Tư Tưởng Nô Bộc hay
là bệnh “Sùng Bái Cá Nhân” của người Việt
(Nhìn từ trường hợp
sự sùng bái ông Nguyễn Phú Trọng)
Quách Hạo Nhiên
1. Thể chế độc Đảng, chính quyền độc tài – mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng tư
tưởng nô bộc và “bệnh sùng bái cá nhân” của đám đông dân chúng
Trong cuộc sống, việc một cá nhân này thể hiện sự yêu mến, kính trọng
hay hâm mộ, thần tượng với cá nhân khác (có tài năng và phẩm hạnh) là
chuyện rất bình thường, chẳng có gì đáng bàn. Tuy nhiên, yêu mến, hâm mộ
đến mức “thần thánh hóa”, “huyền thoại hóa” thậm chí “đội lên đầu”, để
lên bàn thờ gia tiên hoặc “dựng tượng đài”, “xây bảo tàng” lưu niệm …
thì không những là sự bệnh hoạn mà đằng sau đó chắc chắn là một âm mưu,
một “động cơ không trong sáng”. Nói cách khác, khi ta bắt đầu có suy
nghĩ “thần thánh hóa”, “huyền thoại hóa” một cá nhân nào đó - vốn cũng
là người trần mắt thịt như ta - dù với lý do gì cũng đồng nghĩa với việc
đang tự lừa dối chính mình và lừa dối người khác. Ở giác độ văn hóa, đây
chính là nguyên nhân làm khởi phát cho cái bi kịch chung của xã hội – bi
kịch về sự “vô minh” hay “cuồng tín”, “mù quáng” của dân chúng (vì thiếu
bản lĩnh và không có niềm tin vào bản thân nên lúc nào cũng dựa dẫm vào
người khác). Một xã hội mà mỗi cá nhân không có niềm tin với bản thân là
một xã hội không có hy vọng, hoặc không, cũng là đang tiềm ẩn những mối
nguy hiểm (một khi xã hội bắt đầu xuất hiện những tiếng nói khác). Hay
nói khác đi, đó là xã hội đang chết dần chết mòn vì cái tâm lý nô bộc do
căn bệnh “sùng bái cá nhân” mà ra.
Lịch sử nhân loại cho thấy, bệnh “sùng bái cá nhân” diễn ra khắp mọi
nơi, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây… Tuy vậy, có lẽ trong thời “bốn
chấm không” hôm nay, bệnh “sùng bái cá nhân” thường rất khó trị ở các
quốc gia với thể chế chính trị nhất nguyên, nền cai trị độc tài và trước
đó thường có một nền chính trị quân chủ chuyên chế kéo dài…Vì hơn ai hết
để có thể duy trì sự độc tài, độc tôn của mình, chính quyền nhà nước ở
các quốc gia này buộc phải dùng mọi chiêu trò và thủ đoạn chính trị để
“phong thánh” cho các “lãnh tụ vĩ đại”, “lãnh tụ kính yêu” thông qua vô
số những câu chuyện mang màu sắc của sự kỳ bí, ảo diệu, hoang đường nhằm
đánh vào cái tâm thức “ngu trung”; sự tôn thờ “minh quân”, “minh chủ” vô
điều kiện của đại bộ phận đám đông dân chúng, từ đó buộc họ phải phủ
phục quỳ lạy và đời đời nhớ ơn…Trên thế giới hiện nay, không khó để nhận
ra một số cá nhân được dân chúng “phong thánh” và sùng bái vô điều kiện
như trường hợp: Fidel Castro – Cuba; Maduro - Venuezuela (trước đó là
Hugo Chavez), Tập Cận Bình – Trung Quốc (trước đó là Mao Trạch Đông,
Đặng Tiểu Bình…); Kim Jong Un – Bắc Hàn (trước đó là Kim Nhật Thành, Kim
Jong –il)…
2. Từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Phú Trọng
Lịch sử Việt Nam đến thời điểm này có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người được “phong thánh” một cách bài bản và thường xuyên nhất. Công
bằng và khách quan mà nói, xét trong những điều kiện và bối cảnh lịch sử
cụ thể, với tầm vóc trí tuệ nhất là những gì đã làm được, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn rất xứng đáng được tôn vinh, tôn kính hay “phong thánh” từ
dân chúng (dĩ nhiên là với điều kiện sự tôn kính này được diễn ra một
cách tự nhiên chứ không phải dùng quyền lực chính trị để áp đặt). Vì xét
ở giác độ văn hóa, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia muốn kế thừa và phát triển
vẫn rất cần có những cá nhân với những phẩm chất và tài năng xuất chúng
làm “điểm tựa” và tạo niềm tin để các cá nhân bình thường khác soi vào
mà phấn đấu, vươn lên. Và nếu mọi chuyện diễn ra một cách tự nhiên như
vậy, thì việc Chủ tịch Hồ Chí Minh được dân chúng hôm nay “phong thánh”
như cách mà cha ông trước đó đã từng phong cho các bậc tiền hiền như:
Nguyễn Trãi, Chu Văn An hay Đức Thánh Trần... thì kể ra cũng chẳng có gì
quá đáng. Thế nhưng đáng tiếc thay, những người cộng sản, những người
đồng chí đương thời với ông và nhất là những kẻ được xem là “học trò
xuất sắc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố tình không chịu hiểu điều này,
ngày qua ngày họ tùy tiện thêu dệt, bịa chuyện về ông để một mặt lừa
phỉnh dân chúng, mặt khác lại mang ông ra làm tấm bình phong để che đậy
những quyết sách sai lầm, những việc làm hại dân, hại nước của họ.
“Yêu nhau thì lại bằng mười hại
nhau”, hậu quả là ở chiều ngược lại, Hồ Chí Minh vô tình trở thành
đối tượng cho những người mang tư tưởng cực đoan công kích, bôi nhọ, dè
bĩu, khinh thường… Một con người từng đi vào thơ ca với những niềm tin
yêu trong sáng của dân chúng
“mong manh áo vải hồn muôn trượng, hơn tượng đồng phơi những lối mòn”
nhưng lại được/bị phong thánh và tùy tiện ghán ghép trong một bức tranh
bên cạnh Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni (bởi những kẻ xuẩn ngốc và xu nịnh) từ
đó, vô tình trở thành đề tài đàm tiếu cho “các thế lực thù địch” của
“Đảng ta” thì thử hỏi có tệ hại và xót xa không? Quan sát xã hội Việt Nam gần đây, có thể nói bệnh
“sùng bái cá nhân” của người Việt hôm nay có vẻ ngày một trầm trọng và
khó chữa trị hơn nữa. Và người đang được mọi tầng lớp xã hội hiện nay
“phong thánh” và sùng bái không ai khác ơn là ông Tổng Bí Thư kiêm Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Câu nói
“Người Đốt Lò Vĩ Đại” được
giới truyền thông - bồi bút phát tán ra dân chúng đã nói lên tất cả điều
này. Hay gần nhất là việc chính quyền cho xuất bản sách nhan đề
“Tổng bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng với tình
cảm của nhân dân và bạn bè quốc tế” với những lời lẽ bốc thơm của
ông Phạm Minh Chính - Ủy viên
Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức trung ương: “cuốn
sách là tư liệu quý của đảng viên, các tầng lớp nhân dân và tin tưởng
rằng nó sẽ hỗ trợ cho khối đại đoàn kết và tình cảm giữa dân với Đảng,
để “trên dưới một lòng đổi mới đất nước”
[1] đã cho thấy,
với cái đà này rất có khả năng ông Nguyễn Phú Trọng rồi đây cũng sẽ trở
thành “bậc vĩ nhân” hay
“lãnh tụ xuất chúng” của dân
tộc này; rồi đây ông sẽ được xây tượng đài, nhà mồ hay viện bảo tàng
trên khắp dãy đất hình chữ S này sau khi tạ thế? Điều đó cũng có nghĩa,
96 triệu dân Việt Nam trong tương lai ngoài việc phải tôn thờ vô điều
kiện “Bác Hồ - vị cha già dân tộc” thì Tổng Bí Thư, Chủ tịch Nguyễn Phú
Trọng cũng sẽ là một tấm gương sáng ngời đầy tiềm năng cần đưa vào sử
sách để các thế hệ cháu con học tập và noi theo…?
Thật lòng mà nói, kể từ khi ông Trọng trở thành người nắm quyền hành
tuyệt đối ở đất nước này (và ngay cả khi ông bắt đầu khởi động chiến
dịch “nhóm lò đốt củi” gần đây), nếu nhìn ở tầm vóc tư tưởng, trí tuệ
trong vai trò của một chính khách đang dẫn dắt cả dân tộc cùng đi, bản
thân tôi đã rất nhiều lần tự hỏi dân tộc này, đất nước này rồi sẽ đi về
đâu mỗi khi nghe ông phát ra những câu vừa buồn cười, sáo rỗng và nhất
là bất chấp hiện trạng nhiễu nhương, bộn bề của xã hội và đất nước hôm
nay:“đất nước có bao giờ được như
thế này không?”, “giáo dục nước nhà chưa bao giờ được như bây giờ?”; “cơ
đồ dân tộc chưa bao giờ được như hôm nay?”…
Còn nói về sự đức độ, liêm khiết của ông ấy ư? Rất có thể so với những
người khác, ông Trọng được đánh giá tốt hơn nhưng mà làm sao dân chúng
kiểm chứng được điều này trong một cơ chế vốn bị bưng bít, hoặc không
thì lại nửa kín nửa mở rất “tùy hứng lý qua cầu”!? Để có thể thăng tiến
và ở trên ngôi cao quyền lực như hiện nay đương nhiên ai cũng biết trước
đó ông buộc phải kinh qua rất nhiều vị trí, chức vụ ở cơ sở, địa phương
và trung ương. Vậy thì làm cách nào để dân chúng kiểm tra giám sát đồng
chí Nguyễn Phú Trọng khi còn giữ
các chức vụ như Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương, Bí thư Thành ủy Hà
Nội, Chủ tịch Quốc Hội…là trong sáng, liêm khiết hay không gây ra những
hậu quả gì nghiêm trọng? Không phải những “đồng chí” mà ông Trọng đã và
đang chuẩn bị “đưa vào lò” (hoặc bị cách hết các chức vụ trong Đảng)
như: Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Trần Việt Tân, Bùi Xuân Thành,
Nguyễn Văn Hiến, Phan Thị Mỹ Thanh, Nguyễn Xuân Anh, Vũ Huy Hoàng, Tất
Thành Cang, Vũ Văn Ninh, …tất cả đều trải qua những vòng tuyển chọn, quy
trình sàng lọc để quy hoạch, tuyển chọn rất bài bản và nghiêm ngặt của
chính cái thể chế này đó sao? Thế nên, tôi phải nhắc lại rằng, việc ông
Trọng quyết tâm chống tham nhũng để làm trong sạch bộ máy là điều cần
ghi nhận và trân trọng, tuy nhiên, không nên vì chuyện này mà cố tình
quên hoặc đánh đồng với việc, lẽ ra, trong vai trò là người nắm quyền
lực tuyệt đối ông Trọng phải là người chịu trách nhiệm cao nhất khi để
cho những thuộc cấp của mình vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệ Đảng
(đặc biệt tất cả những kẻ vi phạm đều là những Đảng viên, lãnh đạo cấp
cao “thuộc diện Trung ương quản lý”).
Trong cái nhìn như vậy, một khi đã xác định “tham nhũng là quốc nạn”, là
“giặc nội xâm” đang tàn phá đất nước này thì theo tôi đến thời điểm này
ông Trọng vẫn đang nợ toàn thể quốc dân đồng bào một lời xin lỗi chân
thành và nghiêm túc. Trước đây, khi để xảy ra những sai lầm trong vấn đề
“cải cách ruộng đất”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ấy đã phải đứng ra xin
lỗi đồng bào miền Bắc (trước Quốc hội 1956), vậy mà giờ đây, việc chống
tham nhũng của ông Trọng trên thực tế chẳng qua chỉ là chuyện “xử lý nội
bộ trong Đảng” (cả nghĩa đen và nghĩa bóng của cụm từ này vì như ông
Trọng từng nói chống tham nhũng là “ta tự đánh ta”) nhưng ông vẫn chưa
một lần nào lên tiếng nhận lỗi trước người dân. Người ta nói rằng, chỉ
riêng vụ án ở Thủ Thiêm thôi đã có không biết bao nhiêu người dân phải
chịu cảnh tan nhà nát cửa, vợ chồng con cái ly tán, có người còn lê la
chẳng khác gì ăn mày từ Sài Gòn ra Hà Nội để gõ cửa các cơ quan công
quyền suốt 20 năm ròng. Thử hỏi trong 20 năm ấy, ông Trọng làm gì ở Hà
Nội? Ông có nghe dư luận oán than về gia tộc Lê Thanh Hải ở Sài Gòn
không? Ông có thấy những người dân oan đi khiếu kiện phải ăn bờ ngủ bụi
không? Và hiện nay Thanh tra Chính phủ lại là nơi cửa quyền và tham
nhũng người dân thêm một lần nữa, ông có biết không? Nếu các vị Thanh
tra Chính phủ liêm khiết và chí công vô tư thì vụ Thủ Thiêm có kéo dài
đến 20 năm như hôm nay không? Đừng ai nói với tôi là ông ấy bận trăm
công nghìn việc nên không nghe, không thấy, không biết những chuyện này.
Từ đây, tôi cho rằng, dân chúng hôm nay đặc biệt là một số người được
xem là tầng lớp trí thức, tinh hoa trong xã hội đang có những động thái
tuyên truyền và thêu dệt để tung hô và “phong thánh” cho ông Trọng trong
việc chống tham nhũng hiện nay thì đất nước này quả là đang đến hồi mạt
vận rồi chăng? Thể chế này đã và đang đẻ ra một bầy sâu ăn tàn phá hại
đất nước, ông Trọng một mặt cho người đi bắt sâu (theo kiểu nay bắt một
con, mốt bắt một con…và không biết đến khi ông tạ thế đã bắt hết chưa)
nhưng mặt khác lại đồng ý đặt bút ký
“phê duyệt quy hoạch 184 nhân sự
Trung ương khóa mới” để tiếp tục điều hành và duy trì cái thể chế
này thì có khác gì đang tạo điều kiện cho những bầy sâu mới sinh sôi?
Đến đây, tôi thấy cần phải nhắc lại điều mà nhiều người đã nói, đất nước
này, dân tộc này đã được hòa bình và thống nhất về mặt cương vực lãnh
thổ hơn 40 năm rồi nhưng tại sao về mặt tư duy, tư tưởng cứ phải lệ
thuộc và nhất là luôn phải bái vọng về phương Bắc? Cái “cơ đồ của dân
tộc” hôm nay mà cha ông phải đổ máu xương để giành lại cho con cháu (như
chính các vị thường xuyên nói) có lẽ nào lại là một đất nước Việt Nam
mãi “không chịu phát triển” hay sao? Tôi hỏi thật ông Trọng và những trí
thức đang tung hô và bốc thơm ông lên tận mây xanh có thấy đau lòng
trước hiện tình đất nước và con người Việt Nam hôm nay không? Tôi rất
mong và hy vọng các vị hãy chân thành và trung thực đối diện với lương
tâm mình một lần thôi trước khi trả lời câu hỏi trên để cái lưỡi không
xương của các vị sau này không bị hóa thạch, còn có cơ may được tan vào
đất. Còn hiện tại, với riêng tôi, tuy ông Trọng đang tổ chức bắt một vài
con sâu nhưng cũng chính ông đã và đang nuôi dưỡng rất nhiều ấu trùng
sâu mới bằng cái thể chế lỗi thời và nhất là rập khuôn từ tập đoàn chính
trị phương Bắc do Tập Cận Bình đứng đầu. Điều này cũng có nghĩa, cái
công bắt vài con sâu của ông không thể nào bù đắp cho cái tội rất lớn
của ông với dân tộc này khi vẫn duy trì cái thể chế hiện thời. Không
khéo cái lò đốt củi do chính ông xây rồi đây cũng sẽ là nới thiêu đốt
chính bản thân ông mà thôi! Vậy nên, ông Trọng và những kẻ sùng bái, xu
nịnh ông xin có “Đừng lớn lối khi
dân lành ốm đói/Vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn”! [2].
3. Thay lời kết
Trước năm
1945, Nam Cao thuộc số những nhà văn viết theo trường phái “tả chân” –
nghĩa là “hiện thực phê phán”. Sau 1945, lịch sử Đảng xem ông như một
nhà văn “sớm giác ngộ lý tưởng và đi theo Cách mạng”. Và truyện ngắn nổi
tiếng nhan đề “Đôi mắt” chính
là tác phẩm được nhiều nhà phê bình văn học của Đảng lấy ra làm minh
chứng cho sự “sớm giác ngộ” này của Nam Cao. Sở dĩ phải nhắc lại vấn đề
này là vì tôi muốn đề cập đến một chi tiết rất đắc giá trong tác phẩm
này nhưng tiếc thay các nhà soạn sách giáo khoa của Đảng ta trong phần
yêu cầu giảng dạy cho học sinh phổ thông hoặc là không hiểu hoặc là hiểu
nhưng cố tình lờ đi, không dám nhắc tới. Ấy là chi tiết Nam Cao để cho
hai nhân vật Hoàng và Độ bàn về cuộc chiến tranh và những người nông dân
ít học đi làm cách mạng dưới sự dẫn dắt của Đảng và tài thao lược của
“ông Cụ” – Hồ Chí Minh lúc bấy giờ. Mẩu đối thoại của nhân vật Hoàng và
Độ dưới đây sẽ cho chúng ta thấy tư tưởng rất “độc” này của Nam Cao
trong truyện ngắn“Đôi mắt”:
“Tôi
cười nhạt:
-
Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến
hỏng à?
Anh
chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột:
-
“Ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có
lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ. Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng
như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh
đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu
một nước như nước mình kể cũng khổ cho ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng
cho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp, mà
chỉ có đến thằng Ðờ-Gôn.
Tôi
nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến khác của Pháp, còn đáng tiêu biểu
bằng mấy Ðờ-Gôn. Anh lắc đầu:
-
Bằng thế nào được Hồ Chí Minh!
Và
anh tiếp:
-
Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có
tồi đi nữa, ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú
như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mỹ cũng phải
lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp ông già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa
là gì? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mỹ xúi thì làm gì Pháp dám trở mặt
phản Hiệp định mồng 6 tháng 3? Mình cho nó như vậy đã là phúc đời nhà nó
lắm rồi. Ðáng lẽ nó phải bám chằng chằng lấy chứ?”
Với chi tiết trên, có thể nói, Nam Cao chính là nhà văn đầu tiên đã bàn
và phê phán trực diện căn bệnh “sùng bái cá nhân”, “sùng bái lãnh tụ”
của người Việt thời hiện đại đặc biệt là thành phần
trí thức cách mạng thời kỳ
đầu ở miền Bắc. Từ thực tế lịch sử này nhìn lại thực tại xã hội hôm nay,
có dịp theo dõi các bài viết của một vài nhân sĩ trí thức Việt Nam, đặc
biệt là những facebooker có “số má” trên mạng xã hội khi họ bàn về việc
chống tham nhũng của ông Trọng thời gian qua tôi thấy xấu hổ thay cho
cái cái tư duy, cái tâm lý nô bộc hay là “bệnh sùng bái cá nhân”, “sùng
bái lãnh tụ” vừa hồn nhiên vừa có chủ đích của họ.
Người dân bình thường, ít học nếu có mê muội, cuồng tín và thần tượng cá
nhân nào đó nghĩ lại vấn còn cảm thông được. Nhưng mang danh là trí
thức, là nhà văn, nhà báo mà ăn nói kiểu nước đôi, ba phải lúc thì ra vẻ
thương xót, bênh vực người dân Thủ Thiêm lúc thì bợ đỡ, tung hô ông
Trọng lên tận mây xanh và nhất là cố tình lờ đi chuyện ông Trọng thực ra
cũng là một mắc xích tối quan trọng đã gián tiếp gây ra những oan khuất
kia của người dân thì quả là những tay điếm bút thuộc hàng cao cấp,
thượng thừa!
Đến
đây thì tôi lại càng thấm thía cho nhận định rất ghê gớm của Nam Cao qua
câu nói của văn sĩ Hoàng ở trên:
“Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng
tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho ông Cụ lắm”.
Than ôi, dân tộc này nếu có bị ông Trọng và cái thể chế chính trị do
chính ông ấy tạo ra bắt làm con tin thêm vài trăm năm nữa hoặc đến khi
nào tìm được đường đi tới thiên đường XHCN âu cũng rất hợp lẽ và rất
đáng đời!
CT, 12/7/2019
QHN
--------
Chú thích nguồn;
[1]: Xem tại:
https://tuoitre.vn/ra-mat-sach-ve-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nguyen-phu-trong-20190620181934048.htm
[2]: “Nhìn từ xa…Tổ quốc” –
thơ Nguyễn Duy.
|