Tết Hòa Bình Quý Sửu 1973

Trích từ cuốn sách chưa xuất bản

“Nhật ký chiến tranh Hà Nội - Quảng Trị -Hà Nội 1972 – 1975”


Vương Trí Nhàn

 

3/2/73 (30 tháng chạp Nhâm Tí)


       Phố xá Hà Nội chiều tất niên, tôi sống những giờ phút thảng thốt. Tết mà lại nắng, mọi thứ nhếch nhác cứ trơ ra trong nắng. Bụi bẩn. Xe đạp phóng ẩu. Những người đàn bà lo sinh kế. Mấy cô gái mới lớn thích diện nhưng nghèo. Những đứa trẻ hau háu đợi người đến bơm xe đạp. Trong khi đó thì người ta vẫn vui vẻ ra mặt. Thỉnh thoảng lại một tiếng pháo nổ rất bực mình.

... Chính vì muốn giải phóng khỏi tất cả những cái đó, tôi lánh đi, tôi quằn quại tìm cách đi. Lấy danh nghĩa phóng viên, tôi xin theo một chuyến xe lửa Hà Nội vào Vinh.

Đêm 30. Tôi đi để sống với những người khác, hay là để trốn chạy khỏi nỗi chán chường cá nhân-- hai cái đó thật khó phân biệt.

 

Người từ ga Hà Nội đi, lúc đầu tưởng độ 100, sau 700-800, 1000. Toàn là cán bộ nhà nước, với quá nhiều xe đạp.

Sau những đớn đau tê dại, tưởng như cuộc sống đã mất những thiêng liêng. Nhưng trong những ngày giờ như lúc này vẫn là những náo nức hy vọng.

Đêm nay, tôi sống giữa những người không quen biết, bởi chỉ có một chỗ giống họ là xa nhà. Nhưng cái chính là một không khí khác. Tôi được sống trên một cái gì đang đi. Giữa đêm đen, tôi sống biệt lập trong một vùng ánh sáng xa lạ.

Đến Nam Định thì giao thừa. Lòng tôi mơ theo lửa đỏ -- pháo hoa Hà Nội. Trong khi đó thì ở đây chỉ có những quả pháo nổ lẹt đẹt.

Ở một làng nào, lửa đỏ như vệt B52 trong đêm. Hay ai đó vui quá cho bắn pháo? Người ta nói chuyện gì lúc giao thừa, lúc vui?

Trên cái toa xe phần lớn bộ đội này, người ta lại nói chuyện chiến thắng. Nói tới tình thế. Nó chịu ta rồi. Nó sẽ cho ta mấy tỉ mỹ kim... Nhưng khi tôi hỏi mỗi người sang năm anh định làm gì, sang năm anh có kế hoạch gì -- thì không ai trả lời cả. Cũng như bom Mỹ đánh hôm trước, hôm sau trên báo có thơ ngay, còn khi tuyên bố hoà bình rồi, chả thấy ai hé răng gì cả.

- Hôm địch đánh 18, anh ở đâu?

 Tôi hỏi câu đó với nhiều người. Ít ai có cái ấn tượng kinh khủng như tôi tưởng.

Trong khi đó, ngay chiều ba mươi trên tàu điện ở Hà Nội, một người đàn bà nói với tôi:

- Làng tôi may quá, chỉ chết có 4 người. Chẳng phải nói chứ chính là nhờ làng tôi làm hầm Cồn Cỏ. Thành ra cũng đỡ được nhiều lắm. Những làng khác, hầm đào nổi quây quây mấy hòn gạch, chết vô khối. Gớm hôm nó đánh xong, tưởng tất cả chết, chỉ mình mình còn sống. Sau thấy cũng còn nhiều người còn sống như mình. 

Có một cái gì đấy, như là bất mãn, nảy sinh trong lòng tôi. Bất mãn trước một thực tế già cỗi, trì trệ của đất nước.

Thời đại vừa có gì rộng quá, đến nỗi chúng tôi không hiểu hết được. Lại vừa như là chật quá, vớ vẩn quá, có nhiều chuyện, tôi nghe mãi phát chán.

Tôi vốn không tin rằng mọi xã hội có thể xoay chuyển nhanh. Sống trong xã hội này, càng thấy trì trệ. Vậy mà vẫn thường xuyên bực bội. Gần như muốn phát khóc vì tốc độ chậm rề chậm rệt của chung quanh. Nhớ có lần ngồi trên gác Câu Lạc Bộ Ba Đình nghe nói chuyện, nhìn xuống phía quảng trường, thấy những bóng người đạp xe qua lại lơ thơ. Như từ thế kỷ nào xa lắm hồi vọng lại. Vậy mà chốc nữa, giá tôi đi xuống đó, thì cũng lại tự nhiên y như mọi người khác, cắm cổ đạp vội.

 Một ý của Nguyễn Khải (nhân bàn về tình trạng sau chiến tranh mọi người ít nghe đài):

-- Người ta chóng quên ghê lắm. Càng chóng quên là những việc không dây dưa gì đến người ta. Như mình, mình cũng chỉ chú ý tới họ khi chiến tranh, còn bây giờ hoà bình, ai làm gì thì làm, mình biết đâu? Cho nên, mình mới phải nghĩ và nghĩ ngay về cái chuyện thế giới quan tâm đến Việt Nam. Mà quan tâm hơi lâu. Đúng là nó có dính gì đó đến họ, dính về mặt trí tuệ đấy.

Những năm chiến tranh, nhiều dân tộc chia sẻ với chúng ta chống Mỹ với ý nghĩa là dân tộc Việt Nam phải có quyền quyết định lấy vận mệnh của mình.

Nghe thế chúng ta thấy lòng ấm áp.

Nhưng sau đó rồi thì chúng tôi cảm thấy bơ vơ. Điều mà họ nghĩ, với điều mà chúng tôi nghĩ, là có khác. Họ chờ đợi thấy một Việt Nam khác nhưng chúng tôi lại không có cái điều mà họ đang mong.

Thường thì đôi lúc, tôi cứ kinh sợ vì những đứa trẻ. Nó là biểu hiện sức sống của nhân dân này một cách rõ rệt hơn. Biểu hiện rằng dân tộc này không chết.

 Nhưng có chắc rồi có một sự sống thật sự, một sự sống ở trình độ cao? Hay đó chỉ là biểu hiện sự sống của một cái gì đang chết sẽ chết. Như một cá nhân, bao người đã chết để xã hội chết theo?

Những bậc thầy về công việc vá víu - người ta nói về Việt Nam là vậy.

Giá anh bảo một người Việt Nam rằng anh phải sống nghèo hơn, khổ hơn, anh không được đi đâu làm gì cả, anh sẽ rên xiết trong anh điều lạc hậu... thì người Việt Nam kia sẵn sàng gật đầu. Tôi không chết. Tôi vẫn sống. Và tôi còn sinh đẻ nữa. Thế là đủ.

Nhưng bảo rằng anh phải làm ăn cho khá hơn, anh phải bớt sinh đẻ đi, anh phải nâng cao cuộc sống anh hiện nay -- thì người Việt Nam kia cảm thấy rất mực khó khăn.



4/2/73

Vẫn trên chuyến tàu mồng một tết Quý Sửu. Ga Nam Định, Thanh Hoá 1500 khách. Ga Vinh - 2000 khách. Hành khách trung bình chờ 30-38 giờ.

Hành khách lịch sự nhất là khách Hà Nội Hải Phòng.

Hành khách khó tính xấu tính nhất là khách mấy tỉnh phía nam, Thanh Hóa, Vinh, những vùng chiến sự. Lên tầu, tìm ăn ăn xong, rải ni lông ra sàn ngủ.

Ninh Bình - thành phố của núi đá và những công trình của con người, ngay trên một miền đất phẳng.

Núi rất nhọn, sông rất xanh, và cỏ rất cằn, đất rất rộng, đó là Ninh Bình. Những đoạn đường bụi đỏ hai bờ cây lá. Nông trường Đồng Giao nhà chỉ còn tường, nhiều đoạn đường mòn đi qua nền nhà.

Ngày tết thành phố chen chúc khác thường. Còn như ở đây, buổi sáng mùng một im lìm. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe com măng ca hoặc một chiếc xe đạp.

Những người lớn đâu cả, chắc đang chè chén, bàn việc với nhau trong nhà. Chỉ có đám trẻ con chạy ra đường. Trẻ con từng đám, đứng chen chúc đầu ngã tư. Hàng chục đứa, cùng một màu áo xanh trứng sáo. Chúng nó không hết ngạc nhiên trước những đoàn tàu đi qua. Chúng nó băm bổ chạy dọc con đường sắt:

- Chúng mày được nghỉ học mấy ngày?

- Được nghỉ đến mùng 3 thôi. Giá kể đến mùng 4, mùng 5 thì thích.

...

- Lớn lên chúng mày đi bộ đội nhớ

- Vâng. Vâng... Thích lắm.

Hàm Rồng. Lại những khung cảnh chiến tranh. Một địa thế rộng. Lèn đá vệt bom đã cũ, lẽ ra, con đường bò ra, đường đầy bụi. Những chiếc xe tải vập vạp, lúc lẫn vào đoạn đường bụi đỏ, lúc lẫn vào đoạn đường bụi trắng.

Mờ sáng, đoàn xe tải chở phà bật đèn đi.

Càng sáng, càng nhiều xe.

Chỉ có những đoàn xe là gợi cảm giác đông vui. Khung cảnh khu vực nhà máy điện cũ nát như sống lại. Hố bom, cái thì cỏ lên xanh, cái thì còn đỏ miệng. Dáng người đi, lẫn vào trong đường xá trời đất. Mấy người đàn bà đi cắt cỏ. Cỏ dại. Người bây giờ cũng như là một giống cây dại. Ở thành phố, người nhiều, người lúc nhúc. Thành phố nghĩa là nơi đâu người ta cũng thấy dấu vết của con người, những vạt cỏ, những ánh đèn, bóng nhà cao. Vậy mà ở những quãng sông nước này, thiên nhiên khắc nghiệt và hoang vu quá. Hoang vu đến mức những mái nhà bị bỏ quên cũng trở nên ngất nghểu. Dấu vết con người sao quá nhạt nhòa.

Có lẽ vấn đề trung tâm mà tôi muốn để tâm nghĩ trong những ngày tới - bộ mặt của một đất nước sau chiến tranh. Những di luỵ của bom rơi máu đổ trong đời sống và trong tâm lý mỗi con người trong xã hội. 

Hoà bình có một nghĩa chung với tất cả mọi miền. Nhưng với mỗi vùng miền, hoà bình lại có một nghĩa khác. Đối với Khu 4, hoà bình có nghĩa là một cuộc sống trở lại trên mặt đất.

Những cụm ga những đoạn cầu, nó như là nơi đối mặt của hai phía chiến tranh và hòa bình. 

 

Ngổn ngang, không bao giờ mặt đất hết ngổn ngang. Những gì tàn phá chưa chịu lẩn đi mà còn chềnh ềnh đó. Nhưng một cái gì chủ yếu nhất -- sức hoạt động -- thì đang tự nó làm nên ấn tượng một sự thay đổi. Sự tình là cái sống phải lấn cái chết từng bước một. Phải gạt cái tàn phá sang một bên để mà gắng gượng đi lên.

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 13-1-23