Sự suy tàn của Phật giáo Việt Nam
Không có gì chứng minh rõ hơn sự suy thoái của Phật giáo Việt Nam bằng
những ầm ỷ, lộn xộn xung quanh nhà sư Thích Trúc Thái Minh (có tin đồn
ông là sĩ quan công an), trụ trì chùa Ba Vàng tại Quảng Ninh: việc ông
tổ chức “cúng dường hoành tráng” theo nghi thức Phật giáo nguyên thủy,
việc ông bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật trước đó, việc ông được
(bị) điều về Quảng Bình, việc lời qua tiếng lại giữa nhà sư Thái Minh và
một nhà sư khác là Thích Nhật Từ, việc các cơ quan công quyền Quảng
Bình, Quảng Ninh,… dính líu tới phật sự,...
Những tin tức mới nhất này dù ồn ào nhưng không làm ngạc nhiên những ai
có quan tâm tới Phật giáo Việt Nam trong mấy chục năm qua.
Phật giáo Việt Nam đang trên con đường tự sát. Một sự tự sát ngọt ngào
trong những ngôi chùa hoành tráng như Ba Vàng, Bái Đính,… giữa những
tượng Phật vĩ đại dựng lên khắp mọi miền đất nước, giữa hàng tỷ đồng
cúng dường từ dân chúng.
Thủ phạm trực tiếp của sự tự sát này, dĩ nhiên là từ sự can thiệp thô
bạo của bộ máy toàn trị trên cả nước từ mấy chục năm nay, nhưng theo
quan điểm của tôi, sự suy vong của Phật giáo Việt Nam, cũng như sự suy
sụp của văn hóa Việt Nam, có nguyên nhân nội tại, lịch sử, chứ không
hoàn toàn là do chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản chỉ đóng vai trò là
chất kích thích cho sự tàn tạ ấy. Sự tồn tại của chủ nghĩa cộng sản tại
Việt Nam, với sự phá phách văn hóa của nó, phải được đặt câu hỏi là tại
sao nó lại tồn tại và có thể phá phách như thế? Phải chăng là do dân tộc
này có những điều kiện để “cúng dường” nó!
Lịch sử vinh quang và bi thương
Phật giáo đã từng hưng thịnh ở Việt Nam gần 400 năm với hai triều đại
Lý, Trần vùng châu thổ sông Hồng, và triều đại Indrapura vùng Quảng Nam.
Những điều tốt đẹp của văn hóa Việt Nam hiện nay, có thể nói không ngoa,
chính là những gì bắt nguồn từ những thời đại ấy, sống còn qua năm
tháng. Các thiền sư người Việt, các nhà sư người Chàm, góp phần không
nhỏ trong việc giữ nền độc lập quốc gia trước sự bành trướng của đế quốc
Mông Cổ thế kỷ 13.
Văn hóa Lý Trần bị nhà Minh Trung Quốc tàn phá. Văn hóa Indrapura bị
chính Đại Việt đời Lê tàn phá.
Câu hỏi đặt ra là tại sao Phật giáo Việt Nam không hồi phục được sau khi
Lê Lợi khôi phục quyền tự chủ?
Rất khó để tìm nguyên nhân của một biến cố lịch sử văn hóa như thế mấy
trăm năm trước.
Tôi xin đề ra hai nguyên nhân, thứ nhất là sức mạnh tàn bạo của Khổng
giáo Trung Hoa, mà đại diện của nó là nhà Minh với cuộc xâm lăng, và sự
hủy diệt văn hóa Phật giáo Đại Việt. Thứ hai là sự huy hoàng thời Lý
Trần của Phật giáo Đại Việt đã làm hại chính nó, một khi quyền lực của
giới tăng lữ Phật giáo tăng lên quá lớn. Đây là điều đáng tiếc, vì Phật
giáo vốn không phải là một tôn giáo có cấu trúc tôn ti trật tự như những
tôn giáo lớn khác trên thế giới, nhưng một khi đã hình thành một tầng
lớp giáo phẩm, thì tai ương tiềm tàng cũng hình thành một cách song
song.
Sự tàn tạ của phái Mật tông tại Tây Tạng cũng có nguyên nhân tương tự.
Quyền uy tột bực của các nhà sư Miến Điện đã làm cho họ đạp đổ tất cả
những gì là từ bi hỷ xả của Phật giáo, nhúng tay vào cuộc diệt chủng
đồng loại người Rohyngia.
Triều đại Hậu Lê của Đại Việt không còn coi trọng Phật giáo nữa. Nhưng
Phật giáo vẫn sống còn, lay lắt trong hàng thế kỷ. Hàng thế kỷ ấy để lại
cho chúng ta không ít di tích văn hóa Phật giáo sống động như chùa Tây
Phương, nhưng cũng để lại những bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương:
Nào nón tu lờ nào mũ thâm
Đi đâu chẳng đội để ong châm
Đầu sư há phải gì… bà cốt
Bá ngọ con ong bé cái lầm
hay là
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Làm chi một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Có lẽ không có điều gì làm cho những hành giả theo chân đức Thích Ca đau
đớn hơn những bài thơ này.
Đến đời Nguyễn, Phật giáo được phục hồi, nhưng lợi bất cập hại. Những
nhà sư lại được các ông vua khổng giáo của triều đại này dời vào cung
cấm. Lại là quyền lực, lại là sủng ái.
Diện mạo tinh thần của Phật giáo Việt Nam hiện nay có lẽ là mang hình
bóng rất rõ của triều đại nhà Nguyễn, mà nổi bật nhất là môn phái Tịnh
Độ (Pure Land) phát triển lấn át hẳn các phái khác. Thiền tông vốn rất
mạnh mẽ thời Lý Trần, nay hầu như vắng bóng. Có thể sự phát triển của
Tịnh Độ, với nhiều thủ tục cúng kiến, chuông mõ, tụng niệm,… là phù hợp
với trật tự khổng giáo, đồng thời bỏ qua phần lý tính vốn có của triết
học Phật giáo, mà đi vào niềm tin, điều mà nhà cầm quyền cần, và công
chúng bình dân cũng cần.
Cố gắng chấn hưng dang dở
Giai đoạn thuộc địa Pháp, một cách trớ trêu lại làm tỉnh thức Phật giáo
Việt Nam, mà điển hình là phong trào chấn hưng Phật giáo do bác sĩ Lê
Đình Thám, một người tây học, dấy lên ở miền Trung. Tinh thần lý tính
phương Tây đánh thức các phật tử Việt Nam, rằng họ vẫn còn sở hữu một di
sản văn hóa, tinh thần, tâm linh, và triết học rất sâu sắc.
Có thể nói rằng nếu không có bác sĩ Lê Đình Thám và phong trào của ông,
thì Việt Nam khó mà có được các gương mặt Phật giáo lớn đương đại, như
Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Tuệ
Sỹ, Thích Minh Châu, Thích Thiện Châu,… trong đó thiền sư Thích Nhất
Hạnh là một trong những nhà sư Phật giáo lớn của thế giới.
Sức sống mãnh liệt được hồi phục của Phật giáo Việt Nam được thấy rõ
nhất trong phong trào Phật giáo tại miền Nam Việt Nam trong chiến tranh
Việt Nam.
Sự hồi phục của Phật giáo Việt Nam chấm dứt với chiến thắng của những
người cộng sản vào ngày 30/4/1975.
Thiền sư Trí Quang bị giam lõng, các vị Huyền Quang, Quảng Độ bị vào tù
ra khám, nặng nề nhất là thiền sư Tuệ Sỹ suýt bị chế độ cộng sản xử tử
hình.
Phật giáo và cộng sản
Bối cảnh lịch sử Việt Nam từ khi có đảng cộng sản xuất hiện tới nay,
trong sự tuyên truyền để giành phần tình cảm dân tộc về phía họ, làm cho
người ta dễ nhầm tưởng là cộng sản là cùng một “giuộc” với Phật giáo, và
chống Công giáo. Sự thực thì chủ nghĩa cộng sản với hệ thống triết học
của nó, xa Phật giáo hơn Công giáo, vì vốn nó ra đời trong truyền thống
Ki Tô Do Thái của phương Tây.
Nhưng đó là một vấn đề khác, không bàn ở đây.
Với quan điểm tự nhận mình là vô thần, và mô hình toàn trị, những người
cộng sản không bao giờ muốn những loại triết học, tư tưởng, tâm linh,…
ngoài cộng sản, cùng tồn tại với mình. Nỗ lực của họ đối với Công giáo
không thành công bao nhiêu vì tôn giáo này có cấu trúc chặt chẽ và được
một thế giới phương Tây đứng đằng sau. Những người cộng sản Việt Nam,
vào thời điểm hoang ca nhất của họ, cũng không xâm nhập được vào nhà thờ
Công giáo.
Ngược lại, đối với Phật giáo, lợi dụng cấu trúc lõng lẻo của các tổ chức
Phật giáo, cũng như sự thu phục tình cảm dân tộc trong hai cuộc chiến
tranh, chiến tranh chống Pháp và chiến tranh chống Mỹ, đảng cộng sản dễ
dàng thao túng Phật giáo Việt Nam. Hơn nữa như đã đề cập ở phần trên,
sau một thời gian suy tàn, chỉ còn hình thức giáo phái Tịnh Độ là đa số,
với nhiều hình thức lễ bái, cầu khấn, giải hạn, cầu siêu,...Phật giáo
Việt Nam dễ dàng bị lợi dụng như là một công cụ “thuốc phiện của nhân
dân” (câu của Karl Marx, lập lại quan điểm của Hegel khi bàn về tôn
giáo).
Sau kinh nghiệm cứng rắn đốt chùa, đập tượng, đả thực bài phong, trên
miền bắc xã hội chủ nghĩa sau năm 1954, cũng như đàn áp mạnh mẽ chùa
chiền tại miền Nam sau năm 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam, phát hiện rằng
họ có sẵn trong tay món thuốc phiện rất hữu hiệu. Họ bắt đầu dung túng
tầng lớp sư sãi nhũng lạm, đưa cho họ quyền lực. Đôi bên cùng có lợi.
Kết quả bây giờ chính là chùa Ba Vàng, chùa Bái Đính, Thích Nhật Từ,
Thích Chân Quang (có lời đồn ông này là họ hàng xa xôi với cố chủ tịch
Hồ Chí Minh ?!), và dĩ nhiên Thích Trúc Thái Minh.
Trong kết quả kiểm tra dân số gần đây nhất, số người Việt Nam tự nhận
mình là tín đồ Ki Tô (Công giáo, Tin Lành), đã vượt qua số người tự nhận
mình là phật tử. Dĩ nhiên ta nên nhìn con số này một cách tương đối, vì
số người Việt không đi chùa, nhưng chịu ảnh hưởng các ý thức Phật giáo
khá đông, những người này có thể không nhận mình là phật tử. Bên cạnh đó
việc kê khai nhân khẩu, làm chứng minh nhân dân, khai lý lịch,… trong
một thời gian dài làm cho người ta sợ hãi khi khai mục tôn giáo, nhiều
phật tử cứ đánh vào ô: dân tộc kinh, tôn giáo không cho nó an
toàn. Dù sao đó cũng là một thắng lợi của những người cộng sản đối với
Phật giáo.
Nhưng hữu hiệu nhất vẫn là dùng chính Phật giáo để diệt Phật giáo, với
sự nhũng lạm của khá đông sư sãi nhà nước. Một hệ thống toàn trị Phật
giáo, phó sản của hệ thống toàn trị cộng sản được hình thành, và đang
nắm tinh thần cũng như túi tiền của hàng chục triệu người Việt Nam.
Phật giáo hải ngoại
Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại cũng không lấy gì làm sáng sủa.
Trên mảnh đất tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, nhiều nhà sư Việt Nam
tại Mỹ ủng hộ nhiệt tình cựu tổng thống Mỹ Donald Trump, kẻ phản dân chủ
bậc nhất trong lịch sử nước Mỹ. Có những nhà sư cũng rất tích cực chia
sẻ thuyết âm mưu Qnon rất quái dị, tin vịt thượng vàng hạ cám của tờ Đại
Kỷ Nguyên, của nhóm Pháp Luân Công, một phó sản của sự tàn tạ của Phật
giáo Trung Hoa.
Chùa to Phật lớn, cúng kiến linh đình, không phải là độc quyền của các
chùa trong nước. Lớp công chúng phật tử Việt Nam tại hải ngoại hiện nay
cũng như đồng bào họ trong nước, rất ưa chuộng lễ bái cúng kiến theo
pháp môn Tịnh Độ. Việc này làm cho lớp người Việt trẻ tuổi sinh ra và
lớn lên ở Mỹ, với tinh thần duy lý và cấp tiến, cảm thấy xa lạ. Nếu tình
trạng này vẫn tiếp tục, thì hàng hà sa số chùa chiền Việt Nam tại Mỹ
hiện nay rơi vào tình trạng phá sản, là một tương lai không xa.
Không cần kể ra đây hàng chục vụ tranh giành nhà cửa, tài sản, có liên
quan đến những ngôi chùa Việt Nam tại Mỹ, đến các nhà sư, đến mức phải
ra tòa.
Tình trạng toàn trị Phật giáo trong nước cộng với thể chế tự do tôn giáo
tại Mỹ còn dẫn đến một việc dở khóc dở cười nữa là có hàng trăm, hàng
ngàn tu sĩ Phật giáo Việt Nam xuất cảnh sang Mỹ theo diện … tôn giáo.
Theo những nguồn tin đáng tin cậy thì không bao nhiêu tu sĩ trong số này
thực sự là tu hành, mà họ chỉ lợi dụng chiếc áo nâu sòng… để đi Mỹ. Sang
Mỹ rồi thì nhẹ nhàng là rủ tín đồ lập chùa riêng, hay thậm chí là
trái gió nên phải lộn lèo như nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương mỉa mai hơn
200 năm trước.
Một nhà sư Việt Nam sống tại Mỹ có tâm sự với tôi rằng ông hồ nghi có
một âm mưu tàn phá Phật giáo Việt Nam từ hàng chục năm qua.
Tôi nghĩ rằng ông lo lắng thái quá. Dĩ nhiên kế hoạch kềm chế Phật giáo
của những người cộng sản thì đã rõ, mà họ cũng đâu có giấu diếm điều đó
qua những tuyên bố mang tính vô thần, duy vật biện chứng (sic)
của họ! Chẳng phải thế giới theo quan điểm Phật giáo là vô thủy vô
chung, theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt hay sao?
Tôi vẫn lạc quan về sự tái sinh, bắt đầu chu kỳ mới của Phật giáo Việt
Nam. |