Nhân sự kiện

một cô giáo ở Đại Học Duy Tân bị đuổi việc,

tản mạn về phần tử trí thức đại học

 

Trần Văn Chánh

 

Trong những ngày chống dịch Covid-19 đang bùng phát dữ dội (đợt IV từ 27.4.2021) tại TP. HCM, tôi cũng đã tham gia vừa tiêu cực vừa tích cực vào chiến dịch “chống dịch như chống giặc” đại quy mô này bằng cách… ở yên tại nhà, nhờ vậy có thì giờ theo dõi kỹ hơn các thông tin về dịch bệnh, thấy được chỗ hay chỗ dở trong hành động của chính quyền, sự tích cực của đội ngũ y tế, công an, tình cảnh khốn đốn của người dân, kể cả những chuyện thế thái nhân tình trong thời đại loạn, và những thông tin khác nữa rất đa tạp liên quan các vấn đề chính trị, xã hội mà các loại hình truyền thông đưa tin đôi khi trái ngược nhau, chưa kể một số tin giả giật gân lừa đảo gây xôn xao dư luận…

Trong mớ bề bộn kể trên, một trong những sự kiện nổi bật gây chú ý dư luận mấy ngày gần đây là việc một cô giáo ở trường đại học Duy Tân (Đà Nẵng) vừa bị đuổi việc và sau đó phải ra chầu hầu công an vì trên lớp học trực tuyến cô đã dám bày tỏ cảm xúc bất bình về sự thiếu trách nhiệm của nhà cầm quyền trước tình cảnh khó khăn của hàng ngàn người dân phải tự đàn đúm tháo chạy đến hàng ngàn cây số để trốn khỏi vùng dịch hiểm nguy về quê với hi vọng tìm được một chỗ trú ẩn an toàn hơn trong vòng tay bảo bọc của người thân hoặc bè bạn. Lời phê phán của cô giáo trung thực và đầy lương tri kia, dù có thể còn vướng vài sơ suất trong cách diễn đạt trong khi nóng nảy, đã bị một sinh viên ghi âm ghi hình lại rồi báo cáo. Không phải nói, ai cũng có thể đoán ra được anh sinh viên kia là thuộc thành phần nào rồi. Xem đoạn video clip tranh luận giữa cô và trò, người nghe có cảm tưởng anh sinh viên như một bậc bề trên đang gằn giọng chầm chậm vặn hỏi một kẻ cấp dưới bằng một thái độ cố ý trầm tĩnh, còn khoe mình đã từng được đi du học nhiều nước trên thế giới! Phía cô giáo cũng chẳng chịu nhường, thẳng thắn lớn tiếng bảo vệ ý kiến, biến thành một cuộc tranh luận được ghi âm mà hồi kết là cô bị đuổi việc! 

Nghe qua câu chuyện, nhiều người trước hết tỏ nỗi bất bình vì thái độ hỗn xược của trò đối với thầy, từ đó nói qua tình trạng xuống cấp văn hóa-giáo dục-đạo đức của xã hội Việt Nam, lên án gay gắt thái độ của trường đại học Duy Tân. Nhưng theo tôi, trong câu chuyện cụ thể này, yếu tố anh sinh viên nêu trên có lẽ ít quan trọng, vì anh này chắc chắn không phải sinh viên thuần túy cầu học, hoặc ít ra cũng là một thứ tương đối cá biệt, đầu óc vô minh, hay một loại đoàn viên đặc biệt tích cực nào đó. Thoạt đầu tôi cũng giống mọi người, giận như muốn sôi gan, nhưng chỉ vài phút sau thì cơn giận biến thành nỗi vui mừng: mừng cho cô giáo có được cơ hội quá tốt để thoát khỏi một môi trường giáo dục tệ hại, và ban giám hiệu qua việc này đã bộc lộ nguyên hình cho mọi người thấy rõ hơn bản chất xấu xa. Nếu họ không phải nhóm người bất hảo thì cũng là một tập thể mang danh trí thức đại học nhưng hèn kém, cô giáo được tách ra khỏi họ chẳng khác gì được giải phóng khỏi nơi lầy lụa, vì trường đại học Duy Tân cũng chẳng phải nơi tử tế, trái lại nó còn là một cơ sở kinh doanh giáo dục đáng đào đất đổ đi, đã từng phạm nhiều chuyện bê bối mà bẩn nhất là vụ trường này hồi tháng 9.2020 đã từng bị Công an Đà Nẵng kết luận về thủ đoạn đã dùng 900 lá thư nặc danh bôi nhọ các đồng nghiệp đại học khác trên địa bàn Đà Nẵng trong mùa tuyển sinh đại học, cốt để thu hút sinh viên về cho trường mình!

Trong xã hội Việt Nam vài chục năm nay, văn hóa-giáo dục xuống cấp thê thảm là điều trông thấy rõ đến mức không cần phải mất công tranh cãi chứng minh, để được thay thế bằng một loại tân văn hóa (văn hóa mới) của nước CHXHCNVN. Theo đó, trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động, người trung thực có nhiều ý kiến phản biện bị trù dập trong các cơ quan, trường học từ lâu đã trở thành một lẽ tự nhiên, tương tự trường hợp cô giáo trẻ tài năng Nhã Thuyên 5-6 năm về trước ở Đại học Quốc dân Hà Nội cũng bị đuổi việc vì đã làm được một bản luận văn thạc sĩ đầy sáng tạo về đề tài “thơ mở miệng”.  Nền tân văn hóa này được biểu thị qua thành ngữ “đấu tranh tránh đâu” hay câu ca dao bình dân “trung thực thực thà thì thiếu thốn/ lọc lừa lèo lá lại lên lương”…, mà ai cũng thuộc nằm lòng, thậm chí đã trở thành triết lý sống dân gian được coi là khôn ngoan đem ra áp dụng một cách phổ biến, lâu ngày trở thành một thứ văn hóa Việt mới tạm gọi là văn hóa vô sản, có sức áp đảo tràn lấn từ giới bình dân qua tới cả các thành phần có học vấn cao trong xã hội. Loại văn hóa mới này vốn có gốc nguồn sâu xa từ trong lịch sử lâu dài của người Việt, với những thói xấu đặc trưng cố hữu, tương tự nước láng giềng Trung Quốc, nhưng nó đặc biệt phát triển nổi bật kể từ dấu mốc lịch sử năm 1954 chiến thắng Điện Biên Phủ, thiết lập chế độ toàn trị ở miền Bắc XHCN với những bước đi tiêu biểu cụ thể như cải cách ruộng đất, tập thể hóa nông nghiệp, quốc hữu hóa công thương nghiệp… dưới sự hướng dẫn của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được giáo điều hóa trước khi du nhập và thông qua tư tưởng của Stalin ở Nga và của Mao Chủ tịch ở Trung Quốc, mà phương tiện phổ biến để biện minh cho nó là một nền văn học nghệ thuật minh họa giả dối,  bao gồm cả báo chí cách mạng, với bộ máy tuyên truyền đồ sộ đến nay vẫn tồn tại dưới hình thức sự chỉ đạo thống nhất của cái gọi là Ban tuyên giáo trung ương. Từ đây, lối sống giả dối hai mặt đã bắt đầu phát triển, đức tính trung thực thực thà trong con người Việt Nam truyền thống tuy chưa mất hẳn nhưng đã trở thành thiểu số, để qua giai đoạn chuyển hình lịch sử 1975, dẫn tới 1986 “đổi mới” chấp nhận một phần kinh tế thị trường, thì bao nhiêu những tính cách tệ hại và điều kiện tha hóa con người lại có thêm cơ hội được chắp cánh, xã hội coi lợi quyền là tiên là phật, diễn biến nhanh thành quốc nạn tham nhũng vô phương cứu chữa, tội ác và tệ nạn xã hội gia tăng, bất công xã hội/ hố ngăn cách giàu nghèo ngày một thêm sâu sắc, đạo đức truyền thống xuống cấp, môi trường thiên nhiên bị hủy hoại nghiêm trọng…, trên cái nền của một thứ chủ nghĩa xã hội (CNXH) dị dạng (socialisme perverti), mà cách diễn đạt lịch sự gọi là CNXH thân hữu, hay khác nữa thì gọi CNTB cuồng nhiệt, đẻ ra các nhóm lợi ích, được bảo bọc bởi một nền luật pháp mị dân chỉ có trên giấy, kể cả trên tất cả những bản hiến pháp cũ và mới, tính từ năm 1946 trở đi.

Xin lỗi, phải nhắc lại dài dòng một số điều cũ rích nghe muốn nhàm tai như trên thì mới ra được vấn đề.        

Khi vụ việc cô giáo vừa xảy ra, đã có vài vị nhân sĩ trí thức kịp thời lên tiếng phê phán nặng nề trường đại học Duy Tân với lời lẽ và cách nhìn vấn đề vô cùng xác đáng, chắc chắn sẽ đem lại cho cô giáo một chút niềm an ủi, tương tự như trường hợp cô giáo trẻ Nhã Thuyên trước đây cũng được không ít người  công tâm bênh vực để vặc lại một số đông quan chức hèn kém trong Bộ Giáo dục-Đào tạo và trong cái gọi là Hội đồng lý luận trung ương. Nhưng ở đây, tôi không muốn đi sâu vào câu chuyện cô giáo, anh sinh viên và cái tập thể BGH đáng đào đất đổ đi kia, vì anh em đã nói khá đủ rồi, mà muốn đề cập trách nhiệm/ vai trò của phần tử trí thức nói chung và đặc biệt của giới trí thức đại học nói riêng, đối với cuộc hưng suy của xã hội.

 Không kể các trí thức nhà văn nhà báo nhà khoa học, nếu đã thầy giáo đại học thì đương nhiên phải được xã hội coi là trí thức rồi, thậm chí còn là nơi tập trung của phần tử trí thức tinh hoa nữa là khác. Đó là nơi đại diện cao nhất nền học thuật của một quốc gia, cũng là cái nôi sản sinh ra những tư tưởng cải cách thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhưng xét kỹ suốt khoảng gần nửa thế kỷ nay trong giới trí thức đại học Việt Nam, họ đã nói, đã viết và đã làm được những gì đáng kể, để giúp cải thiện cho các tình trạng hiện hữu, nhất là về phương diện chính trị-tư tưởng… để không còn có những cô giáo như Nhã Thuyên, Trần Thị Thơ… bị đuổi việc vì những lý do như đã được biết? Cũng như các hội nghề nghiệp khác, chưa từng thấy Hội nhà giáo Việt Nam, giới giáo chức đại học có một lời tuyên bố hay kiến nghị tập thể gì liên quan những vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng; thậm chí nhiều lần Trung Quốc lấn hiếp Việt Nam ở Biển Đông trong khoảng chục năm gần đây cũng thấy họ im phăng phắc, thủ khẩu như bình… Trái lại, cãi nhau thậm chí đấm vào mặt nhau giữa các ông tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư trong hội đồng quản trị để tranh giành quyền lợi ngay trong văn phòng một số trường đại học dân lập là hiện tượng kỳ quặc khá phổ biến đã từng được báo chí đưa tin rộng rãi. Ở các đại học công lập thì có phần đỡ hơn, nhưng giáo chức nói chung cũng im như thóc trước các vấn đề lớn về cải cách chính trị-xã hội. Thảng hoặc, nếu có ai thẳng thắn phát biểu trung thực điều gì đó trong cuộc họp hay khi đứng lớp thì trước sau cũng được hiệu trưởng mời lên làm việc, vì BGH các trường vốn đã được tính toán cơ cấu sẵn, bầu lên là để đóng vai trò kiểm soát đề phòng sự tự chuyển biến, tự chuyển hóa… về mặt tư tưởng, hành vi của các nhân viên cấp dưới. Cứ như vậy, kéo dần lên trên thành một dây hệ thống cho tới ông bộ trưởng giáo dục và cả đến cấp lớn hơn ông ta nữa. Tuy nhiên, nếu chỉ trách riêng ông bộ trưởng thì xem ra cũng không được công bằng, vì trong thể chế chính trị, mọi ông bộ trưởng đều không có quyền tự ý quyết định như nhau. Các trường đại học cũng vậy, nếu không được tự trị và tự do học thuật trên thực tế thì cũng chẳng làm gì được ngoài việc truyền thụ đơn thuần kiến thức mà một số bộ môn đã bị làm méo mó đi vì chủ nghĩa giáo điều.

Đến đây, vấn đề đang xét đã tỏ ra dễ hiểu. Rằng tính cách hèn kém hiểu như tội đồng lõa bằng thái độ thờ ơ với các hiện tượng tiêu cực xã hội của giới trí thức đại học là một thực tế khó lòng phủ nhận, nhưng nói cho công bằng chính xác thì hẳn không phải do bản chất của giới trí thức đại học Việt Nam tự nhiên nó trở thành như vậy. Vẫn có không ít người trung thực khí khái, ưu tư thời cuộc, nhưng nếu biểu hiện công khai sẽ bị loại trừ dẫn tới bản thân, gia đình phải chịu đời khốn khổ. Bởi vì họ đã từng trông thấy tấm gương tày liếp của một số bậc tiền bối như các GS Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo… thời Nhân Văn Giai Phẩm (1955-1956), và của các cô giáo Nhã Thuyên, Trần Thị Thơ… thời hiện tại, mà ít có ai đang còn làm việc lại dám đứng ra công khai bênh vực đồng nghiệp của mình, do cũng sợ bị vạ lây mất việc theo.

Giả định, qua vụ cô giáo trường Duy Tân, nếu tập thể giáo chức đại học trên toàn quốc có thư kiến nghị can thiệp, hoặc thậm chí bãi khóa để phản đối cách ứng xử của đám BGH tồi tệ  kia, thì tình hình chắc chắn phải hoàn toàn chuyển khác. Nhưng giả định trước sau cũng chỉ là giả định, vì trong điều kiện chính trị-luật pháp như hiện tại, nếu có ai phát động làm kiến nghị tập thể chẳng hạn, chắc chắn sẽ bị quy chụp có thế lực thù địch nào đó đứng sau lưng xúi giục, nên chẳng ai còn dám ho he. Suy ra không chỉ giới giáo chức đại học rụt rè gà phải cáo, mà các giới nhà văn, nhà báo, nhà khoa học cũng tương tự vậy thôi, vì trong chế độ độc tài toàn trị không có tự do dân chủ cũng như không có một nền pháp luật minh bạch để con người và công lý được bảo vệ. Sở dĩ có tình trạng đáng bi quan như vậy vì giới trí thức trẻ Việt Nam ngày nay không chỉ đã bị tẩy não bằng những tư tưởng sai lạc từ khi ngồi học ở bậc tiểu học mà còn bị tiêm nhiễm thói xấu của các bậc cha mẹ dân trong một nền chính trị thối nát, đi cùng với một nền dân khí bệ rạc đã được cố ý tạo ra để dễ bề cai trị, khiến con dân ai ai cũng chỉ bo bo tranh đấu cho phần quyền lợi ích kỷ riêng của mình. Điều này có thể hiểu là nhà cầm quyền đã rất thành công trong chính sách ngu dân và hèn hạ hóa các phần tử trí thức trong nước, bằng cách thông qua kỹ thuật tuyên truyền và ràng buộc kinh tế, đã điều kiện hóa tư tưởng hành vi con người dựa theo nguyên lý phản ứng có điều kiện của nhà bác học Nga Pavlov (1849-1936/ giải Nobel năm 1904).  

Rốt cuộc chỉ có hạng trí thức nô dịch mới được trọng dụng cất nhắc lên cao, cho hưởng nhiều quyền lợi; trong số họ cũng có không ít người tài năng và thiện chí, nhưng tài năng và thiện chí đó đã bị tha hóa sang một hướng khác, không phải để phục vụ cho quyền lợi của nhân dân lao động, và ngay cả điều này đôi khi chính họ cũng không tự nhận ra do luôn bị bao vây bởi những vòng hào quang danh dự thông qua những danh hiệu mỹ miều, những tấm bằng khen, huân chương lao động này khác. Trong khi người ta được biết, trong giai đoạn những năm 45-60 của thế kỷ trước, giới trí thức tinh hoa không đi theo đường lối của chính quyền cách mạng phần lớn đều bị tiêu diệt hoặc bị vô hiệu hóa bằng nhiều thủ đoạn tinh vi khôn khéo.  Người trung kiên thiện chí vì thế ngại phát biểu thẳng thắn, nếu không xu phụ quyền lực cũng không dám treo ấn từ quan chỉ còn cách cố giữ cho tư cách mình được tương đối trong sạch, giả dại qua ải, không xu phụ quyền lực cũng không dám dũng cảm ăn ngay xổ thẳng, chỉ lo làm tròn bổn phận nghề nghiệp, hi vọng có chút đóng góp, chờ tới tuổi về hưu lãnh lương hưu để sống cho hết tuổi đời còn lại. Hạng trí thức này chiếm số khá đông, nhận ra được hết thảy các hiện trạng chính trị-xã hội nhưng tính tình cẩn trọng. Triết lý sống bình nhật của họ là nếu tiến được thì lo cho cả thiên hạ, không thì chỉ lo hoàn thiện bản thân mình (đạt tắc kiêm thiện thiên hạ, cùng tắc độc thiện kỳ thân), giữ cho được lòng tốt trong quan hệ xử kỷ tiếp vật. Họ thường thường hiền lành dễ thương, có thể gần được. Để được yên tâm, người trí thức trong sạch thường tự biện hộ, “ngụy tín” (tin giả) rằng trong bối cảnh lịch sử khó khăn, lực bất tòng tâm, không thể làm theo lý tưởng được thì phải khôn khéo biết ẩn nhẫn để có thể phục vụ cho đồng bào mình được lâu hơn nhiều hơn thay vì nói năng ngay thẳng để bị đuổi việc sớm (nếu là nhà báo thì bị rút thẻ nhà báo…), cho nên vì chiếm số đông, vô tình họ cũng trở thành một loại đồng lõa bất đắc dĩ cho chính sách đi ngược lòng dân của các nhà đương cuộc. Hạng trí thức thứ ba còn lại, từ lúc trẻ thường bị thu hút bởi những chủ thuyết hứa hẹn cứu đời, họ khó hòa hợp với số đông, về già thường trở nên thất vọng, buồn bã, trước hiện thực nghiệt ngã của chính trị vốn đầy tính thủ đoạn và giả trá.   

Thông thường, chỉ những người trí thức hưu trí về già rồi hoặc đã thoát được ra nước ngoài rồi mới dám cất lên tiếng nói trung thực phản biện chính sách bênh vực quyền lợi của nhân dân, bằng cách vạch ra những điều sai trái trong đường lối căn bản của chính quyền; một số khác, mãi đến khi sắp nhắm mắt xuôi tay mới dám trối lại vợ con, bạn bè, học trò… mình những điều cần nói, như có thể dẫn chứng khá nhiều vị trí thức khả kính tên tuổi, mà kẻ bài viết này cảm thấy bất tiện hoặc không cần phải kể tên ra vì ai quan tâm thời cuộc cũng có thể tự biết đến họ. Nhưng rất tiếc số này tính ra vẫn còn quá ít, không trở thành lực lượng đối trọng đáng kể. Giả định (lại giả định!) những người trí thức trẻ còn đầy nhiệt huyết chưa nghỉ hưu mà biết nêu gương đám già kể trên để đồng loạt có thái độ phản biện trước những hiện tượng bất công, chẳng hạn như việc bắt bớ cầm tù một số nhà hoạt động dân chủ đấu tranh trong hòa bình và hợp hiến, hay như các vụ án Đồng Tâm, vụ án Hồ Duy Hải… thì tình hình đã có thể chuyển khác, như thế sẽ góp phần xây dựng, vừa thúc đẩy tái lập sự công bằng xã hội vừa giúp cho các nhà đương cuộc điều chỉnh chính sách để họ trị dân được tốt hơn mà không bị mặc cảm tội lỗi mình là thế lực tà ác, mang lại niềm yên vui cho tất cả mọi gia đình người dân Việt, đồng thời tạo được sức mạnh đoàn kết nhất trí cao trong nước để đối phó hữu hiệu với bất kỳ ngoại bang nào đang đe dọa chủ quyền dân tộc… 

Đến đây, chắc có người sẽ có người bảo: Những điều phân tích nhận định như trên đây xưa quá rồi, chẳng có gì mới, lại còn chứng tỏ chỉ là nói suông, kiểu hoạt ngôn không thức thời vụ. Tôi nhất trí phần lớn với loại ý kiến này, tuy nhiên vẫn bảo lưu một niềm xác tín cho rằng lớp trẻ nhiệt huyết vẫn còn có nhiều chỗ đáng tin, không loại trừ trong số những “hạt giống đỏ” ưu tú là con cháu các ông lớn, có học vấn và tư tưởng tiến bộ hơn các lớp cha anh. Nếu phần lớn trí thức trẻ Việt Nam hiện nay ý thức đầy đủ sứ mệnh lịch sử của mình dám dắt tay nhau đi cùng một hướng đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp họ đã cưu mang, thì chắc chắn sẽ không có những chuyện xảy ra ở các trường đại học dân lập như  Duy Tân (Đà Nẵng), Đông Đô (Hà Nội, bán bằng giả), Tôn Đức Thắng (TP. HCM, hiệu trưởng bị ép từ chức)…, bởi vì một số kẻ cường quyền dù thủ đoạn cao sâu đến đâu cũng không thể tự ý tung hoành nếu không có xung quanh họ một lực lượng trí thức đồng lõa vô tình hoặc hữu ý. Vì thế tôi chia sẻ được ý này với nhân vật trí thức khả kính Lưu Hiểu Ba (1955-2017), một nhà đấu tranh cho hoạt động nhân quyền chống độc tài ở Trung Quốc được giải Nobel Hòa Bình rồi cuối cùng cũng lâm nạn, vì thể chế chính trị của Việt Nam và Trung Quốc là rập khuôn nhau kể từ những năm 50 của thế kỷ trước dưới sự lãnh đạo độc tài trái với thiên lý nhân tình của họ Mao gian độc: “Tôi tuyệt đối không tin rằng sự lạc hậu của Trung Quốc là do một số vị hôn quân nào đó gây nên, mà trước hết do tất cả mọi người, vì hệ thống do con người tạo ra. Mọi tấn bi kịch Trung Quốc đều do chính người Trung Quốc tự biên, tự diễn, tự dàn dựng và tự hân hoan thưởng thức. Vì vậy đừng đổ lỗi cho ai khác. Trí thức không nên đóng vai nạn nhân, một mình Mao Trạch Đông thì không thể làm nên cuộc Cách mạng Văn hóa…”.

Người ta nói, dân nào thì chính phủ đó, điều này có ứng hợp với ý kiến phát biểu trên đây của Lưu Hiểu Ba hay không?

                                                                                                                                 TVC

                                                                                                                              12.8.2021

 

 Tác giả gởi cho viet-studies  ngày 12-8-2021