CHUYỆN ĐỜI TỰ KỂ

Hồi ký

Nguyễn Minh Đào


 

     

     Chương I:   Tuổi thơ với quê hương.

                                                  

            

Chương II

CƯƠNG QUYẾT RA ĐI

   

 Lúc gia đình ở xóm Bến Lúa tôi vẫn thường vào nhà ngoại, thấy cán bộ, bộ đội tới lui hoạt động làm cho tôi rất phấn chấn, cảm thấy ngày nước nhà độc lập không còn xa. Dưới mắt tôi các cô chú, anh chị cán bộ, bộ đội sao mà hùng dũng, thân thương quá! Tôi ước ao mình được như vậy. Một buổi trưa mấy chị em tôi chơi quanh quẩn dưới bóng mát hàng cây trước nhà, bổng nghe tiếng đồng ca vọng lại: “Mùa Thu rồi ngày hai ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…” Tôi chạy ra bờ kinh nhìn về hướng tiếng ca, thấy một chiếc ghe trần đang căng buồm hướng Bà Bài đi vào, trên ghe có khoảng 9, 10 anh bộ đội mặc quân phục, đầu đội mũ ca lô, tay ôm súng vừa ca vừa gỏ nhịp. Đây là lần đầu tôi nghe ca bài Nam bộ kháng chiến: “Nóp với giáo mang ngang vai, nhưng thân trai nào kém oai hùng…”. Chiếc ghe từ từ đi ngang nhà, tiếng ca trầm bổng, như thúc giục tôi phải ra đi cứu nước như các chú, các cô và anh chị cán bộ, bộ đội.

     Công việc chuẩn bị làm rọ ba tôi đang tiến hành, tôi không thể nắn ná được nữa, xin ba má cho tôi đi kháng chiến. Ba má nói: “Con còn nhỏ, ráng một hai năm nữa ba má cho đi”. Tôi năn nỉ: “Ba má cho con đi bây giờ, mai mốt độc lập rồi còn đi đâu nữa…!”. Thấy tôi quyết chí ba má bằng lòng cho tôi đi kháng chiến, tôi vui mừng vô cùng!

     Sau mấy ngày chuẩn bị, tôi được cậu Mười đưa vào công tác ở Văn phòng Quận ủy Tri Tôn, có cậu Bảy tôi là cán bộ lãnh đạo ở đó. Lúc ấy cuối năm 1947 tôi hơn 11 tuổi. Đến nay và mãi mãi tôi không thể nào quên những tháng ngày đầu tiên đời mình chập chững dấn thân vào con đường cách mạng.

     Đêm cậu cháu tôi lên đường trời tối đen như mực, mưa rúc rắc, đom đóm bay lập lòe. Rời nhà ngoại lúc gần giữa đêm, cậu Mười đi trước, tôi theo sát sau lưng, men theo lộ làng qua Xuân Tô, đến lộ Tịnh Biên cậu Mười khoát tay ra hiệu ngồi xuống, cậu bò ra lộ quan sát, không thấy có gì khả nghi, cậu quay lại dẫn tôi băng nhanh qua lộ đi về núi Phú Cường, âm thầm như hai bóng ma!     Lần đầu tiên xa nhà đi như vậy, tôi thấy lòng mình tự hào, coi như người cách mạng thực thụ! Vào núi Phú Cường, cậu cháu tôi được người ta dẫn đi ngủ ở một lán trại sát chân núi. Sáng hôm sau cùng đi có thêm vài người nữa trên hai chiếc xuồng nhỏ, kẻ chống người bơi trên đồng lúa nổi, đi qua cầu sắt Vĩnh Thông đầu lộ Ba Chúc, ra kinh Vĩnh Tế phía trong đồn Lạc Quới hơn một cây số, theo kinh Vĩnh Tế vào Vĩnh Gia. Đến xế chiều tới nơi, cậu cháu tôi được bố trí nghỉ ngơi ở một lán trại cất bằng cây tràm lợp đưng đơn sơ, nhưng có vẻ khang trang.

     Ở Vĩnh Gia một ngày đêm, tôi được ăn những bữa cơm đầu tiên của cách mạng. Mỗi mâm cơm sáu người, dọn dưới đất, ăn đũa hai đầu, không được húp bằng muổng, ăn xong chén đũa của ai tự xách xuống kinh rữa, ai ăn sau rữa tô dĩa đựng thức ăn. Đó là cách ăn uống theo “đời sống mới”. Cụm từ này về sau tôi nghe người ta thường nói luôn. Lúc ấy cậu Mười dẫn tôi đi đâu tôi theo đó, không dám hỏi han điều gì. Tôi lấy làm lạ không hiểu vì sao cậu cháu tôi đi đến đâu cũng có người sẳn sàng giúp đở nơi ăn chốn ở và đưa rước chu đáo như vậy! Về sau tôi mới hiểu đó là đường dây giao liên của quận.

     Ngày hôm sau, tôi và cậu Mười đi đến Văn phòng Quận ủy Tri Tôn, đóng trên bờ kinh Giồng Cát (cầu Cây Me Tri Tôn đi vô kinh Tám Ngàn). Đó là vùng đất hoang sơ, phèn nặng, rừng tràm bạt ngàn, ban đêm muỗi như vãi trấu! Các cơ quan của quận đóng dọc hai bờ kinh trong các chòi trại cất bằng cây tràm, lợp đưng.

     Trong cơ quan tôi là người nhỏ tuổi nhất. Công việc hàng ngày là quét nhà, nấu nước pha trà cho các chú uống, nấu cơm, kiếm cũi, đi thơ… Tôi thấy cậu Bảy và các chú lãnh đạo quận là những người nghiêm khắc và xa cách. Hàng ngày ngoài công việc tạp vụ không biết làm gì và nói chuyện với ai. Ban đêm ngủ tôi nhớ nhà vô cùng! Nhiều lần bơi xuồng đưa các chú lãnh đạo quận đi họp ở tỉnh. Từ Giồng Cát theo kinh Tám Ngàn đến kinh Ngay xuống Lình Quỳnh nơi cơ quan tỉnh trú đóng, đường xa dằng dặc, đi gần suốt đêm, tôi bơi lái, chú lãnh đạo bơi mũi, nhiều lúc chỉ một mình tôi bơi, đêm khuya vắng vẻ, buồn ngủ cũng ráng bơi, lâu lâu ngoái nhìn phía sau xem có “ma” ngồi sau lưng không!

     Tháng ngày trôi qua, những gian khó, thiếu thốn trong cuộc sống tôi quen dần. Mọi công việc cơ quan tôi đều làm tròn. Năm 1948 tôi được đi học khóa huấn luyện “Cây Đuốc Sống”, đào tạo cán bộ thiếu nhi của Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc, anh Phạm Phùng Tu làm tỉnh đoàn trưởng, đóng gần cầu Lình Quỳnh, trên lộ đá kinh Ngay Rạch Giá – Hà Tiên.

     Được đi học, mở mang trong tôi bao điều mới lạ! Sau khóa học tôi trở thành cán bộ công tác thiếu nhi của tỉnh, thường đến các xã ấp vùng giải phóng vận động, tổ chức và hướng dẫn sinh hoạt Đội thiếu nhi cứu quốc.

     Năm 1949, Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc tổ chức đội Thanh niên xung phong do nhạc sĩ Hiếu Nam làm đội trưởng, anh Hoàng Nam làm chánh trị viên. Tôi được kết tập vào đội cùng mấy bạn nhỏ khác, hoạt động khắp vùng giải phóng tỉnh Long Châu Hậu, tuyên truyền vận động đồng bào thực hiện nếp sống “đời sống mới”; tổ chức, phát triển Đoàn thanh niên và Đội thiếu nhi cứu quốc; họp xóm ấp tuyên truyền chủ trương, chánh sách của Chánh phủ kháng chiến; biểu diển văn nghệ; tiêm chủng phòng dịch v.v…

     Công tác ở Đội thanh niên xung phong tuy vất vã, vì phải di chuyển luôn, ăn ngủ thất thường. Nhưng được sống trong dân, được biết đây biết đó, nhiều khi được ăn ở sung sướng! Vui nhất là những đêm biểu diển văn nghệ, tuy khả năng ca hát, diển kịch… rất sơ đẳng, nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến khi đó như vậy cũng rất quí. Đêm biểu diển văn nghệ nào cũng thu hút đồng bào tới xem rất đông và luôn được cổ vũ nồng nhiệt! Kỷ niệm những tháng ngày công tác ở Đội thanh niên xung phong vẫn in dấu trong tôi.

     Cuối năm đó, Tỉnh đoàn thanh niên chọn tôi đi học bổ túc văn hóa ở trường Tiểu học huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ do anh Bạch Lý là ủy viên thường vụ Tỉnh đoàn hướng dẫn, nhân anh được điều về công tác ở Ban cán sự Đoàn thanh niên cứu quốc khu Tây Nam bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, vùng giải phóng tỉnh Long Châu Hậu, sau là tỉnh Long Châu Hà đất rộng người thưa, đời sống đồng bào, cán bộ, chiến sĩ khó khăn, thiếu thốn vô cùng! Ngay như gạo cũng thiếu ăn, phải ăn lường, ăn độn. Ai được đi công tác, hay đi học ở khu coi như một “đặc ân”!

     Năm ấy tôi 13 tuổi. Gia đình tôi năm 1948 rời bỏ quê hương vào sinh sống lập nghiệp trong vùng giải phóng xóm Mũi Tàu, kinh Tám Ngàn, xã Bình Sơn, thuộc huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Trước ngày lên đường, tôi được nghỉ phép về thăm nhà. Ba má biết tôi đi xa lâu ngày nên chuẩn bị hành trang cho tôi khá tươm tất.

     Ngày lên đường, tôi cùng anh Bạch Lý theo đường giao liên ra Hòn Đất, đến ở trong ngôi nhà ngói xưa, nằm chênh vênh trên sườn núi nhìn ra biển. Chủ ngôi nhà là một ông lão ngoài lục tuần, tướng mạo phương phi. Không biết ông tu theo đạo gì mà mặc áo choàng trắng, ăn chay trường. Cuộc sống gia đình ông rất sung túc, tiếp đãi chúng tôi rất thân tình. Ở nhà ông một ngày đêm được ăn những bữa cơm chay, với những món nấu khá cầu kỳ. Ăn cơm xong tráng miệng bánh tây, uống cà phê, trà hảo hạng, hút thuốc lá Melia… Tôi không ngờ trong vùng giải phóng đời sống khó khăn, mà có nhà cuộc sống phong lưu đến vậy!

     Hôm sau, đoàn chúng tôi khoảng 10 người lên đường, xuống một chiếc ghe biển giương buồm ra khơi, hướng về vàm rạch sông Cái Lớn. Mặc dù thời tiết tốt, sóng gió không lớn, ghe vẫn nhảy sóng lắc lư đủ cho những ai lần đầu đi biển như tôi say sóng, ói mửa hết những gì có trong dạ dày! Xế chiều ghe lọt vào vàm sông Cái Lớn, nhìn hai bờ sông vườn dừa nước muôn trùng, thấp thoáng những xóm nhà phía trong khi ẩn khi hiện. Đó đây những cụm khói chiều nhẹ bay! Khung cảnh thật yên bình, nên thơ như bức tranh thủy mặc. Lòng tôi lâng lâng một niềm vui, lẫn nỗi buồn man mác!

     Đến trạm giao liên tỉnh Rạch Giá đóng trong nhà dân trên bờ một con rạch, chúng tôi được nghỉ một ngày rồi tiếp tục lên đường, đi bằng xuồng hai chèo. Đi mấy ngày đêm qua mấy trạm giao liên, tôi và anh Bạch Lý mới đến cơ quan Ban cán sự Thanh niên cứu quốc khu Tây Nam bộ, trực thuộc Khu ủy trú đóng trong nhà dân. Nơi ở và làm việc riêng, ăn cơm chung với Văn phòng Khu ủy  đóng trong ngôi nhà ngói lớn gần đó. Những bữa cơm ở Văn phòng Khu ủy đối với tôi như những bữa tiệc, bữa nào cũng có 2, 3 món đồ ăn rất ngon, dọn mâm bàn đàng hoàng, chén bát toàn đồ sành sứ xưa. Trước khi ăn chén đũa được trụng trong chảo nước sôi tiệt trùng.

     Anh Bạch Lý lo thủ tục đưa tôi nhập học đầu năm học 1949 – 1950. Đây là ngôi trường tiểu học kháng chiến do Huyện ủy Long Mỹ mở cho con em cán bộ học, ăn ở nội trú và mở rộng thu nhận một số con em đồng bào trong vùng.

     Các phòng học bố trí trong lẫm (kho) lúa của một gia đình địa chủ, được sửa sang theo qui cách trường học, Phía sau trường là vườn cây măng cụt, sầu riêng xum xuê. Nơi ăn ở của học sinh nội trú cách trường vài trăm mét, xây cất cây lá gần vàm một con rạch nhỏ đổ ra sông Cái Giữa cách thị trấn Long Mỹ không xa đã bị tiêu thổ kháng chiến từ năm đầu khi giặc Pháp trở lại xăm lược lần thứ hai.

     Thời gian học ở đây tôi được chứng kiến một sự kiện không bao giờ quên. Đó là năm 1950 tại thị trấn Long Mỹ, Khu 9 tổ chức cuộc mét ting kỷ niệm Quốc Khánh 2 tháng 9 và chào  mứng phái đoàn Chánh phủ do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu vào Nam Bộ công tác.

     Cuộc lể chuẩn bị nhiều ngày. Thị trấn Long Mỹ được dọn dẹp quang đãng, khán đài dựng lên khá đồ sộ tại sân vận động cũ, với những gian hàng triển lãm thành tích chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng của quân dân Tây Nam Bộ. Cầu tàu cũ của thị trấn được sửa lại để đón ca nô chở phái đoàn Chánh phủ đến. Một số con đường dẫn đến khán đài hành lể được mở ra, cấm cột điện và đèn chiếu sáng, hệ thống truyền thanh giăng mắc ven đường… tạo cho thị trấn bộ mặt mới!

    Công việc chuẩn bị càng gần đến ngày làm lể càng khẩn trương, nhộn nhịp. Cuộc lể diển ra trọng thể, có hàng ngàn đồng bào trong vùng tới dự. Lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy những thứ như đèn điện, chiếu phim, phòng triển lãm… Và, ấn tượng mạnh nhất đối với tôi là được nhìn thấy bộ đội chủ lực trang bị súng lớn, súng nhỏ đầy đủ, mặc quân phục chánh qui rất oai dũng về bảo vệ cuộc lể rất đông, có nhiều khẩu súng cao xạ phòng không bố trí chung quanh, nòng súng vươn cao lên trời.

     Thời gian tôi học khoảng một năm, từ lớp nhì lên lớp nhất tiểu học, học chưa hết chương trình thì Tỉnh đoàn Thanh niên gọi về tỉnh.

     Mùa nước năm 1951 tôi thuyên chuyển công tác về Ty Thông tin Long Châu Hà, chú Nguyễn Khắc Thận, thường gọi Ba Thận, bí danh Chín Hương làm trưởng ty trú đóng tại kinh Tư xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Tôi được giao nhiệm vụ viết li-tô (viết chử ngược trên đá cẩm thạch), trong bộ phận in li-tô do anh Tám Đào phụ trách, thuộc Tiểu ban Văn nghệ. Về sau sát nhập vào nhà in do anh Hai Cai làm quản đốc.

     Anh Hai Cai là người trực tính, sống có nghĩa với anh em. Hồi đó chử chì rất hiếm, nhà in mới mua từ Thái Lan về một máy in ty-pô. Có lần sau giờ làm việc buổi chiều, tôi thấy anh đi lòng vòng nơi bộ phận xấp chử, nhặt một số chử rơi dưới đất, gọi mấy anh em công nhân trẻ vừa tan ca, đưa mấy chử chì nữa đùa nữa thật anh hỏi: “Cái này cái gì. Làm ăn như vậy hả? và “cốc” nhẹ lên đầu  mấy cái.

     Năm 1963 anh Hai Cai công tác binh vận ở huyện Châu Thành (An Giang), khi tôi công tác huyện Tịnh Biên anh gởi thư cho tôi. Bức thư anh viết dài gần 20 trang giấy pơ-luya xếp đôi, đề ngày bắt đầu viết đến ngày viết xong cách hơn một tháng. Trong thư, anh nhắc nhiều chuyện cũ và những chuyện vui buồn trong cuộc sống, chiến đấu đầy gian khổ hiểm nguy ở vùng yếu (vùng địch chiếm hay tranh chấp) hàng ngày anh phải đối mặt! Cuối thư, bằng lời lẻ thắm thiết và tràn đầy niềm tin, anh gởi đến tôi lòng nhớ thương và hẹn ngày toàn thắng gặp nhau. Nhưng, cay nghiệt thay! Ngày ấy không bao giờ đến với anh! Anh hy sinh anh dũng khi bí mật bám vùng ven thị xã Long Xuyên hoạt động bị địch phát hiện vây đánh, anh đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng!

     Tháng 7 năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, đất nước vui như ngày hội! Thế nhưng, sau đó Hiệp định Genève về hòa bình Việt Nam được ký kết chia cắt đất nước hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam có quan hệ với kháng chiến niềm vui hòa bình lập lại chợt đến và tan biến như một giấc mơ, nỗi buồn và sự lo âu trĩu nặng trong lòng trước viễn cảnh phân ly, kẻ chuẩn bị xuống tàu tập kết ra Bắc chưa biết bao giờ gặp lại người thân, người ở lại miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu với kẻ thù mới, không ai có thể biết rồi sẽ ra sao?! Các cơ quan, đơn vị bộ đội được Đảng giáo dục chuẩn bị tư tưởng sẳn sàng chấp nhận mọi quyết định của tổ chức “đi vinh quang, ở lại cũng vinh quang!”.

     Tôi được đi tập kết. Một đêm khuya âm u, tôi đi trong đoàn xuồng các cơ quan tỉnh Long Châu Hà rồng rắn xuôi dòng kinh Ngay hướng về Cái Sắn, xuống Thứ Mười Một – khu tập kết tỉnh Long Châu Hà –  thuộc huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Khi đoàn xuồng vào kinh Sóc Xoài chật hẹp, gặp chiếc ghe khá lớn đi cùng chiều áng giửa dòng kinh cả đoàn xuồng ùn lại, xuồng đi đầu đề nghị ghe cập vào bờ nhường đường cho đoàn xuồng vượt qua. Một yêu cầu hợp lý nhưng người trên ghe đáp lại bằng thái độ không mấy thân thiện: “Các ông đi tập kết sướng thân, bỏ dân ở lại làm sao sống được với giặc các ông có biết không?”. Xuồng tôi đi tốp đầu nghe rõ từng lời trách móc đó, họ nói vậy rồi cũng nhường đường đoàn xuồng vượt qua. Chúng tôi không ai đáp trả câu nào hay tức giận vì lời nói đốp chát đó, mà trong lòng cãm thấy như có lỗi với dân…!

     Sau nầy tôi được gia đình kể lại: Đoàn tập kết sau cùng rút đến đâu, lực lượng vũ trang Dân Xã của Ba Cụt chiếm đóng đến đó khủng bố, cướp bóc đồng bào phải chạy lánh nạn khắp nơi; trong đó có gia đình tôi bỏ lại nhà cửa, ruộng đồng ở kinh Tám Ngàn ba má tôi cơ cực tạo dựng bao năm, dắt díu gia đình trở về quê cũ với hai bàn tay trắng!

     Đến khu tập kết Thứ Mười Một, chúng tôi chia nhau trú đóng trong nhà dân, ngày hai buổi học chính trị, sinh hoạt tin tức, thời sự, làm việc nhà giúp dân. Chiều tập ca múa, ban đêm giăng câu, đặt trúm bắt cá lươn cải thiện bữa ăn. Đồng bào khu tập kết Cà Mau, trong đó có Thứ Mười Một đời sống khá sung túc, thương mến giúp đở bộ đội, cán bộ như người thân. Nói chuyện với chúng tôi bà con luôn nhắc đến ngày hết hạn ở khu tập kết chúng tôi xuống tàu ra Bắc, quân đội “Liên hiệp Pháp” tiếp quản vùng này ai cũng buồn và bồn chồn lo lắng, không biết cuộc sống lành dử ra sao?! Chúng tôi hiểu rõ tâm trạng bà con, khuyên bà con yên lòng chờ đợi sau hai năm đất nước thống nhất chúng tôi trở về…! Nhưng phải đến mười lần hai năm, trãi qua vô vàn hy sinh gian khổ lời ước hẹn đó mới thành sự thật!

     Được biết, sau khi chánh quyền Sài Gòn tiếp quản khu tập kết Cà Mau, tên Lâm Quang Phòng là cán bộ Việt Minh ra thành đầu hàng Pháp làm tỉnh trưởng Rạch Giá, y đưa quân đến Thứ Mười Một đàn áp khủng bố đồng bào và người kháng chiến cũ gây nhiều tội ác.

     Ở khu tập kết Cà Mau hơn một tháng, tôi và một số người được lệnh ở lại, tôi rất buồn nhưng lệnh phải chấp hành! Chúng tôi dự lớp tập huấn cấp tốc một tuần về nhiệm vụ, phương châm, phương thức hoạt động công khai, hợp pháp trong lòng chế độ Sài Gòn. Ngày trở về tôi đi cùng ông cậu cũng tập kết như tôi, cậu cháu tôi quá giang xuồng hai mẹ con người hàng xóm đi bán cá chợ Rạch Sỏi - Rạch Giá, đi gần một ngày đến trạm Kiểm soát liên hợp Tắc Cậu (gồm Pháp và Việt Minh) trình giấy giới thiệu của cơ quan quản lý khu tập kết và được cấp lại giấy thông hành. Đêm ấy chúng tôi ngủ vất vưởng tại vựa cá. Sáng sớm, hai mẹ con người bán cá đưa cậu cháu tôi ăn sáng và đưa ra bến xe về Châu Đốc. Rạch Sỏi là một chợ nhỏ, nhưng lần đầu ra thành với tôi cái gì cũng lạ. Khi cậu cháu tôi nói lời từ biệt và ngồi yên trên xe, hai mẹ con người bán cá vẫn đứng chờ đến khi xe chuyển bánh, tôi thấy người mẹ lấy khăn lau nước mắt…!

     Hình ảnh hai mẹ con người bán cá ở bến xe Rạch Sỏi và tấm lòng người dân Thứ Mười Một đối với chúng tôi những ngày tháng ngắn ngũi đó; cũng như bao tấm lòng người dân đối với cách mạng trên các nẽo đường kháng chiến tôi đi qua, vẫn hằn sâu trong ký ức tôi, là động lực giúp tôi vững vàng trong gian khó và vượt qua mọi nghịch cảnh đi trọn con đường cách mạng đời mình.

 

 Tác giả gởi cho viet-studies ngày 22-2-21