )
Mà “Em”, h́nh như “Em” khinh
cả hai thứ máu đó, cho dù “nước mưa, rượu và nỗi buồn” có cố
gắng “pha loăng” bớt cái lạnh lùng, cái hèn của ḍng máu đó,
có cố trưng ra một lời giải thích, th́ em cũng vẫn cứ khinh, sợ và
bỏ đi. Có ǵ gượng ép ở đây không nhỉ? Và chắc chắn, không có bút
pháp siêu thực nào, chỉ là một dụng ư của nghệ thuật ẩn dụ.
Nhà phê b́nh
văn học Phạm Xuân Nguyên (27) đă rất khắt khe với tác giả trong câu
cuối này, cho rằng:
“…khi chị
tỏ ra làm lạ ḿnh, khác ḿnh bằng cách “làm văn” ở câu chữ th́ lại
không nên. Cái duyên cái chất của Ngọc Tư là ở những câu văn chân
chất, hồn nhiên truyền tải được cái hồn vía của một người văn. Những
câu làm dáng, văn hoa thật không phù hợp và không cần thiết cho
truyện, càng rất không “Ngọc Tư”.
Để vươn ra thế
giới, ngoài ví dụ Hàn quốc, làm sao giới thiệu nữ sĩ Cà Mau với các
nước khác đặc biệt là ở phương Tây?
Để làm giàu,
làm mới ḿnh, tác giả có nghiền ngẫm, kế thừa, giao lưu, cọ xát với
văn học thế giới đủ chưa? Hỏi tức là trả lời.
Tôi tin, khi đem thân mạng
của ḿnh đi đấu tranh cho hoà b́nh, không ai muốn nghĩ đến giải
Nobel Hoà B́nh Thế Giới (dĩ nhiên phải trừ ra vài ca khác thường đă
từng có trong lịch sử của giải thưởng này). Khát vọng th́ khác với
tham vọng. “Em hồn nhiên rồi em sẽ b́nh minh”.
Yêu cầu một tác giả phải vừa
“bám giọng”, giữ “hồn vía”, luôn giữ “chất Ngọc Tư”, không nên “bỏ
một mạch ngầm”, vừa phải “vươn ra thế giới”, rồi phải “nghiền ngẫm,
kế thừa, giao lưu, cọ xát với văn học thế giới”, phải “định hướng
chiến lược” theo marketing, vân vân và vân vân... ? Các nhà phê b́nh
quí mến ơi, tất cả những điều các vị nói trên nghe rất giống chỉ
thị, một sự phân công tác, hay lời hợp đồng của nhà xuất bản, chứ
không phải là công việc của phê b́nh tác phẩm.
Nếu độc giả Việt Nam, trong
đó có các nhà phê b́nh, chưa rung động thực sự trước sự nhạy cảm
tinh tế, chưa hiểu trọn vẹn những dụng ư nghệ thuật , không chấp
nhận những giọng văn khác nhau của một tác giả, th́ việc giới thiệu
tác giả đó ra nước ngoài hẳn có ǵ mà phải vội?
Lời của riêng tôi:
1. Giọng kể của ai?
Trong Gió Lẻ,
nếu hai ba giọng kể nào như một số người phê b́nh đă chỉ ra, th́ đó
cũng chỉ là một giọng nói duy nhất, giọng của tác giả ở thể ngôi thứ
ba, vừa third-person omniscient (biết ư nghĩ, cảm giác của
tất cả nhân vật) lẫn third-person limited (chỉ biết ư nghĩ,
cảm giác của một nhân vật) .
“Em” ở đây
không tự ḿnh kể chuyện, mà là tác giả đang kể chuyện. Tác giả dùng
từ “Em” như là “Nàng”. V́ là ở trong vai ngôi thứ
ba third-person omniscient nên “người kể” có toàn năng hiểu
và kể lại khi th́ về hoàn cảnh của tất cả nhân vật; khi th́ hiểu
được sự giao cảm giữa “Em” và các con vật rồi tường thuật;
lúc th́ nói lời của Gió, và ghê hơn nữa, đă kể lại lời của các con
ma. Ngôi thứ ba third-person omniscient này xuyên suốt Gió Lẻ
từ lời mở đầu của một con ma (“Tại sao người ta không nh́n thấy
ḿnh khi ḿnh c̣n sống”) cho đến lời trách của con ma
T́m Nội khi chiếc xe rơi xuống vực (“con nhỏ này… tôi chỉ
định giỡn thôi mà…”).
Nhưng, dọc
theo câu chuyện đôi khi tác giả ở ngôi thứ ba đó lại “thu ḿnh” vào
third-person limited, chỉ biết được ư nghĩ của một nhân vật,
không biết về những nhân vật kia. Ví dụ, khi “thu ḿnh” vào “Em”
, tác giả chỉ biết về em, mà không biết ư nghĩ của các nhân vật Ông
Buồn và anh T́m Nội. Tác giả cũng đă làm điều tương tự, “thu ḿnh”
vào nhân vật Ông Buồn, anh T́m Nội, thậm chí vào các con ma, con
vật.
Độc giả dễ bị
“rắc rối” chỗ này, “Em” và con chó tên C̣ lại tṛ chuyện và hiểu
nhau được ư? Thật vừa ngộ nghĩnh, vừa cảm động khi tác giả làm thông
ngôn, tường thuật lại với chúng ta về sự giao cảm không lời
giữa “Em” và con chó...
“Con C̣ lẽo
đẽo đi theo, thật ra cái từ “đi” nó chẳng hiểu, v́ em
(nàng) chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy
ra...”
Lẽo đẽo theo
sau bước chân cô độc của kiếp người là một t́nh thương, một mối cảm
thông vô ngôn, một cái biết siêu nhiên, xoá tan biên giới
giữa người và vật. Nó gây chấn động, gây xấu hổ cho con người, sao
chúng ta c̣n tệ hơn cả loài vật?
V́ là ở ngôi
thứ ba third-person omniscient nên tác giả có toàn năng hiểu
và kể lại lời độc thoại của nhân vật, nói lên những suy nghĩ của
nhân vật bằng tiếng nói của chính ḿnh, nên mới xảy ra việc đột
xuất xen lẫn trong những độc thoại của nhân vật, có một giọng
nào đó đang “làm văn”, tả cảnh tràng giang mà không nhất thiết
đó là lời nói của nhân vật. Cho nên, nhận xét của NPB Phạm Xuân
Nguyên:
“Thí dụ câu
này từ miệng kể cô bé nhân vật chính: “Trong mớ âm thanh quen thuộc
của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao
xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ
sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa
ĺa” là hố to. Đó là lời tác giả, chứ không phải là lời
của cô gái.
Vừa trực
tuyến, đơn tuyến, vừa đa tuyến. Sự nhào lộn, biến hoá của “point of
view” này gây ra sự “khó nắm bắt” cho một số độc giả , nhưng nó rất
thông dụng trong truyện ngắn và tiểu thuyết, tạo nên những t́nh
huống hấp dẫn.
2. Gió Lẻ – một biểu tượng:
Suốt truyện
ngắn Gió Lẻ, độc giả có thể sẽ choáng ngợp, đếm được đến vài chục từ
“gió” trong đủ loại gió khác nhau: gió chướng, gió độc, gió
lạnh, gió bầy, ... Nhưng Gió Lẻ là loại gió ǵ? Tôi thầm mong nó
không có nghiă là Gió Lẻ Tẻ, mà hy vọng rằng tác giả đă dùng nó cho
tựa đề, như một biểu tượng để nói lên sự lẻ loi, cô độc. Thật xiết
bao thất vọng khi chị bỗng dưng tự phá huỷ cái biểu tượng rất độc
sáng của tựa đề Gió Lẻ:
“Câu chuyện
trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp mưa, nắng,
bất chấp gió lẻ gió bầy.”
“Gió bầy
đi rồi gió lẻ tới, mỗi mùa gió có một tiếng nói riêng,
nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng thanh thao và trong trẻo.”
Khi Gió không
c̣n là h́nh ảnh để nói về sự lẻ loi, vô định và cô độc th́ sự
“trốn gió” bỗng hoá ra là cái “trốn lạnh” b́nh thường, chứ không
phải là sự chạy trốn nỗi cô đơn, cô độc. Do đó mà NPB Bùi Đức Hào
mới nói rằng:
“V́ thế,
người đọc khó được thuyết phục về mục đích chỉ nhằm “trốn gió” của
gă lái xe”. Và ông ta đúng.
Tôi tin, trong
vội vă chị đă “lỡ tay đánh rơi” biểu tượng. Cho nên, khi trả lời
phỏng vấn, chị đă nói: “Thật ra tôi có thể viết Nắng lẻ, hay Mây
lẻ, nhưng những thứ này không… lạnh, khi tôi đang nói tới cái cô
độc hiu hắt của cuộc đời.”
3. “Làm văn”, tại sao không?
“Em” xiết bao
hoang dại, ngây thơ, khi vừa chớm dậy th́...
Nằm nh́n
trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi ḿnh nói trở lại, câu
đầu tiên là ǵ?
– Mầy đừng
liếm chân tao, nhột lắm!
Câu đó em
sẽ nói với con C̣. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô chừng,
chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi
ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân,
đầu gối em. Những cơn rùng ḿnh từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một
ṿng sóng ran cả người.
Dù “Từ lưu
lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi”,th́ giữa
đất và trời, “sao tả tơi” kia vẫn cứ nguyên sơ, trong lành như một
giọt sương.
Rồi ...
“những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy,
có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa ĺa.”
Có hạt sương
rụng rơi, có nụ hoa ĺa, có vết thương tự cứu chữa bằng nhựa ứa của
chính ḿnh, nhưng không có “Những luồng run rẩy rung rinh lá”
(Xuân Diệu). Những “luồng run rẩy” ấy đă bị tước đoạt, đă bị chết
oan!
Chỉ bằng với
những khắc khoải âm thầm của thiên nhiên, những “bài làm văn” của
Nguyễn Ngọc Tư cứ làm cho người đọc ngậm ngùi, rơi nước mắt. Tôi vẫn
không thể hiểu, nhà văn mà không “làm văn”, th́ làm ǵ? Giọng
kể này hay lắm, sao quư vị không ưa?
Chưa hết, dù “những
tia máu vằn trong mắt” và “ bước chân oằn trĩu”, với nỗi oán
giận và cơn đau mà em không thể chia sẻ được cùng ai ngoài con chó
tên C̣, “Em” vẫn cứ thương người. Có độc giả sẽ hiểu, “Em”
khinh kẻ đă hại ḿnh như khinh một con chó, nhưng tôi nghĩ, “Em”
thương kẻ đó như thương một con chó đă “lè lưỡi liếm để gọi em
than thở chuyện đời nó”. Một T́nh thương đă xô ngă mọi nấc thang
giá trị, nơi tâm Phật ẩn náu, không chút mê mờ. Những ai đă nói Gió
Lẻ chỉ là những câu chữ làm duyên làm dáng cần nên xem lại nhận xét
của ḿnh.
4. Định vị chiến lược hay Tự
do?
Hầu hết những
nhà phê b́nh đều cho rằng Nguyễn Ngọc Tư không nên rời bỏ giọng kể
của vùng sông nước Nam Bộ, bởi làm như vậy là chị sẽ đánh mất hồn,
bản sắc của ḿnh... Nhưng chỉ có chị mới có thể cảm thấy những ước
muốn vươn ra ngoài địa phận đó như một khao khát khám phá nghệ
thuật, chứ không phải là muốn “làm duyên làm dáng”, “làm lạ”,
“đánh bóng” nọ kia. Dùng những từ này để sỗ sàng phủ đầu một tác
giả đang ra sức t́m kiếm, thám hiểm trên con đường sáng tạo là không
tốt bụng và không tiến bộ. Nếu chị chỉ biết tự đóng khung, tự thoả
măn với những ǵ đă làm ra th́ mới là đáng ngại. Giọng văn cũng chỉ
là phương tiện của bếp núc sáng tác, mà giọng đó là giọng của ai cơ
chứ? Tại sao chị lại không thể tiếp tục sáng tác bằng nhiều giọng
văn khác nhau? Tại sao phải g̣ ép chị nói giọng nói của nhân vật?
Trung thành với giọng kể vùng sông nước phương Nam của ḿnh, tác giả
sẽ phải từ chối những đề tài khác mà chắc hẳn chị yêu thích và muốn
thử nghiệm.
Tôi quư ư
kiến này của NPB Thụy Khuê từ
Hợp Lưu:
“Trái ngược
với thời điểm sau 1954, các nhà văn Bắc di cư vào Nam, ngoài giọng
văn Bắc, họ c̣n tập viết đối thoại tiếng Nam và họ đă làm giầu thêm
ngôn ngữ của họ: văn chương luôn luôn cộng vào, khi trừ là mất đi.”
Mặc dù chị
Thụy Khuê lo lắng:
“Nếu quả
như vậy, th́ sự "thống nhất ngôn ngữ" đang đi trong chiều đáng ngại:
nó đẩy nhà văn đến chỗ chối bỏ bản ngă của ḿnh.”
Tôi vẫn cứ
không tin rằng giọng văn quyết định bản ngă của người viết, cũng
không là “phần hằng số bất biến” của tác giả, như lời của ông Bùi
Đức Hào.
Đọc Truyện
Ngắn Việt Nam hiện nay, là một độc giả, tôi nhận thấy Ngô Phan Lưu
là một bậc thầy trong cái gọi là “giọng văn”. Những câu đối thoại
trong truyện ngắn của ông có khi là những lời nói của những người
dân quê, mang đậm hồn quê Việt Nam nhưng câu chuyện không tự nó muốn
tạo ra chất “quê” hay “dân dă” bởi nó đă là “quê ḿnh” rồi c̣n ǵ.
Tàng ẩn đằng sau những truyện ngắn ấy là một triết lư sâu lắng.
Thoắt một cái, giọng nông dân chân chất biến mất, người ta nghe một
giọng “Xuân Thu Chiến Quốc”, những cái nh́n gườm nhau sát nút, những
lời gằn đầy hiểm hoạ (như “Xoa Tay Và Cười”), bỗng thư giăn giọng
một ông “dại” Phú Yên, rồi đùng một cái lại là giọng rất trẻ như của
một trung niên, có cả giai nhân, có cả sóng, cả nhạc của một khung
cảnh đô thị... Một giọng kể đang “điều hành” nhưng tự nén chặt ḿnh
đằng sau sự tự diễn biến của câu chuyện. Nó không “lộ ḿnh”, như
người điều khiển những con rối mà khán giả không thực sự biết mặt
mũi và giọng nói thật của người nghệ sĩ sau bức màn kia là ai. Một
nhà văn vẫn có thể là một kịch tác gia theo cái cách của ḿnh. Nếu
vở kịch của ḿnh có hai màn, một về nông thôn, một về thành phố, dĩ
nhiên người viết kịch phải sử dụng đủ loại “giọng” th́ mới làm nên
nổi. Cái tham vọng nếu có chăng ở Nguyễn Ngọc Tư, tôi nghĩ, có lẽ là
chị đang muốn viết một tác phẩm “không biên giới”. Chị đang đứng
“Bên Cầu Biên Giới” đó thôi.
Nguyễn Ngọc Tư
đang bị báo chí ḱm hăm trong “t́nh thương yêu vô vàn”, dù chị đă
như “gào” lên: “Con cá quẫy để khỏa bèo v́ nó cần thở ở một
khoảng rộng hơn. Tôi cũng vậy”. Nhưng con cá ấy đă chẳng khoả
nổi bèo, mà c̣n là cả một rừng bèo mới thật đáng sợ.
NPB Bùi Đức
Hào đă tung ra một cái lưới hoành tráng, thu gom toàn bộ dư luận và
nguồn với 36 links. Không những thế, ông c̣n trích dẫn những tên
tuổi gạo cội nước ngoài, gợi ư cả “thương hiệu”, “định vị chiến
lược” của marketing, dùng đ̣n kinh tế để thuyết phục nữ sĩ Cà Mau:
Cách tân
(innover) không phải để cách tân. Nó không phải chỉ duy nhất dựa
trên sự sáng tạo (créativité), mà c̣n phải biết sáng tạo ra cái ǵ,
và sản phẩm mới đó có lọt được vào mắt xanh của thiên hạ, có đáp
đúng những khát vọng bùng phát hoặc c̣n đang âm ỉ trong ḷng khách
thưởng ngoạn hay không.
Văn
chương trong một nền kinh tế thị trường.
Nghe quen thuộc lắm. Lần này, biết
bao nhiêu là người đă hả dạ. C̣n nữ văn sĩ, chị đang nghĩ ǵ?
Tôi
sống ở Mỹ, nơi hằng năm suốt trong nhiều tháng trời, đài truyền h́nh
Fox xen kẽ chiếu hai chương tŕnh American Idol và So You Think You
Can Dance. Cả hai chương tŕnh đó đă cho thấy thí sinh được tuyển
chọn không nhất thiết phải là giọng ca / vũ công hay nhất
(the best) mà là giọng ca / vũ công được yêu thích nhất (the
most favorite). Với American Idol, thật dễ nhận thấy rằng ban giám
khảo đă khống chế thiên hướng của thí sinh, bác bỏ nét tài hoa riêng
bẩm sinh của họ, g̣ tất cả những
“riêng
lạ”
ấy theo mô h́nh chiến lược sản
phẩm của nhà sản xuất băng đĩa, cái mô h́nh hội đủ các yếu tố giọng
và h́nh thể trẻ, sexy và
“Americanized”.
Đây chỉ là một ví dụ của cái gọi
“định
vị chiến lược”
cho một số sản phẩm văn hoá của Phương Tây, tôi không có ư ám chỉ
nhà văn như là các thí sinh kia.
Dĩ
nhiên các thí sinh sau khi chịu g̣ ḿnh vào các
“yêu
cầu”
trên, dẹp bỏ cái tôi của ḿnh, chịu lắng nghe lời khuyên của ban
giám khảo và đi theo “tiếng
gọi”
của người thưởng thức (chứ không phải tiếng gọi của trái tim ḿnh),
họ sẽ gặt hái danh hiệu và những hợp đồng béo bở. Các ban giám khảo
luôn am tường giới thưởng thức, tiêu thụ, ch́u theo thị hiếu của họ
để hái ra tiền. Khách hàng là thượng đế, họ nói thế. Nhưng, đó chỉ
là một nửa sự thật, vẫn có một thế lực siêu quần hơn
“đi
trên đầu”
khách hàng đấy. Không những
“Selling
the Invisible”,
họ c̣n có cả “Mind
Control Marketing”
nữa cơ.
“Hollywood
là nơi mà người ta trả một triệu dollars cho một nụ hôn và chỉ 50 xu
cho linh hồn của bạn mà thôi”
cô đào Marilyn Monroe đă nói thế ("Hollywood
is a place where they'll pay you a million dollars for a kiss and 50
cents for your soul.").
Nhưng
chúng ta có quyền hy vọng, rằng các nhà xuất bản của phương Tây
không mang “tinh
thần”
của Hollywood.
5. Lời Kết.
Trở
về Gió Lẻ, với bài viết này tôi chỉ muốn bày tỏ sự ủng hộ đối với
tác giả về sự thử nghiệm phong cách mới của chị. Chẳng phải ngẫu
nhiên mà chị đă khởi hành sự đi t́m cái mới bằng một cơn gió lẻ loi,
cô độc đó sao? Dường như chị đă thậm hiểu rằng, sáng tác là cuộc
hành tŕnh cô độc ít bóng mát, không ai có thể giúp đỡ ai, cơng ai
đi. Như một kẻ lữ hành đi qua sa mạc, qua các ốc đảo, lang thang t́m
kiếm những mạch nước để được buông vào đó những cơn khát sáng tạo
của ḿnh. Nếu y không kiếm ra được mạch nước, nếu y bị lạc đường
không t́m ra một ốc đảo, y sẽ phải
“chết”.
Các nhà văn, nhà thơ và các nhà phê b́nh quư mến, có phải mỗi người
trong quư vị, ai cũng có những sớm mai thức dậy thấy ḿnh như một kẻ
đă chết rồi? Không cảm hứng, không đề tài, không biết viết cái ǵ?
Rồi quư vị khoả lấp cái
“nỗi
chết”
đó bằng sự bận rộn của một ngày để
thấy ḿnh... đang “sống”?
Cái nghiệt ngă ở chỗ, ai cũng có thể cho nhau ḷng mến mộ, đề tài,
định hướng, nhưng không thể cho nhau nguồn cảm hứng và cái
“tự
biết ḿnh phải làm ǵ”.
Ai cũng có thể nh́n thấy, phát biểu, phân tích nhưng chỉ có một
người phải tự ḿnh làm ra cái gọi là tác phẩm. Sao không trả lại cho
nhau cái đẹp nhất của “t́nh
nghệ sĩ”:
quyền tự do sáng tạo.
Nguyễn Ngọc
Tư đă nói rơ những điều này trong bài tham luận
Lớn lên từ những ngộ nhận
“...
Nhưng sự trải nghiệm của tuổi tác, của thời
gian đă làm tôi nhận ra, những ǵ tôi viết là không gian của riêng
tôi, của sự tưởng tượng và sáng tạo. Những đất ấy, người ấy, tôi chỉ
mượn cái hồn cốt, giai điệu của Nam Bộ để chuyển tải. Thổ ngữ địa
phương chỉ là phương tiện thể hiện ư tưởng và câu chuyện của người
viết. Chúng được mọi người xem là phong cách riêng của văn tôi.
Nhưng thực chất đó chỉ là một lớp vỏ, tôi muốn bỏ qua cả lớp vỏ đó,
để tận mắt thấy trên mảnh đất này, người đời đang lạnh hay ấm, vui
hay đau qua làn da, qua từng vết tím, từng cái se lại của lỗ chân
lông, thấu thị tận tâm hồn, như một người hành hương về chốn tâm
linh không cần bất cứ phương tiện hiện đại nào, chỉ bằng đôi chân
trần.”
|