CHUYỆN ĐỜI TỰ KỂ

Hồi ký

Nguyễn Minh Đào


 

     

     Chương I:   Tuổi thơ với quê hương.
         Chương II: Cương Quyết Ra Đi

                                                  

            

Chương III

SỨ MẠNG THẦM LẶNG

 

     Trở về làng quê sau nhiều năm xa cách, tôi sống với gia đình đang ở nhờ nhà ngoại. Lúc bấy giờ các tỉnh Nam Bộ lực lượng vũ trang các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên Chúa, Bình Xuyên chiếm đóng theo kiểu cát cứ song song với chánh quyền Sài Gòn. Để tạo thế họp pháp, Ba đưa tôi vào Tịnh Biên nhờ người quen làm việc ở chánh quyền xã An Phú làm giấy thông hành cho tôi. Nhưng cảnh giác âm mưu khủng bố người kháng chiến cũ, tôi và các cậu, anh rể tôi đều là cán bộ kháng chiến được cử ở lại vẫn phải sống bán họp pháp, ban đêm luôn thay đổi chổ ngủ.

     Không thể kéo dài tình cảnh này, Ba đưa tôi tạm lánh mặt ở tiệm vàng Bữu Quang thị trấn Tri Tôn học làm thợ bạc, ông chủ tiệm bà con xa với Ba tôi. Tôi ở đây khoảng hai tháng, bàn với Ba tìm cách sống họp pháp ở quê nhà để giử liên lạc với tổ chức và tìm việc làm giúp gia đình đời sống đang khó khăn. Ba thông qua mối quan hệ quen biết với giới chức trong Ban trị sự Hòa Hảo xã Nhơn Hưng vận động cho tôi dạy học ở ngôi trường gần chùa Hòa Thạnh, ấp Tây Hưng có một phòng học bằng cây lá do bà con trong ấp góp công sức dựng lên. Tôi là giáo viên duy nhất dạy đến ba lớp, từ lớp năm đến lớp ba tiểu học với ba bốn mươi học sinh. Ban trị sự Hòa Hảo xã trả lương tháng cho tôi 100 kg gạo và 400 đồng tiền Bảo Đại, giúp gia đình tôi thoát cảnh chạy ăn từng bữa. Nhưng chỉ được vài tháng, chánh quyền Sài Gòn đánh đổ giáo phái Hòa Hảo, tôi vẫn tiếp tục dạy học tùy lòng hảo tâm cha mẹ học sinh đóng học phí, mức thu giảm sút nhiều.

     Năm 1955, chánh quyền Sài Gòn đổi giấy căn cước toàn miền Nam. Tổ chức đưa tôi làm thơ ký trong đoàn đổi giấy căn cước quận Tịnh Biên, để làm giấy căn cước cho cán bộ kháng chiến cũ. Được đi lại nhiều nơi trong quận có công xa đưa rước, tiếp xúc với nhân viên chánh quyền, thế họp pháp của tôi được củng cố vững vàng hơn.

     Tạm tạo được “vỏ bọc”, tôi bắt đầu tham gia công tác do Chi bộ xã Nhơn Hưng lãnh đạo. Theo tình hình nhiệm vụ cách mạng khi ấy, chủ yếu là vận động nhân dân đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-neo, gầy dựng cơ sở cách mạng… Tôi nhớ những lần chi bộ giao tôi kẻ vẻ khẩu hiệu, viết truyền đơn cùng cậu Mười tôi đi rải, dán ở xóm Bà Bài, Bến Lúa, Miểu Bà… nhân những ngày lể kỷ niệm, cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của đồng bào.

     Những năm đầu sau 1954, chánh quyền Sài Gòn củng cố xây dựng bộ máy chánh quyền cơ sở Pháp để lại, chi bộ xã Nhơn Hưng chọn quần chúng tốt vận động cày cấm vào. Trong đó có chú ruột thứ út tôi làm xã trưởng, anh rể bà con chú bác tôi làm ủy viên tài chính…  Nhờ đó, tổ chức và hoạt động cách mạng ở xã Nhơn Hưng phát triển khá thuận lợi.

Năm 1956, Ban cán sự đảng quận Tịnh Biên đóng bí mật nhà Ngoại tôi, bí thư Ban cán sự những năm 1954 – 1959 là đồng chí Năm Mạo, tên thật Võ Văn Nhứt, bí danh Hồng Châu và các đồng chí thành viên khác là Huỳnh Kiên Cát (Ba Cát), Võ Hoàng Sa (Bảy Sa), Lâm Minh Thái (Hai Thái), Đặng Văn Tôn (Ba Thanh), Nguyễn Hồng Sơn (Tư Sơn), Dương Thị Bình (Tư Bình)…

         Văn phòng làm việc trong căn hầm bí mật dưới nền chuồng gà phía trước sân nhà về phía bên phải. Trước đó, tôi biết các cậu tôi đào hầm bí mật giữa đêm khuya, nhưng nơi nào và bao nhiêu hầm tôi không rõ, về sau mới biết ngoài căn hầm dưới nền chuồng gà, còn một hầm cá nhân trong buồng ngủ nhà Ngoại và một số hầm ngoài vườn. Một buổi tối, cậu Út nhỏ dẫn tôi xuống căn hầm dưới nền chuồng gà, căn hầm xây khá kiên cố bằng gạch vôi rộng hơn 1,5 mét vuông, kê một chiếc bàn nhỏ thấp vừa một người ngồi viết… Cậu Út nhỏ lấy chiếc radio cũ một băng chừng hơn gang tay, xài viên pin khối to gắp đôi chiếc radio, cậu rà sóng bắt đài Tiếng nói Việt Nam, tuy âm thanh không được tốt, nhưng cậu cháu tôi lắng nghe một cách say sưa, như uống từng lời phát thanh viên, từng lời ca tiếng nhạc vào tim mình! Cậu cháu tôi sống dằn dặt trong tâm trạng ngày Nam đêm Bắc, mong cách mạng miền Nam sớm thành công, đất nước thống nhất ra thăm miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thăm Bác Hồ. Từ đó, cậu Út nhỏ thường đưa tôi xuống hầm nghe đài, hay tiếp với cậu in bột tài liệu, hoặc làm công việc văn phòng lặt vặt… Mỗi khi cậu cháu tôi xuống hầm, bao giờ ông hoặc bà Ngoại cũng ngồi trước nhà canh chừng, nếu có người lạ ra ám hiệu báo động, khi cần đậy nấp hầm ngụy trang kín đáo.

     Bộ phận văn phòng do đồng chí Hai Mạnh Hà phụ trách, cậu Út nhỏ – ông Đặng Chí Kiên làm cán bộ. Thỉnh thoảng tôi có tham gia công việc văn phòng như in tài liệu, kẻ vẽ khẩu hiệu, đi thư… Các đồng chí lãnh đạo huyện ăn ở bí mật bất hợp pháp, hoặc bán hợp pháp nơi nào tôi không rõ, thỉnh thoảng thấy tới nhà ngoại ban đêm hội họp, hay đến ban ngày ngụy trang làm công việc gì đó như đi kiếm thuốc nam chẳng hạn, để gặp gở làm việc riêng với đồng chí nào đó, có khi ngoài vườn, có khi trong gian buồng nhà ngoại, xong lặng lẽ ra đi. Chỉ có đồng chí Mạnh Hà có mặt nhà ngoại và nhà tôi thường xuyên hơn. Ông bà con bên ngoại, tôi gọi bằng cậu, có khiếu nói chuyện hài hước, vui tính, gần gũi mọi người. Một buổi trưa, ông Mạnh Hà ở nhà tôi, ông quản Lũy ủy viên cảnh sát Hội đồng hương chính xã từ đâu đến bất ngờ gặp ông Mạnh Hà, hai ông thoáng ngỡ ngàng bắt tay chào hỏi. Ông quản Lũy nói: “Xin anh hãy cẩn thận…” Ông quản Lũy họ Đặng cùng họ má tôi, tôi gọi bằng cậu, ông có cảm tình với cách mạng. Tôi nhớ, cuối năm 1975 khi tôi công tác ở Tỉnh đội mang quân hàm đại úy, trong dịp đi công tác đến thị trấn Tịnh Biên tình cờ gặp ông, ông với tôi tay bắt mặt mừng, ông nói: “Cậu chúc mừng cháu! Đúng là trời không phụ lòng người có chí”.

       Xã Nhơn Hưng, cũng như nhiều xã khác trong huyện Tịnh Biên, đồng bào có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong suốt cuộc hành trình 9 năm kháng chiến chống  Pháp xăm lược. Xã có 4 ấp, 2 ấp Đông Hưng và Tây Hưng tiếp giáp 2 xã Thới Sơn, Xuân Tô đồng bào bao đời sống rải rác từng xóm trong vườn cây sầm uất, với đường ngang ngõ tắt. Lòng dân và địa hình thuận lợi là hai yếu tố các đồng chí lãnh đạo quận khi ấy chọn ấp Đông Hưng làm địa bàn đứng chân lãnh đạo phong trào cách mạng nhân dân quận nhà.

       Ngoại tôi – cụ ông Đặng Văn Hợi và cụ bà Phan Thị Phi có 3 người con liệt sĩ. Bà được Nhà nước truy tặng “Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng”. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trong tình thế cách mạng đầy gian khó, ông bà bất chấp hiểm nguy thường xuyên nuôi chứa cán bộ, bộ đội trong nhà. Sau Hiệp định Giơ-neo-vơ năm 1954, cách mạng miền Nam mong manh như “ngàn cân treo sợi tóc”, ông bà ngoại tôi một lần nữa thể hiện lòng kiên trung với cách mạng, sẳn sàng hy sinh tất cả khi cách mạng cần. Những năm 1954 – 1957, các cậu tôi làm cách mạng, cậu thứ Sáu Đặng Hữu Hào hy sinh năm 1946, còn lại 4 cậu tham gia kháng chiến được cử ở lại, trừ cậu thứ Bảy Đăng Văn Tôn bất hợp pháp ăn ở bí mật, cậu Mười Đặng Văn Ngưng, cậu Út lớn Đặng Văn Tiếng, cậu Út nhỏ Đặng Văn Mật, bí danh Đặng Chí Kiên sống công khai hợp pháp nhà Ngoại.

         Sau Hiệp định Giơ-neo-vơ năm 1954, từ khu tập kết Cà Mau tôi trở về quê nhà xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên (An Giang) sinh sống với gia đình trong cảnh nghèo khó, Ba tôi xoay sở làm ăn liên tiếp thất bại, nợ nần chồng chất! Má tôi làm bánh, nấu xôi giải nắng dầm mưa gánh bán rong đầu làng cuối xóm, chắt chiu từng đồng lo toan cuộc sống gia đình! Tôi, cùng anh rể thứ Ba và các em tôi tới mùa đi cắt lúa mướn, hay trồng rẫy khoai, dưa… Làm bất cứ việc gì bằng sức lao động của mình, những mong chia sẻ phần nào gánh nặng cuộc sống gia đình với Ba Má tôi.

     Tháng 12 năm 1957 tôi làm nhân viên Văn phòng Ban cán sự Đảng quận Tịnh Biên (về sau là Huyện ủy Tịnh Biên) trú đóng bí mật nhà Ngoại tôi ở ấp Đông Hưng, xã Nhơn Hưng. Tôi trúng tuyển quân dịch, nhân dịp này ông Năm Mạo bí thư Ban cán sự quyết định đưa tôi vào quân đội Sài Gòn làm công tác nội tuyến. Trước khi lên đường, ông chỉ đạo Chi bộ văn phòng Ban cán sự kết nạp tôi vào Đảng. Lể kết nạp được cử hành trong nhà tôi, do ông Mạnh Hà bí thư Chi bộ văn phòng Ban cán sự chủ trì, cùng có mặt hai đảng viên giới thiệu là hai người cậu dìu dắt tôi tập tễnh trên đường cách mạng, là cậu Mười Đặng Văn Ngưng và cậu Út Đặng Chí Kiên. Lá cờ Đảng rộng hơn gang tay treo trên vách lá đơn sơ, tôi trịnh trọng đứng dưới cờ tuyên thệ. Ước nguyện bao năm đứng vào hàng ngũ Đảng của tôi nay thành hiện thực!

     Sau lể kết nạp Đảng mấy hôm, ông Năm Mạo bí thư Ban cán sự triệu tôi đến gặp ông tại khu vườn nhà cậu Ba Phương, nhà cùng xóm nhà Ngoại tôi. Ông Năm Mạo làm việc với tôi gần một tuần, phổ biến tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam; Tập huấn yêu cầu, nhiệm vụ, phương châm, phương thức công tác nội tuyến với phương châm “chui sâu, trèo cao”… Sau cùng, ông công bố quyết định Ban cán sự phong tôi cấp trung đội trưởng, tức chuẩn úy. Căn dặn tôi những gì cần phải làm và cần phải tránh, với tình cảm và trách nhiệm của người lãnh đạo, của bậc cha chú đối với một đảng viên, một đứa cháu trước lúc đi xa. Quảng đời binh nghiệp của tôi bắt đầu từ đó.                                                     

     Một năm làm lính quân dịch, tôi trãi qua hai tháng huấn luyện cơ bản ở quân trường Quang Trung. Sau đó, họ đưa tôi học tiếp khóa kế toán binh đoàn ở Thủ Đức hai tháng và phân bổ tôi về Sở quân nhu quản trị số 6 thành Hanh Thông Tây - Gò Vấp làm kiểm số viên, cho đến ngày mãn hạn quân dịch giải ngủ tháng 12 năm 1958. Thời gian và hoàn cảnh khách quan chưa cho phép tôi có thể làm được gì nhiều, ngoài việc vận động một số anh em binh sĩ cùng đơn vị cảm tình cách mạng, đoàn kết giúp đở nhau trong cuộc sống, đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt ở quân trường…

     Trước khi giải ngũ, tôi nghỉ phép về nhà liên lạc với tổ chức mới biết bà Ngoại qua đời vì bệnh hiểm nghèo! Tôi rất đau buồn! Nghe gia đình kể: Ngày tôi lên đường đi quân dịch bà Ngoại đi chợ, khi về biết được bà khóc, gọi tên Ngô Đình Diệm chửi bắt cháu bà đi lính. Ông bà Ngoại tôi là quần chúng chí cốt của Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến, ngoài công nuôi chứa cán bộ, bộ đội, đóng góp tiền của… Ông bà Ngoại hiến dâng năm người con trai cho Đất nước, ba người hy sinh. Bà được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.      

     Giải ngũ quân dịch trở về gia đình tôi đang sống ở Đường Cũi Giữa, kinh Tám Ngàn, xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Một tháng sau cậu tôi đến truyền đạt quyết định của Huyện uỷ Tịnh Biên, giao nhiệm vụ tôi tiếp tục công tác nội tuyến lần thứ hai trong lực lượng bảo an tỉnh An Giang (sau là địa phương quân). Sau khi làm xong thủ tục nhập ngũ, tôi thụ huấn hai tháng tại Trung tâm huấn luyện bảo an tỉnh (điểm Báo An Giang ngày nay).

     Mãn khóa huấn luyện, họ đưa tôi về đồn Vàm Cống, trưởng đồn giao làm thơ ký đồn và giử kho súng. Em tôi – Nguyễn Minh Nhị được tổ chức giao nhiệm vụ liên lạc với tôi, cùng cậu Út tôi vài lần đến thăm. Có lần cậu Út đến, hai cậu cháu ngủ qua đêm trước cửa kho súng, tôi báo cho cậu biết số súng trong kho và hệ thống bố phòng của đồn. Tôi đề nghị được làm nội ứng cho bộ đội đánh đồn xin ra ngoài chiến đấu. Cậu Út cho biết Đảng chưa có chủ trương, khuyên tôi kiên nhẫn.

     Một buổi sáng, tôi thơ thẩn đứng trước cửa đồn nhìn khách tấp nập xuống xe qua phà, tôi nhận ra một bà nét mặt quen quen. Thì ra chị Sáu Mỹ Tân, hồi kháng chiến chị công tác chung với tôi ở Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Long Châu Hà. Lẽ ra tôi không nên nhìn chị, nhưng tình đồng chí lâu ngày mới gặp, giục tôi muốn gặp thăm chị. Tôi đi nhanh xuống phà đứng gần chị, thấy tôi mặc áo lính chị quay mặt đi, tôi đi theo chị hỏi nhỏ: “Chị Sáu mạnh khỏe hả?”. Chị buộc quay lại: “Xin lỗi cậu là ai?” – “Tôi là Đáo đây (tên thật của tôi). Chị đừng ngại, tôi vẫn như xưa chị à !”. Chị Sáu Mỹ Tân buộc phải nhìn tôi, nhưng trông chị có vẻ bất an!     

     Cuối năm 1959 Tỉnh đoàn Bảo an tuyển lính các đại đội thành lập một đại đội đưa đi huấn luyện bổ túc tại Trung tâm huấn luyện Thất Sơn, về sau có tên Trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Đại đội trưởng giao tôi làm thơ ký đại đội. Về phép gặp cậu Út, tôi đề nghị làm nội ứng cho bộ đội đánh chiếm Trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Cậu Út tôi khuyên hãy kiên nhẫn thực hiện nhiệm vụ “chui sâu trèo cao”!

      Sau khóa huấn luyện họ bổ nhiệm tôi về Phòng chiến tranh tâm lý và Phòng kế hoạch Tỉnh đoàn bảo an An Giang. Sau cùng họ thuyên chuyển tôi về Khu 1 bảo an Nam phần, là cơ quan chỉ huy lực lượng bảo an sáu tỉnh miền Tây, trú đóng gần sân bay Sóc Trăng, sau dời về Cái Răng – Cần Thơ. Tôi về báo cáo tổ chức, các đồng chí cho đây là cơ hội tôi có thể “chui sâu, trèo cao”, động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiện vụ. Nơi đây, họ giao nhiệm vụ tôi kẻ vẽ khẩu hiệu trang trí các phòng làm việc và làm thơ ký đánh máy. Trong cơ quan chỉ có tôi là binh nhì còn lại là hạ sĩ quan và sĩ quan, làm việc văn phòng như một công chức. Lợi dụng công việc mình làm tôi đánh cấp một số tài liệu mật chuyển cho tổ chức. Tôi vẫn nôn nóng muốn ra ngoài cầm súng chiến đấu. Một hôm em Nguyễn Minh Nhị đến thăm, tôi nói: “Em về báo cáo xin ý kiến cho anh ra ngoài chiến đấu…”. Một tuần sau không chờ ý kiến tổ chức, nhân ngày chủ nhật nghỉ làm việc, tôi ra bến xe Cần Thơ “đào thoát”. Kết thúc hành trình hơn ba năm hai lần công tác nội tuyến trong quân đội Sài Gòn.                                                         

     Về gia đình tôi vẫn đang sinh sống ở kinh Tám Ngàn là vùng giải phóng, lực lượng kháng chiến địa phương thấy tôi lạ mặt, dáng vẻ dân thành thị nghi ngờ làm dọ thám cho địch định “làm thịt” tôi, may sao các đồng chí lãnh đạo tỉnh, huyện biết được can ngăn. Về sau tôi mới biết chuyện nầy, hú hồn! Hơn một tháng, Huyện uỷ Tịnh Biên gọi tôi về văn phòng đang trú đóng núi Dài xã Ba Chúc. Ông Năm Mạo bí thư Huyện uỷ triệu tập cuộc họp kiểm thảo tôi, quyết định thi hành kỷ luật cảnh cáo và kéo dài thời kỳ đảng viên dự bị mà không nói thời gian, về khuyết điểm vi phạm kỷ luật đảng, tự ý bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến Đảng giao. Sau đó, Huyện uỷ phân công tôi làm trưởng Tổ quân báo huyện.

     Những năm tháng công tác huyện Tịnh Biên tôi có nhiều bạn chiến đấu. Đặc biệt có hai người bạn chí cốt để lại trong tôi niềm thương nỗi nhớ mãi khôn nguôi! Đó là anh Chín Tiều, khi tôi làm trưởng tổ quân báo huyện, anh làm trưởng Văn phòng Huyện đội. Tôi với anh gần gũi thân tình, cùng chia ngọt sẻ bùi trong cuộc sống đầy khó khăn gian khổ! Tôi nhớ, có lần anh đi công tác xã Lê Trì, khi về cơ quan rũ tôi ra ngoài lôi trong bọc ra một chai bia con cọp và một hộp sữa đặc cùng một cái chậu nhỏ. Anh khui chai bia và hộp sữa đổ hết trong chậu khuấy hòa tan, anh mời tôi cùng uống với anh, tôi uống ngon chưa từng thấy! Về sau anh làm cán bộ Ban An ninh tỉnh phụ trách vùng, có nhiều thành tích được phong Anh hùng Quân đội. Khi tôi về Tỉnh đội công tác được tin anh hy sinh! Người thứ hai là anh Năm Hà, được Huyện đội bổ nhiệm làm phó cho tôi. Anh là con em một gia đình cách mạng chí cốt xã Thới Sơn. Suốt thời gian công tác huyện Tịnh Biên, mẹ và chị anh nuôi chứa tôi xem như người thân. Trong công tác anh rất nhanh nhẹn, tháo vát và chân tình với bạn bè, đồng chí. Khi có lính càn quét anh là người chạy nhanh nhứt, bạn bè cho anh nhát gan, đặt biệt danh “quan thượng thỏ”. Anh hy sinh vì vướng lựu đạn gài của bộ phận cùng ở với anh trong lõm căn cứ xã Thới Sơn. Thật đau lòng!

     Mùa nước năm 1961, tôi được cử đi dự hội nghị Quân báo Khu 8 ở căn cứ Đồng Tháp Mười, cùng với anh Mười Thành Công, trưởng Tiểu ban Quân báo Tỉnh đội. Hai chúng tôi xuất phát từ núi Dài trên chiếc xuồng nhỏ, theo đường dây giao liên xuống đồng tràm Huệ Đức - căn cứ huyện Châu Thành. Đêm hôm sau, giao liên dẫn ra ém ngủ đêm nhà cơ sở mật phía trên cầu Quay chừng một cây số trên bờ sông Hậu. Mờ sáng, chúng tôi cải trang làm nông dân đi cắt cỏ, ba lô dấu dưới khoan xuồng, để trên mấy bó cỏ ngụy trang. Một cô giao liên công khai bơi xuồng đi trước dẫn đường, đi qua một số đồn dân vệ đến vùng giải phóng huyện Chợ Mới. Ở đó nghỉ mấy ngày, một cô giao liên công khai khác tiếp tục dẫn đường, vượt qua sông Tiền phía trên đồn Phong Mỹ vài trăm thước lúc nữa đêm, chờ trời rạng sáng cô giao liên chỉ hướng chúng tôi tự đi vào cánh đồng nước mênh mông, xa xa nhìn thấy những rặng cây, cô bảo đi vào đó sẽ gặp cán bộ, bộ đội hỏi tìm nơi cần  đến.

     Lần mò đi tìm hơn một ngày, chúng tôi gặp cơ quan Quân báo Khu 8. Hội nghị đã bế mạc, các đồng chí lãnh đạo làm việc riêng với chúng tôi. Hơn một tuần sau chúng tôi sắp sửa quay về An Giang, nhận tin buồn anh rể thứ Ba của tôi – Anh Trần Ngọc Quế, bí danh Ba Nhân hy sinh, cùng với một tiểu đội bộ đội địa phương tỉnh do anh chỉ huy, bảo vệ bà Nguyễn Thị Định trên đường công tác từ An Giang về miền Tây, đến xóm Cốc Đạo Cậy xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú bị địch truy đánh. Trên đường về, chúng tôi đến xóm Cốc Đạo Cậy lúc nữa đêm, được đồng bào dẫn đi xem nơi diển ra trận đánh không ngang sức. Quân ta không tới 10 tay súng, bám trên gò tre nhỏ giữa đồng nước, đương đầu với địch đi trên giang thuyền. Anh Ba Nhân chỉ huy anh em chiến đấu bảo vệ đoàn bà Nguyễn Thị Định rút đi an toàn, diệt một số tên địch. Chúng tôi đến đó sau trận đánh vài ngày, còn lưu lại dấu dết những cành tre bị bắn gãy đổ chưa khô lá, những đám lúa mùa còn nhàu nát và thoang thoảng trong gió mùa thuốc súng. Một bác nông dân chứng kiến cuộc chiến đấu sinh tử của quân ta kể lại diển biến từ đầu đến cuối, luôn nhắc đến người chỉ huy dũng cảm, chỉ huy anh em chiến đấu kiên cường đến người cuối cùng! Tôi nghe mà lòng quặn thắc một nỗi đau!                                                   

     Đầu năm 1962, ông Võ Văn Đầy, tức Bảy Thà làm bí thư Huyện ủy thay ông Năm Mạo được điều về tỉnh. Trong một lần trò chuyện với ông Bảy Thà, ông cho biết Ban thường vụ Huyện ủy vừa làm việc về công tác cán bộ, quyết định tôi là “cán bộ sơ cấp Đảng”, đang đề nghị Tỉnh ủy chuẩn y. Tôi nói, tôi chưa được công nhận đảng viên chánh thức. Ông hỏi tại sao vậy? Tôi trình bày mọi chuyện với ông. Sau cùng ông nói: “Vậy từ nay Huyện ủy công nhận đồng chí là đảng viên chánh thức”. Từ đó trong lý lịch tôi ghi kết nạp đảng tháng 12 năm 1957, chánh thức tháng 1 năm 1962, tôi làm đảng viên dự bị 4 năm!

     Năm 1963 Huyện ủy, Huyện đội giao tôi kiêm nhiệm làm trưởng Văn phòng huyện đội, sau đó làm trưởng Văn phòng huyện ủy. Tôi đi kháng chiến 11 tuổi học hành dang dở, nhờ có chút năng khiếu “cạo giấy”, nên cuộc đời làm cách mạng của tôi có nhiều năm làm công tác văn phòng, khởi đầu ở huyện Tịnh Biên.  

     Ngày 31 tháng 7 năm 1964, sau khi được gia đình đôi bên và Ban thường vụ Huyện ủy chấp nhận, tôi làm lể thành hôn với cô gái công tác cùng cơ quan với tôi. Vợ chồng tôi chung sống đến ngày “răng long tóc bạc” hôm nay. Cuộc hôn nhân thời chiến của chúng tôi kể ra khá lãng mạn, đong đầy kỷ niệm! Lể tuyên hôn được tổ chức nhân bế mạc hội nghị cán bộ Huyện ủy, do ông Mạnh Hà bí thư chi bộ làm chủ lể. Sau bữa cơm thân mật buổi chiều, mọi người quây quần trong hội trường, có trang trí bàn thờ Tổ quốc, cô dâu chú rể “đứng hầu” hai bên nghe ông chủ lể “thuyết giáo”, sau cùng tôi hứa hẹn… Nghi lể vừa xong chốt lát, bổng nghe tiếng pháo đề-pa từ trận địa pháo Ba chúc, đạn rít qua đầu nổ ầm ầm chung quanh. Mọi người nhanh chóng chạy tản ra. Hầm trú ẩn không đủ, nhường cho người già, phụ nử, trẻ em, tôi và các bạn trẻ nằm phơi trên mặt đất. Địch bắn hàng chục quả pháo, có mấy quả nổ rất gần, mãnh đạn văng sát chổ tôi nằm, tiện đứt cành cây gãy đổ trước mặt, rất may không có quả nào rơi trúng nơi hành lể. Trận bắn pháo không bình thường, Ban An ninh huyện phát hiện tên gián điệp nữ ở xóm Ô Cạn bắt điều tra, thị khai thấy anh em ta mượn nồi niêu, chén bát chuẩn bị lể cưới cho tôi báo với đồn Phổ Đà Ba Chúc: “Việt cộng đang hội họp, ăn uống đông người…” và chỉ điểm chúng bắn pháo. Tên gián điệp đền tội làm tay sai cho địch!

     Vợ tôi khi ấy làm y tá Văn phòng Huyện đội. Sau ngày cưới được điều về Văn phòng Huyện ủy làm nhân viên đánh máy. Khi mang thai về gia đình tôi ở kinh Tám Ngàn sinh một bé trai kháu khỉnh. Ba Má tôi làm lể mừng cháu nội đầy tháng, tôi về dự lòng tràn ngập niềm vui! Trở về cơ quan mấy hôm, được tin con tôi bệnh chết. Tôi bàng hoàng đau xót! Hình ảnh đứa con bé bỏng yêu thương cứ lảng vảng trong đầu tôi! Ba đưa vợ tôi về cơ quan tiếp tục công tác. Thương nhớ con, nhất là ban đêm bầu sữa căng tròn, vợ tôi nhớ con khóc rấm rứt cả tháng! Năm 1965, máy bay địch ném bom trúng nhà tôi tan hoang, may mắn cả nhà kịp chạy thoát! Ba Má tôi góp nhặt những gì còn lại xuống chiếc ghe nhỏ, cùng mấy đứa cháu ngoại sống bập bềnh trên dòng kinh Lương An Trà.     

     Giửa năm 1968 tôi nhận quyết định điều động về Văn phòng Tỉnh đội làm trợ lý chiến sự - chức năng như chánh văn phòng và được phong cấp đại đội chánh trị bậc phó, tức thiếu uý. Các cơ quan tỉnh khi ấy trú đóng đồi Tức Dụp (núi Tô). Đến cơ quan Tỉnh đội được anh Vũ Khắc Sương Tỉnh đội trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ và hướng dẫn tôi đến chổ ở dành cho tôi. Đó là một hốc đá nhỏ, nằm trong dãy lò ảng tầng tầng lớp lớp của đồi Tức Dụp. Vài ngày sau tôi nếm mùi trận bom đầu tiên của địch, có mấy quả rơi trên đầu, tiếng nổ chát chúa, khói bụi mù mịt len theo kẹt đá vào tận hang sâu nơi cơ quan trú ẩn. Khi ấy địch đánh phá đồi Tức Dụp chưa ác liệt. Hàng ngày vào đầu giờ làm việc buổi sáng, tôi chui khỏi hang hít thở không khí ban mai trong lành, đi nhởn nhơ ngắm cảnh sang Văn phòng Tỉnh ủy họp giao ban. Hôm nọ, đi ngang khu vực Dân y tỉnh, tôi thấy có một bệnh nhân nữ gương mặt khá xinh, chừng 18, 19 tuổi, nằm trên bộ vạt tre kê dưới vòm hang đá nhỏ bên vệ đường. Cô mặc chiếc quần đen nhàu nát, trên người chỉ đắp chiếc khăn rằn, sau lưng có mấy vết loét sâu. Cô luôn rên rĩ la hét, cười nói lảm nhảm như người mất trí. Tôi hỏi những người biết chuyện kể: Cô quê Cà Mau, đi thanh niên xung phong vận tải súng đạn từ biên giới Campuchia qua An Giang về miền Tây. Trong một trận địch càn quét núi Tô, cô bị sốt rét nặng, đồng đội đem giấu dưới hang đá, không rõ vì sao người ta bỏ rơi cô. Gần mười ngày sau, anh em nhân viên một cơ quan tỉnh phát hiện cô trong tình trạng đói lả, thân thể lở loét, đem về Dân y tỉnh cứu chữa. Tôi hỏi bác sĩ trưởng dân y về khả năng cứu chữa cô gái, ông cho biết trong điều kiện của ta hiện nay khó có thể chữa lành các vết loét…!                                            

     Giữa năm 1968 Sư đoàn 1 Anh hùng – Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, được Bộ tư lệnh Miền điều động về đứng chân chiến trường Bảy Núi, xây dựng đầu cầu mở hành lang chuyển Sư đoàn về miền Tây. Cuối năm 1970 tôi là trung úy trợ lý tuyên huấn Ban chánh trị Tỉnh đội, được cử đi cùng Ban chỉ huy Tiền phương Tỉnh đội vừa thành lập do anh Trần Thế Lộc, thường gọi Bảy Phong –  tỉnh đội phó phụ trách, về Bảy Núi lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh có mặt như Đại đội 381 đặc công, Đại đội 385 trợ chiến và Tiểu đoàn A.11 (Quân khu 8 biệt phái) hoạt động độc lập hoặc phối hợp với bộ đội chủ lực. Lúc nầy địch đánh phá phong tỏa biên giới trên tuyến kinh Vĩnh Tế rất quyết liệt. Chúng tôi hành quân từ căn cứ B3 – Vạt Lài, huyện An Phú tới núi Som (Campuchia) tiếp giáp biên giới huyện Tịnh Biên, mất gần hai tháng mới “dùi” qua được kinh Vĩnh Tế về núi Dài – xã Ba Chúc. Lúc đầu trú đóng Ô Vàng – xã Lê Trì, sau bám trụ đồi Ô Tà Sóc – núi Dài xã Lương Phi.

     Gần cuối năm 1971 tôi nhận lệnh đi học trường Trần Phú Khu 8, hoàn thành nhiệm hơn 9 tháng cùng đồng chí, đồng đội sống, chiến đấu đầy hy sinh gian khổ trên đổi Ô Tà Sóc nóng bỏng! Những năm trước tôi có viết hồi ký nhan đề “Trên đồi Ô Tà Sóc năm xưa” đăng trên Báo An Giang và trang Facebook của tôi về ngọn đồi này.

     Tháng 3 năm 1973, tôi vẫn công tác Ban Chánh trị Tỉnh đội, được cử đi học khóa bồi dưởng cán bộ chánh trị viên tiểu đoàn Trường Quân Chính Quân khu 8, trú đóng trên đất Campuchia cách biên giới tỉnh Long An rất xa. Cùng đi có các đồng chí Út Lê (Bùi Văn Huấn, sau là thượng tướng phó chủ nhiệm Tổng cục Chánh trị), Tư Hờn (chết bệnh) và Bảy Sửu (hy sinh trong kháng chiến). Tháng 9 năm 1973 tôi được đề bạt cấp tiểu đoàn chánh trị bậc phó, tức thượng úy. Giữa năm 1973 tỉnh An Giang chia tách thành hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà, tôi công tác tỉnh Long Châu Tiền làm phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội.

     Năm 1974, các cơ quan tỉnh trú đóng Kế Sách, ven sông Sở Thượng trên đất Campuchia, cách biên giới đối diện thị trấn Hồng Ngự không xa. Năm ấy là năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh đội tổ chức Đại hội Chiến sĩ thi đua trong khí thế phấn khởi chưa từng có, trước những chiến thắng dồn dập của ta trên khắp chiến trường miền Nam. Địa điểm đại hội tại chòm cây vừng, nơi cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội trú đóng. Chúng tôi cử một số anh em tìm mua khung nhà cũ bằng gổ vuông của dân Campuchia đem về cất hội trường rất khang trang, bàn ghế làm bằng ván, trang trí khẩu hiệu, cờ, hoa rất đẹp, ban đêm chạy máy đèn sáng rực… Đại hội tiến hành cuối tháng 6 năm 1974, vừa xong thì mùa nước đến. Mùa khô năm 1975, tình thế cách mạng biến chuyển rất nhanh, ta vào trận quyết chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30 tháng 4 năm 1975.

     Sau giải phóng, tỉnh Long Châu Tiền lấy thị trấn Tân Châu làm tỉnh lỵ. Các cơ quan Tỉnh đội trú đóng khu vực chi khu quận Tân Châu của quân đội Sài Gòn. Đại hội Chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Long Châu Tiền năm 1975 tổ chức tại rạp hát Tân Châu. Đây là lần đầu đồng bào vùng mới giải phóng chứng kiến ta tổ chức lể hội cấp tỉnh. Chúng tôi cố gắng chuẩn bị mọi mặt chu đáo tiến hành đại hội thật trọng thể, gây ảnh hưởng chánh trị tốt trong đồng bào!

     Tháng 12 năm 1975 tôi được thăng cấp đại úy. Hồi đó, tỉnh Long Châu Tiền sĩ quan cấp đại úy đến cao nhất trung tá đếm trên đầu ngón tay. Lần đầu tiên khoát quân phục, đeo quân hàm kết hợp trông rất đỉnh đạt, khác hẳn anh bộ đội ở rừng ngày nào!

     Sau Đại hội chiến sĩ thi đua, tôi mới có thời gian nghĩ phép mấy hôm về  thăm quê sau bao năm xa cách. Ngồi trên xe jeep đi từ Tân Châu sang phà Châu Giang qua Châu Đốc, vào Nhà Bàn theo con đường lộ đá quen thuộc xuống Cây Mít, lòng tôi lâng lâng một niềm vui khó tả…! Tôi ghé xóm chùa Bà Bảy quê ngoại viếng mồ mả ông bà, thăm bà con bên ngoại và ra xóm Cây Mít thăm bà con bên nội.

     Năm 1976 tỉnh An Giang được tái lập, tôi vẫn là phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội, sau là Phòng Chánh trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhiều năm gắn bó lực lượng vũ trang tỉnh nhà trong công tác chánh trị quen người, quen việc. Đùng một cái các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội tham khảo tôi chuyển ngành sang Văn phòng Tỉnh ủy. Các đồng chí nói: Các ngành dân – chính – Đảng đang thiếu cán bộ, Văn phòng Tỉnh ủy cần một cán bộ có khả năng nghiên cứu phụ trách Khối quân sự - an ninh, nhất là theo dõi chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng khốc liệt, phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Đáng chú ý, có một lý do “bất khả kháng”: Đồng chí Nguyễn Văn Hơn, tức Sáu Hơn chánh trị viên Tỉnh đội An Giang (cũ) và chánh trị viên Tỉnh đội Long Châu Tiền – Thủ trưởng trực tiếp nhiều năm của tôi, chuyển ngành khi tỉnh An Giang vừa tái lập làm phó bí thư và bí thư Tỉnh ủy nói cho tôi biết: Tôi không thể tiếp tục công tác Tỉnh đội, vì khi Bộ tư lệnh Quân khu 8 thăng cấp đại úy cho tôi có nói với đồng chí phải cho tôi chuyển ngành, vì Bộ Quốc phòng không xét thăng cấp cho tôi từ thiếu tá trở lên, do tôi có mấy năm là công tác nội tuyến trong quân đội Sài Gòn (?!). Nhân chuyện này, đồng chí Sáu Hơn kể lại chuyện hồi năm 1973, khi tôi đang học Trường Quân chính Quân khu 8, phát hiện lý lịch tôi có “vấn đề làm công tác nội tuyến”, yêu cầu Tỉnh đội triệu tôi về không cho học. Đồng chí Sáu Hơn đấu tranh với Quân khu không đồng ý, vì tôi làm công tác nội tuyến do Đảng phân công, đâu phải do tôi tự ý! Thấy lý lịch chính trị của mình có vấn đề “gút mắc” như vậy tôi rất buồn! Nhưng với niềm tin đối với Đảng và tính tổ chức kỷ luật đã thấm trong máu, tôi không hề có thái độ tiêu cực, vẫn yên tâm và tiếp tục phấn đấu lao vào nhiệm vụ mới.  Quảng đời binh nghiệp của tôi kết thức từ đó!

 

 

 

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 24-2-21