Những
vấn đề của một xã hội hậu chiến,
Trích từ cuốn sách chưa xuất bản
“Nhật ký chiến tranh Hà Nội - Quảng Trị -Hà Nội 1972 – 1975”
18/2
Vinh. Thành phố trông bằng bặn… như một cánh đồng. Chỉ còn một ít cây
cối lên xanh. Chỉ thấy ô tô đi. Chỉ nghe tiếng còi bin bin. Đường đất,
đường đá, những chiếc xe tải đi nước trong vũng vỗ ràn rạt. Giữa một
thành phố thế này, một dáng người đi bộ, một chiếc xe đạp cứ lọt thỏm
đi, để lộ ra vẻ heo hút.
Một con đường cũ, nhưng mất hết cả mặt đường, cả dấu vết vỉa hè. Mất hết
cả cột điện. Lại mất cả dãy phố hai bên. Dấu vết của con đường nơi đây,
chỉ còn là vệt bánh xe lăn. Cạnh con đường ấy, người ta rạch một con
đường khác, rải đá. Rồi lại một con đường nữa, bên ngoài con đường đá,
hợp với con đường ban đầu, thành hai đường song song, cho ô tô chạy theo
hai chiều.
Đó là đoạn đường từ chùa Diệc đến nhà bách hoá tổng hợp – đường Quang
Trung, mạch chính ở Vinh hôm nay. Hai vạch đất màu nâu. Màu đá trắng,
một số nơi cỏ đã lên xanh. Mấy cô Thanh niên xung phong khơi cống bên
đường, ủi đất, mắt hau háu nhìn người đi qua, một cô áo đỏ trông rất rợ.
Con đường chỉ có một khía cạnh đáng chú ý hơn mọi nơi: nó thẳng thắn, nó
rộng rãi. Nó gợi ra những việc người ta phải làm sau chiến tranh.
Bom đạn đã đẩy lùi những dây dưa vướng víu mà hồi trước trong hoà bình,
chúng ta không bao giờ vượt nổi. Vui hay đau xót?
Những công dân đầu tiên có mặt ở thành phố, là những người làm giao
thông vận tải, và những người xây dựng ở Vinh đây là những người thuộc
công trường thị chính. Họ gỡ phá bom trong những ngày hoà bình lần trước
(sau thời kỳ 1964-68). Họ lại ở lại chữa đường trong những ngày thành
phố bị bom đạn. Chỗ ở của họ, nằm ngay trên đường Phan Đình Phùng. Những
gian nhà tầng lâu ngày, bị hơi bom phá làm rời rã vôi vữa, mưa xối cho
còn trơ lại gạch. Bên ngoài, những gian nhà dựng đại khái cho có người
ở, khói hun đen cả tường. Áo quần dăng mắc, một đứa trẻ thò đầu ra cửa
sổ, vỗ vỗ quân bài. Nhưng thử vào trong nhà xem. Những hàng chữ 307
hòm đạn - 92 ngòi nổ, những hàng chữ viết bằng than, bằng mực
nguệch ngoạc. Gõ lên mặt tường, có chỗ vữa rơi sùn sụt.
Phía những bụi rậm trước nhà có một tiếng nổ. Đoành. Bom chi đó? —
Bom bi — Sao biết bom bi? – Nổ ít khói, tiếng nổ ngắn, bom bi chứ chi?!
Người ta kháo nhau. Rồi người ta lại thản nhiên làm việc. Ở đây, ngồi
trong những ngôi nhà lung lay — thản nhiên, nghe tiếng bom nổ — thản
nhiên.
20/2
Đến ban quản lý
xây dựng.
– Khi ở xa, thấy địch đánh, đồng chí lo gì? Tôi hỏi một công nhân.
– Nhà cửa không lo nữa. Nó đánh cho hết đi cũng được. Nhưng chúng tôi
lo mặt bằng thành phố, nó đánh vậy, đâm khó khắc phục. Lo bom bi bom
vướng khó làm việc về sau.
Ngay trong những ngày bom đạn, chúng tôi vẫn kiến thiết cơ bản. Trồng
cây xanh — đo đạc để sửa đường. Lên Nam Đàn bốn ngày, chỉ nghĩ mình là
người xây dựng Vinh, mình lại đi. Không ổn! Chúng tôi quay lại, vẫn đi
đo đạc, kiến thiết.
Những người dũng cảm lúc này trông thất thểu, như những người tứ cố vô
thân.
Có đợt phà Bến Thủy tắc 24 ngày, cháy toàn bộ phương tiện. Có lần bom
đánh ở Hà Tĩnh từ bến phà về núi, bom đào thành sông. Dân gánh toóc
rơm ra lấp, mấy ngày sau, đường mới nổi lên. Hồi ấy, không có
đài, có người sang báo ngừng bắn mới biết.
Chỉ đạo làm thêm những con đường mới. Bữa bom đạn nhiều, mồ mả dọn không
kịp. Đường trung tâm Cầu Thông bom phá một hố sâu, một người đèo xe qua,
nẩy, ngã chết. Làm đường qua đập tràn cổng Toà thị chính Vinh. Bom nổ
sau nhà, thùng xăng cứ dựng lên.
Phòng giao thông chuyên môn ít. 30 chánh phó chủ tịch xã được chuyển ra.
Không biết gì về cầu đường, chẳng qua ở nhà có vướng với dân, nên được
điều ra đây.
Cái chính là ngay bây giờ cần những người có kinh nghiệm xây dựng thành
phố. Phải ưu tiên những công trình kỹ thuật: điện, cống ngầm… nếu không,
sau này phải lật lại.
Tri (một kỹ sư) bảo lần đầu tiên trở về, tôi thấy xa lạ. Y như một thành
phố nào khác. Lý trí bảo rằng đây là nơi mình sẽ đến, sẽ làm việc, sẽ
trở nên một nơi thân yêu của mình. Nhưng nhìn vẫn dửng dưng.
Vinh bị phá huỷ gần như hoàn toàn (Diện tích nhà còn lại 45.000m2. Diện
tích cũ gấp 5 như vậy). Cái thành phố méo mó, quằn quại, lùi xa, rồi lại
cắn răng trụ vững, cắm những con người của mình trụ trên những địa điểm
cố định. Ví như phà, ví như cảng. Cái thành phố của ý chí.
Cũng như tất cả những thành phố khác, Vinh là đất để cho nhiều người qua
lại. Vinh luôn luôn có những mặt người lạ. Vinh nhiều lái xe, nhiều bộ
đội về phép, nhiều bộ đội an dưỡng. Với người miền Bắc vào, đây là cái
địa đầu của miền Trung. Nhưng những người vượt những gian khổ sông nước,
đường xá, từ trong ra, đến Vinh, có thể thở phào, đã đến cửa ngõ của Hà
Nội.
Có dễ không có gì tiêu biểu cho thành phố những ngày hoà bình đầu tiên
bằng cái cảnh những ngôi nhà nhiều tầng bị đổ sập. Mưa nắng xói mãi vào
nền vôi cũ. Cửa kính cửa chớp bị bật tung. Nhưng thay vào đó người ta
quây phên, quây ny lông che cửa. Có ai nấu nướng ngay trong nhà. Trước
cửa ngôi nhà, một chiếc xe tải đậu, chờ lấy hàng. Nhiều vệt xe tải từ
lâu đã xiết trên mặt cỏ những vệt mòn, chỗ xe mới vào đỗ cỏ nham nhở đôi
chút.
Câu chuyện của người xây dựng:
– Đất Vinh — đất cát. Có hiện tượng cát chảy (dù chưa ghê lắm!). Nhưng
tốt cho xây dựng. Nếu kết hợp có đầm rung, càng hay. Mặt bằng không phải
chỉ địa hình, mà còn là địa chất. Những khó khăn do bom đạn là tạm
thời.
21/2
Đêm trên thành phố, một vài đoạn đường có những loạt đèn mới mắc,
nhưng nhiều chỗ khác tối om. Phía trước mung lung, bước chân khấp khểnh,
bóng đêm sáng tối, chỗ đậm chỗ nhạt.
Buổi chiếu bóng đầu tiên trong thành phố sau hoà bình. Thành phố của
những người lạ, của những thanh niên xung phong, những bộ đội. Trước cửa
bãi chiếu bóng, người ùn tới, người nhốn nháo. Vẫn thấy kinh sợ ô tô.
Bãi nguyên là một nơi đỗ ô tô. Ô tô dịch từng bước giữa những đám người.
Ô tô loé sáng giữa những khoảng tối. Ô tô rầm rì. Nhưng mà mọi người vẫn
vui, vẫn xô đẩy nhau mà vui.
Ở cái đất Vinh này, cuộc sống lúc nào cũng bị những áp lực. Ngày trước,
gió lào, cháy. Cây non trồng, chăm tưới khó…. Lại chiến tranh. Đến cái
cọc cắm vào hố bom, cũng phải làm bằng xi măng. Sợ nó bị bật tung đi,
rồi lúc nào đó, bom lại nổ.
Thứ âm thanh nghe giục giã, nghiến ngả trong những ngày này là tiếng xe.
Xe xúc, xe ủi, cái xe của những mặt bằng, cái xe của nền móng. Chữ của
người cán bộ giao thông, cố để làm nổi một con đường.
Thoáng qua một chút thú vị bệnh hoạn: bao giờ ở đây cũng được sục chân
vào đất mới. Và tôi nhớ những lần xe lùi lại lấy thế. Thường lúc đó cái
xe lồng lộn như bước vào một cuộc chiến đấu.
Những cặp đối lập
Chiến tranh/ hoà bình
Anh bộ đội/ người kỹ sư xây dựng
Người đi qua thành Vinh/ Người của thành Vinh lâu dài
Người chiến sĩ nhìn về Vinh: Một khâu trung chuyển, một chỗ nghỉ. Những
kho hàng phủ bạt trông ngàn ngạt trên đường.
Nhà cửa ở Vinh ( lời kể của một kỹ sư)
Sau mỗi trận bom, chúng tôi đi xem lại một số khu vực, đếm từng cái nhà.
Trong những năm 1968-72, một số nhà được xây dựng bị đánh. Năm 72 làm
thêm cửa hàng lương thực, bách hoá, các ki ốt… khoảng 10 cái. Ở trung
tâm giao thông, cho người ta ăn uống. Rất có tác dụng (làm nhà âm!).
Chưa tính xây dựng các công trình nổi, chỉ làm công trình ngầm.
Cũng có một vài nhà cũ còn nguyên. Khi các cơ quan đi, họ gửi chúng tôi
nhà cửa. Tỉnh giao cho chúng tôi quản lý. Trong chiến tranh, 95% nhà
trong thành phố được dùng làm kho. Một số cho công nhân thị chính. Lúc
ấy đã lập hội đồng xác nhận thực trạng nhà cửa. Đi xác nhận nguy hiểm mà
vẫn phải đi.
Trên thành phố, hàng nghìn dân viết đơn xin về. Vào một nhà dân, xem có
đủ ở không, có an toàn không. Chưa dám nghĩ nhà đẹp, nhà tiện nghi. Làm
nhà tranh cho các nhà gạch một tầng. Làm nhà gạch cho những nhà hai
tầng. Chủ trương giá độ 150đ (4 người – 10m2)
Biết tôi làm bên nhà cửa, người ta quý hoá hỏi han. Mấy hôm đầu hoà
bình, thăm dò ngay về chỗ trú chân. "Chúng tôi chỉ cần về dựng lên một
túp lều, là có thể yên tâm.” Có gia đình chết 6,7 người, tình cảm với
quê hương vẫn rất tha thiết. Nhà cửa là tài sản lớn nhất của một đời
người.
Câu chuyện của người kỹ sư ngành điện
10g30 sáng 24/1/73 ký tắt, 6g 30 tối có điện. Trong chiến tranh, anh
em bạn bè thường vẫn bàn tương lai, lưới điện sẽ cho đi ngầm tất cả hay
sao? Các nước dùng lưới ngầm, chỉ có cốt thò lên, dùng hoa sen, đèn
lồng, trang trí. Hai năm tới, ở ta sẽ có 5km dùng lối điện này. Đường
điện đôi.
Đi trong thành phố tối, bao giờ cũng bực… Ước mong khi về hưu, lưới điện
sẽ rực rỡ (ai đó kể Praha bên Tiệp sáng nhìn rõ cả kiến.)
Gần như trong đầu có hai thành phố: Một Vinh hôm qua, thành phố
gần 2 cái trạm giao thông, thành phố một đầu là bến ô tô, một đầu là Bến
Thuỷ. Và một Vinh khác, đang xây dựng lại, thấp thoáng những đường
rải nhựa, vườn hoa, đài liệt sĩ.
… Sao tôi chỉ yêu được cái thành phố đang xây dựng. Còn như thành Vinh
chiến tranh kia bẩn thỉu, bụi bậm. Và thế này nữa, những người mà hôm
qua đứng lại với bến phà, với bờ sông, sao hôm nay nhênh nhang, ngơ
ngẩn, luộm thuộm. Tôi gần như không thể ưng được những con người ấy nữa
dù họ mãi mãi làm tôi kính phục.
Mùa xuân. Mưa rất nhẹ, nắng rất vừa, tất cả đều nâng niu sức sống, đều
nuôi dậy những khao khát sống. Vậy mà cớ sao tôi cứ buồn bã? Tôi sợ hãi
những mùa xuân, vì ở tôi lúc nào cũng đầy những khao khát rồi. Tôi đang
muốn dẹp bớt đi. Tôi đang muốn nén mình lại.
Đất nước gồm những con người lạ kỳ. Ở đây, nói thế nào cũng được. Nói
rằng chúng ta rất anh hùng, rất sáng suốt, rất khoa học, cũng được.
Nhưng nói rằng chúng ta mê muội, dốt nát, vất vưởng, kể cũng không sai.
Một người cán bộ cấp tỉnh làm việc… cứ bay như con chiền chiện. Ông ký
giấy, giải quyết việc, rồi lại bỏ đấy, kéo đi theo người khác, rồi lại
giải quyết việc. Tưởng như ông làm bừa đi, không còn nhớ gì cả. Mà thực
ra, là ông nhớ rất kỹ những điều ông nói. Hình như việc gì cũng đến tay
ông, cũng phải qua ông. Nhưng ông có thể bớt việc đi được không? Chắc
được. Bởi ông giải quyết tất cả theo lối phứa phựa cả nắm cả mớ. Người
cứ chạy theo ông, một lũ một lĩ… Hẳn là ông rất hách dịch, rất gia đình
chủ nghĩa. Nhưng ông lại hợp với thời đại. Những người như vậy, là hợp
với thời đại này chăng?
Nhàn:
Những gì là đặc điểm chung của những người ngồi ô tô đó?
Long
(một kỹ sư): Là họ bạo phổi, họ có tầm mắt chiến lược, họ không sợ hy
sinh những cái nhỏ, họ dám làm cho tới khi được việc. Là cách họ nói,
bao gồm cả sự thường xuyên nói dối nói dá. Đáng khen thì họ chê. Đáng
chê thì họ khen. Lấy nói làm công việc, kể cả nói không cần nghĩ , nói
không hiểu điều mình vừa nói. Tôi đã thấy ông ấy phóng ô tô đến một nơi,
cắt ngang hội nghị, phát biểu những ý kiến hết sức quan trọng, rồi lại
từ biệt bữa cơm sang trọng mà người ta mời mọc, giữa chừng phóng xe về,
nói là dự một cuộc họp quan trọng hơn. Cuối cùng hóa ra chỉ là chuyện
này: ông ta phóng xe về dự một bữa thịt chó. Sự tình là như thế, thường
xuyên như thế. Mỗi người tự hiểu mình không còn là của chính mình nữa,
mà đã thuộc về một cái gì rất chung và ngoài tầm kiểm soát. Cái gì cũng
có ý nghĩa nên chẳng có cái gì là có ý nghĩa nữa. Và công việc nhiều quá
đến mức không làm cũng chẳng chết ai.
25/2
Một người lớn tuổi than thở rằng cha mẹ bây giờ nói với con bằng lý
bằng tình, và cả bằng nước mắt, mà con vẫn cứ hư hỏng. Quá lời chăng?
Nhưng sự thật là thanh niên bây giờ làm tôi thất vọng. Như mấy cậu ở
Vinh. Ngây ngô quá. Không đủ phong độ một người cán bộ nhà nước. Thường
đến một chỗ nào đó, là vâng vâng dạ dạ, ngoài ra lơ mơ về công việc. Chỉ
chơi. Chỉ dòm hành. Cái xe này khung Đức hay Tiệp? Vành Việt Nam hay
vành Trung quốc? Toàn những chuyện vậy. Hoặc đến công tác ở một nơi, thì
đi tán mấy o con gái. Không trọng được.
Long bảo hay nhớ cái tình thế nước đôi trong truyện Tuyết của
Paustovski. Người con gái về thăm mẹ chết, nhớ lại người mẹ mình. Bà vừa
là hạnh phúc của đời cô, vừa là một gánh nặng đối với cuộc sống của cô.
Bây giờ, bà mất đi cô vừa thấy mất mát đi một điều gì đó, vừa thấy nhẹ
đi một phần trách nhiệm nào đó.
Những bậc cha mẹ, có lẽ thế, luôn luôn là một gánh nặng với con cái. Quá
khứ là một thứ gánh nặng với hiện tại, tuy nó cũng là tài sản của hiện
tại.
Như đối với tôi, cuộc đời luôn luôn là một ông bố khó tính, không hề
thông cảm cho tất cả những phức tạp của tôi, tuy vẫn yêu tôi, thương
tôi. Là một người chị tốt bụng nhưng cam chịu. Là một bà dì không tình
nghĩa, chỉ tìm cách hành hạ tôi.
Truyện của Paustovski thích hợp với hai hạng. Hạng trẻ thơ, đang cần
khuyến khích mơ mộng. Hạng người già, biết nhìn ra tất cả, nhưng cần
nghỉ ngơi. Đối với thanh niên, loại truyện đó không thích hợp.
25/2
Sương dâng từ 4 giờ chiều, đến 5 giờ sáng. Sương phủ mông lung. Sương
làm cho mặt người mờ mịt. Mặt đất như biến đi dưới chân, tất cả nhẹ
bỗng, chỉ còn có những điểm sáng, chỉ còn tiếng nói.
Sao ở cái thành phố của dân cách mạng này, mà có lúc lại nhiều
sương? Trong tôi vụt nẩy ra một câu hỏi kỳ cục. Nhưng sao tôi vẫn
thấy muốn tự hỏi như thế. Cuộc sống chiến tranh đồng nghĩa với nắng gắt,
gió lộng, mùa hè ngột ngạt và mùa đông rét đến thâm tím mày mặt. Sao
trong cái cuộc sống ấy lại còn suơng, còn cỏ non, còn mưa phùn? Cũng như
trên dải đất Việt Nam này, lại còn những đêm trăng đẹp, những con sông
thơ mộng, những bài dân ca; và hôm nay là những ngày xuân, trời đất
không ra nắng, không ra gió, hơi lạnh so với mùa hè, nhưng đã ấm rất
nhiều so với mùa đông.
Cái ấn tượng lớn nhất của tôi về Vinh, cái mà tôi tìm thấy mình ở trong
này, đó là tính chất đêm tối, tính chất trung cổ, tính chất nửa vời.
Về mặt nào đó, cách hiểu về thành phố như thế cũng là cách hiểu về cả
đất nước. Những gì của ngày hôm nay nó cứ như là nhất thời, tạm bợ. Quan
trọng hơn là một cái gì lờ mờ đằng sau mà ta gọi là ngày mai. Nhưng biết
bao giờ ngày mai sẽ tới. Cái đích xa tưởng là mờ mịt. Cái đích xa nuốt
vào nó muôn ngàn cố gắng. Rồi sẽ đi đến đâu?
Mua vé về, chấm dứt đợt vào Vinh.
Đi khỏi Hà Nội, cảm thấy có một điều gì đưa tôi trở về bề sâu của đất
nước khiến tôi bình tĩnh, – thậm chí như tê dại đi –, mà lại khiến tôi
có thể lặng lẽ mà sống. Nghe chuyện mọi người, thấy người nào cũng sâu
sắc, cũng chân thành, cũng đáng suy xét ngẫm nghĩ. Mọi người đang sống
sát mặt đất, sát cái thực tế của mình, có đủ thói xấu và tính tốt.
Nhưng rồi tôi nhớ lại những ngày Hà Nội, để mà nhận ra điều này. Đúng là
người ta phải sống ở Hà Nội, phải ở Thủ đô. Để mình có thể hiểu những
vấn đề chính trị lớn lao. Để có thể sống với cái nhịp điệu gấp gáp hơn,
hiểu điều đúng và điều sai trên cơ sở những nhận thức sâu sắc hơn. Để có
thể tiếp xúc với cả những phát hiện khác ở một cuộc đời khác ngoài xứ sở
mình đất nước mình.
Nhưng hỡi ôi, một là, ở Hà Nội, tôi cũng chỉ biết được những điều đó
bằng nghe lỏm và sự hiểu biết rất nhiều phen lỗ mỗ. Hai là, để xứng đáng
với một quan hệ rộng rãi như thế, người ta phải có một cuộc sống tương
đối ổn định, tương đối thoải mái. Người ta phải phát huy được sự suy
nghĩ. Phải có quyền hướng tới những điều người ta thấy đúng. Phải có
những thể chế dân chủ và hiện đại. Phải có một xã hội để cho người ta
yên tâm hơn. Tôi biết tìm đâu những thứ đó?
Bi kịch của chúng tôi hiện nay là sống rên xiết trong những ngôi nhà
bẩn thỉu. Chúng tôi luôn luôn bị đe doạ, bị nạt nộ. Người ta muốn chúng
tôi càng ít hiểu những vấn đề phức tạp càng tốt. Xe thì đi chậm quá,
người thì đông quá, nhiều người vô dụng quá. Những người chung quanh tôi
có một điều gì đó, cứ luẩn quẩn, kể cả những lời nói xấu xã hội những
lời phủ nhận cũng là luẩn quẩn, cũng là bắt nguồn từ một góc độ bé nhỏ,
một nguyện vọng tầm thường (cùng lắm thì mới là một nhận xét sắc sảo, ít
khi là một nguyện vọng chân chính, chưa nói đến một sự sống cao đẹp!) Và
thực là mỗi người cứ như là chưa đủ tư cách, chưa đủ hiểu biết, chưa đủ
khả năng thực hiện một điều gì cả. Mọi người quằn quại trong cái mớ bòng
bong hay dở sai đúng, mà không sao hiểu hết.
Trên chuyến tầu trở lại Hà Nội. Sàn tàu bẩn như bết đất. Người đi tàu
nằm lăn ra đó mà ngủ trong đêm. Và ban ngày họ mới như ma hiện lên, đi
lại ăn uống. Sao mà tôi nhớ cái nhận xét nào đó về người Việt Nam: người
ta ăn rau ráu. Người ta nuốt mọi thứ rơi vào tay. Những người đàn ông
mang tiếng dạy đại học, mang tiếng trí thức đi Bắc về Nam, những người
ấy bây giờ cũng đi đất, nằm ngủ mồm sùi nước rãi. Người đàn bà cái áo
trắng ngả màu cháo lòng, ngồi vạch vú cho con bú trước đông đảo hành
khách. Không còn ra sao nữa, đứa trẻ tát vào má mẹ nó đôm đốp. Phía bên
kia một người đàn bà giọng khê nồng, nói toàn những lời điệu bộ. Một ông
già Thừa Thiên khoe con làm cách mạng, rất hồn nhiên. Mấy tay bộ đội đi
B ra, nói cười hô hố, toàn làm lộ bí mật. Hoặc là nghĩ sợ cái nơi vừa
rời bỏ đó, nay mai không muốn vào. Hoặc là gây gổ cãi nhau, tranh nhau
chỗ… Cái xã hội này nhộn nhạo thế.
Tàu Vinh - Hà Nội bao giờ chẳng nhiều những người khu 4. Và tôi miên man
nghĩ những người gan lì đó, làm cách mạng, nay lại học lấy thói bóng
lọng của miền Bắc. Cũng như người đồng bằng Bắc bộ lại phải chia sẻ cách
sống cách làm việc thô lỗ căng cứng của người vùng trong. Mới trên một
khoảnh nhỏ một nước Việt Nam này, đã đọc thấy những thứ đục khoét con
người.
Cách mạng. Phải hiểu và cắt nghĩa tất cả các chuyện trên đời này. Chủ
nghĩa Mác- Lênin đã mang vào Việt Nam cái gì? Tại sao nó bắt rễ được ở
Việt Nam? v.v…
Khu bốn như bãi chiến trường. Khu bốn bị cày xới… Chỉ về đến vùng Hà Nội
– Hà Đông giáp Hà Nội, tôi mới cảm thấy một cái gì đó rất bình thản, rất
nền nếp. Những làng xóm, những ngả đường, cho đến một đám ruộng mới bừa,
hàng mạ mới gieo, tất cả vào hàng vào lối, tất cả không hề tạm bợ xáo
trộn.
Một người bạn làm nghề kiến trúc nhận xét: Nhà cửa Nghệ An, Hà Tĩnh thực
dụng hơn ở đâu hết, hơn nhà đồng bằng Bắc bộ.
Nhiều lần tôi đứng bên ô cửa sổ một căn nhà hai tầng, nhìn ra cuộc đời.
Hôm nay cũng vậy. Một ngày đầy gió. Tôi nghĩ đến những khao khát đang
sôi lên ở mỗi người. Cách mạng đã hứa hẹn với người ta, làm cho người ta
sống trong những khao khát.
Nhưng có phải đó cũng là tạo ra thách thức với một số người hoặc rộng ra
với rất nhiều người? Bởi họ là đám không đáng đánh thức cũng bị đánh
thức. Trở dậy họ không biết làm gì cả.
|