Tạp chí The Diplomat,
Tháng Chín 2019 

Chiến Trường Tiếp Theo Trong Chiến Tranh Thương Mại Của Trump: Việt Nam

(The Next Battleground in Trump’s Trade War: Vietnam)

 Việt Nam có khả năng là mục tiêu thương mại tiếp theo của chính quyền Trump. Song tính toán thì khác với Trung Quốc về những điểm chính.

Alexander Hitch[1]

 

Người dịch: Một thân hữu của viet-studies

 

           Trong khi các căng thẳng thương mại đang leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc đã thu hút sự chú ý, một tay chơi mới nổi trong thương mại toàn cầu đã âm thầm gặt hái những lợi ích, trở thành một lựa chọn thay thế cho các công ty đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng của mình và đề phòng tác động của bất ổn chính trị đang tăng lên.

Việt Nam, một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, đã mở cửa thị trường trong những năm gần đây, bằng cách tham gia hiệp định thương mại CPTPP [Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương], là chỗ đáp của các công ty và các mạng lưới nhà cung cấp đang chạy khỏi Trung Quốc, và gần đây ký một hiệp định thương mại tự do với EU.

Một kết quả của thành công này: Thặng dư thương mại hàng hóa của Việt Nam với Mỹ đã tăng vọt từ 31.98 tỷ USD năm 2016 lên 39.49 tỷ USD trong năm 2018 và tăng tới 39% cho đến tháng Sáu năm nay. Chính quyền Trump đã để ý, tuôn ra hàng tràng về chuyện Việt Nam 'thậm chí còn tệ hơn cả Trung Quốc' như thế nào và nhất thiết phải làm sao đó để giảm 'thâm hụt thương mại không thể chịu được này'.

Đối chính quyền Trump và cân bằng cán cân thương mại, quá khứ có thể là tiền đề cho hiện tại[2]: Việc đánh thuế hàng hóa đối với Việt Nam đang sắp xảy đến. Nhưng có hai vấn đề với quá trình hành động này. Thứ nhất, thâm hụt thương mại vẫn là một cách tồi để đánh giá một mối quan hệ thương mại. Thứ hai, áp dụng với Việt Nam, thuế quan sẽ gây rủi ro cho các mục tiêu an ninh quan trọng của chính quyền đối với Trung Quốc.

Về cán cân thương mại, trong khi Việt Nam đã trở thành nhà sản xuất thường thâm dụng lao động, một nguyên do lớn cho sự tăng trưởng thâm hụt thương mại gần đây [giữa Mỹ và Việt Nam] có khả năng là do trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc qua Việt Nam.

Gian lận trung chuyển – quá trình dán nhãn lại hoặc sửa đổi tối thiểu đối với hàng hóa ở một nước thứ ba để tránh thuế quan – đã khiến các nhà hoạch định chính sách của Mỹ lo ngại trong nhiều năm liên quan đến hàng hóa do Trung Quốc sản xuất. Dữ liệu về trung chuyển thì không đồng nhất, nhưng bằng chứng cho thấy các công ty tìm cách tránh thuế quan của Mỹ đang sử dụng Việt Nam làm khu vực để tiến hành khi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung gia tăng. Bởi vì các vấn đề trung chuyển giờ đây đã vướng mắc vào tranh chấp giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, Việt Nam có thể bị kẹt giữa hai làn đạn.

Tuy nhiên, còn có các sức mạnh khác. Một sự đồng thuận lưỡng đảng ngày càng tăng ở Washington cho rằng một Trung Quốc không được kiểm soát đặt ra một mối đe dọa an ninh lớn, và những quan hệ mạnh mẽ giữa Mỹ và Việt Nam được coi là ngày càng quan trọng trong việc cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.

Để làm được điều đó, Việt Nam đã được đưa vào trong việc hình thành nên Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương do Mỹ dẫn đầu (nay là CPTPP mà không có Mỹ) để củng cố các quan hệ đối tác chính trị và kinh tế với các nước trong khu vực. Đúng trong năm 2016, Mỹ đã chấm dứt lệnh cấm vận vũ khí của mình đối với Việt Nam và gần đây đã cung cấp tàu tuần tra cho lực lượng bảo vệ bờ biển của Việt Nam. Về phía mình, Việt Nam cảnh giác với ảnh hưởng của nước láng giềng phía bắc ở Biển Đông và đã phát triển mối quan hệ an ninh với các cường quốc khu vực như Ấn Độ và Nhật Bản.

Việt Nam có thể không phải là đối tác hoàn hảo, tất nhiên. Đây là một quốc gia độc đảng vẫn còn ngăn chặn bất đồng chính kiến và quản lý một nền kinh tế có kiểm soát, với các doanh nghiệp nhà nước tương tự như các doanh nghiệp gây phiền phức cho các nhà hoạch định chính sách của Mỹ về Trung Quốc.

Chính quyền Trump cũng khó có thể dung thứ cho một quốc gia thậm chí còn xa xôi lạnh nhạt hơn so với các đồng minh an ninh của Mỹ như Nhật Bản và Hàn Quốc, vốn đã được đưa vào tầm ngắm thương mại của chính phủ [Mỹ] vì lý do an ninh quốc gia không rõ ràng.

Cũng vậy cả thôi, cố gắng khắc phục cán cân thương mại thông qua thuế quan sẽ chỉ khiến người chơi chủ chốt thêm xa lánh ở một khu vực mà Mỹ hy vọng duy trì ảnh hưởng của mình.

Thay vào đó, chính quyền Trump nên làm việc một cách xây dựng với Việt Nam để hạn chế trung chuyển và trong quá trình đó tăng cường mối quan hệ an ninh. Điều này có thể được thực hiện bằng cách tham dự với chính phủ Việt Nam về chính sách phát triển và thương mại khu vực, đồng thời tạo cơ hội thảo luận trên những lo ngại chung về Trung Quốc. Cách tiếp cận như vậy sẽ làm giảm sự chú ý sai lầm của tổng thống Trump vào thâm hụt thương mại và có khả năng đưa Việt Nam lại gần hơn với quỹ đạo của Mỹ.

Nhưng với thông báo áp thuế đối với phần còn lại của hàng nhập khẩu Trung Quốc vào Mỹ, hiếm ai có thể nín thở chờ rằng Việt Nam sẽ được tha.

 



[1] Alexander Hitch: Trợ lý nghiên cứu về kinh tế toàn cầu (2017-nay) tại Hội đồng toàn cầu vụ (Council of Global Affairs) Chicago. Có hai bằng thạc sĩ về quản trị kinh doanh tại University of Chicago Booth School of Business (2017-2019) và xã hội học thị thành tại Đại học Chicago (2010-2011), tốt nghiệp Đại học Wisconsin-Madison chuyên ngành lịch sử (2005-2010).

[2] Nguyên văn 'what’s past is likely prologue': bắt nguồn từ câu 'What's past is prologue' trong vở kịch 'The Tempest' (Giông tố) của Shakespeare, nghĩa là 'Những gì trong quá khứ mới chỉ là sự khởi đầu', thường được sử dụng với nghĩa 'lịch sử đặt bối cảnh cho hiện tại'. (Người dịch)

Người dịch gửi cho viet-studies ngày 8-9-19