AI VỀ NƠI  ẤY CHO TÔI BIẾT….

Nguyễn Thị Ngọc Hải

 

Có khi nào dọn đến ngôi nhà, ta tự hỏi: Ai đã sống nơi này trước khi ta đến?

Có đấy. Khi tôi một mình ôm đứa con 6 tuổi vào thành “người Sài Gòn” chưa có nhà cửa, ở nhờ nhà chị gái- đúng ngôi nhà tại Quận 5 của một vị tướng nổi tiếng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trước  đây.

Nhà của Tướng lớn nên có cả trụ xây cao cho máy bay trực thăng có thể đậu xuống, và quá lớn nên đã chia cho mấy chủ mới ở hết. Giống như một khu nhà tập thể.

Đứa con 6 tuổi  của tôi ấy  nay đã thành một họa sỹ đang làm việc tại Mỹ và thật tình cờ, anh đã liên hệ được với người con của vị Tướng đã rời Sài Gòn năm 1975. Họ trò chuyện với nhau về ngôi nhà họ đã từng sống qua các thời khác nhau, từ cái sân và mảnh vườn nhỏ sau hiên nhà có bức tường đá dựng đứng- nay thành cửa hàng sầm uất. Mỗi khi về nước, anh họa sỹ không quên ghé xuống Quận 5 chụp hình để sang Mỹ có thông tin mới kể cho người con vị Tướng. (Tiếc rằng chưa xin phép bà nhà văn ấy – chứ nếu nói tên vị tướng ra thì cả nước đều biết dấu ấn lịch sử chiến tranh  và câu chuyện sẽ thú vị nhường nào.)

Cho dù Thành phố sẽ hiện đại và mở rộng đến đâu, con người có rời đi dịch chuyển, thì ngôi nhà và đường phố vẫn đẫm hồn của năm tháng ta đã mang.

Bây giờ có Google Map- tôi ngồi ở Sài Gòn có thể xem định vị được ngôi nhà  của người thân sống  xa quê khắp các quốc gia. Người ta làm cả YouTube cho người đi xa có thể biết quê mình nay ra sao. Trong những ngày phong tỏa cứng vì dịch Covid, tôi không chỉ xem cách nấu nướng món ăn của Trường Giang “muốn ăn thì lăn vào bếp” hay cô Lý tử Thất có khu vườn như rừng tự trồng rau củ, chế biến món ăn. Cả nhà tranh nhau nhận vai “việc nhẹ lương cao” xuất hiện cuối chỉ việc …ăn. Ngồi bên hiên nhà giữa đồi gió mát, có con chó xù to tướng nằm dưới bàn.

Tôi cũng thử gõ “Phố Cát dài hôm nay” xem sao và ngạc nhiên nhớ ra mình vụng về nhát cáy mà thời thanh xuân từng có giải bắn súng cùng đội tự vệ công nhân nhà máy đóng tàu Bạch Đằng Hải Phòng.

Ngày ấy vào năm 1966  khi  đeo súng đi đến gần lối rẽ lên cầu Hạ Lý, trong tiếng còi báo động và tiếng máy bay Mỹ ùng ục bay qua trên bầu trời, tất cả phố bỗng nghe tiếng Bác Hồ vang trên loa phát thanh : “…Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp bị tàn phá, song nhân nhân Việt Nam quyết không sợ! Không co gì quý hơn Độc lập Tự do….”

Trong gian truân đằng đẵng ấy- lòng người lo âu sống đời gian khổ bom đạn, vẫn phải cố gắng hơn nữa vì lời thề dân tộc. Mỹ đã mở rộng chiến tranh không quân hải quân đánh phá miền Bắc, tuyên bố đưa miền Bắc “trở về thời kỳ đồ đá”. Sau này qua tổng kết mới biết ngày ấy Mỹ đã bỏ 15 triệu tấn bom, miền Bắc bình quân đầu người chịu 45,5 kg  và một Km vuông chịu 6 tấn bom đạn.

Tôi cũng không thể biết sau này mình còn có dịp khi đã trở thành nhà báo, được đi ra sân bay “tiễn chân “ các tù binh phi công Mỹ được trao trả về nước. Mỗi anh  mặc bộ đồ màu ghi xám, tay một chiếc túi du lịch và lạ nữa là thêm…một cái nón lá Việt Nam. Nhìn các anh ấy cao to thật lạ, khác hẳn anh mà ta thấy lúc nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch  bơi lóp ngóp bị dân quân vây bắt, hay có lần chính tôi sấp ngửa nhảy khỏi tàu điện để chạy theo đám đông reo hò xem “tù binh phi công Mỹ “. Họ  được dẫn giải đi phố Bờ Hồ trong tiếng mắng mỏ căm giận của dân chúng và các anh bộ đội đang cố ngăn những người quá căm thù muốn nhảy vào bạt tai. Nhà của họ vừa sập vì bom Mỹ, bà con anh em họ vừa bị vùi chết dưới bom.

Đó là lúc tàu điện vừa đỗ ở gần tháp Hòa Phong nơi chúng tôi vẫn chờ để “nhảy tàu” đi đường Bưởi- Chợ Hôm. Nay thì không còn tàu điện nữa trên phố xá Thủ Đô.

Cũng ở cái bến tàu này vào năm 1969- đoàn tàu đang chạy bỗng dừng lại làm mọi người nhìn nhau tưởng… mất điện nhưng rồi  chợt hiểu: Trên loa đang vang tiếng đồng chí Lê Duẩn: ”Nhân dân ta, Tổ quốc ta mất đi người con…..”-thì vội đứng nghiêm trang vì biết đang truyền thanh tường thuật điếu văn đưa tang bác Hồ ở Quảng trường Ba Đình.

Có lần tôi từ Sái Gòn ra viết bài nhân kỷ niệm ngàn năm Thăng Long, lùng sục phỏng vấn các kiến trúc sư về hình hài Hà Nội mở rộng, gặp các nghệ sỹ đang khôi phục chương trình nghệ thuật, biểu diễn hát xẩm ở phố Cổ và chợ Đồng Xuân. Hà Nội với tôi vẫn lạ lẫm vì phố xá phát triển, mở rộng các tuyến đường lớn.

Tôi không có thời gian tìm lại ngôi biệt thự Pháp cổ nơi mẹ tôi thuê cho gia đình ở, và ngày 10-10-1954 khi tôi lên 10 –sáng đó dậy sớm , mặc đồ đẹp để đi ra “5 cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về….như đài hoa đón mừng nở 5 cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh ..”

Nhất là trong đoàn  “trùng trùng quân đi như sóng” ấy có bố tôi-anh bộ đội Cụ Hồ ra đi lâu lắm từ CM tháng Tám nên chúng tôi không còn nhớ mặt, nay sắp đoàn tụ gặp lại vợ con.

Những biệt thự Pháp cổ vẫn cổ xưa bên cạnh bao công trình mới nguy nga. Đã có lần tôi vào ngôi biệt thự to đẹp ở 34 Hoàng Diệu để phỏng vấn cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ đã ngoài 90 tuổi-vợ nhà tư sản Trịnh Văn Bô -người đã tặng hiến cho nhà nước Cách Mạng non trẻ 5000 cây vàng. Gia đình họ cũng đón đoàn lãnh đạo và Bác Hồ về chuẩn bị Lễ 2-9-1945 và Bác Hồ đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập trong ngôi nhà của họ ở 48 Hàng Ngang.

Khuôn viên biệt thự 3000 mét vuông ngay phố yên tĩnh với hàng cây cổ thụ - vào loại “Phố tây nhà giàu đẹp nhất Hanoi” cho dù bây giờ chả thiếu kiến trúc tân kỳ - đẹp đến nỗi vào dịp lễ tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một số báo nước ngoài vào đưa tin đã kết hợp viết luôn về ngôi nhà “bà Bô” ở bên cạnh nhà Đại tướng.

 Dạo ấy vừa bước vào cổng nhà bà Bô là tôi nhớ ngay hồi chiến tranh chống Mỹ- lúc tôi đang học đại học từ nơi sơ tán về đã đi cùng nhà thơ Phạm Tiến Duật qua phố này. Phạm Tiến Duật lúc ấy mới nổi, chưa thành “Con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại” “cây săng lẻ của rừng già” và “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ” như sau này tên gọi anh.

Hôm đó anh dắt xe đạp và tôi đi bộ bên cạnh, anh đọc cho nghe bài “Lửa đèn” và phàn nàn   có tờ  báo không dùng. Anh đọc đầy cảm hứng “trái nhót như ngọn đèn tín hiệu - trỏ lối sang mùa hè “ý tứ thật lạ lẫm mới mẻ những năm 1967 -quả ớt như ngọn lửa đèn dầu – chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…”

Đang đọc thơ thì phố xá tắt phụt đèn, còi báo động kéo hồi dài, chúng tôi dừng lại dưới ánh trăng thật sáng, bên cạnh cái hầm cá nhân trên vỉa hè gần chếch cổng nhà bà Bô. Ngày ấy phố nào cũng đầy hầm cá nhân có cái nắp tròn cho người đi đường có thể nhảy xuống khi máy bay oanh tạc hoặc thả bom bi sát thương .

Sau này tôi xa Hà Nội, chỉ nghe tin báo đăng Phạm Tiến Duật bệnh nặng và em trai tôi- PGS-TS Nguyễn Quốc Bình du học Hungary về giảng dạy ở Đại học Quân sự- dù là dân kỹ thuật, dù không quen biết đã vào bệnh viện với tư cách người lính yêu thơ Phạm Tiến Duật –đã đứng bên giường bệnh của nhà thơ những ngày cuối cùng.

Tôi cũng đã phỏng vấn cây guitar Văn Vượng nổi tiếng soạn và biểu diễn những bản nhạc Hà Nội bất hủ- để tò mò xem anh đã “nhìn thấy” Hà Nội đẹp theo cách nào của một nhạc sỹ mù.

Anh kể đã xuống sờ vào mép nước hồ Gươm, ngồi lắng nghe và dùng kỹ thuật bồi âm diễn tả tiếng chuông đền Ngọc Sơn buổi sớm. Anh cũng chưa từng đến sông Lô nhưng đã chơi bản “Trường ca sông Lô” cho chính Văn Cao nghe và được ông nhận xét: “tôi không ngờ bài viết cho hợp xướng 4 chương mà biểu diễn được trên đàn Guitare 6 dây đầy đủ đến thế “.

Vậy là ta “cảm được" nơi ta có thể không nhìn thấy.

Tôi là “người Sài Gòn sau 1975", yêu thành phố này tha thiết- tôi có thể “cảm" được những gì của quá khứ  của nó hay không  Có biết mình đi trên đường phố nào còn vang bước chân xuống đường, phố nào có ký giả đi ăn mày, phố nào không giống Phố Phái nhưng đầy kỷ niệm học trò con đường có lá me bay….?

Người con gái vị tướng của Sài Gòn -Việt Nam cộng hòa  đang ở Mỹ nói chuyện gì với anh họa sỹ con trai tôi về ngôi nhà ở Quận 5 mà họ luôn thương nhớ, nơi họ gửi tuổi thơ hai thời khắc khác nhau?Tôi ước mong giá mà tôi hỏi được…

Google Map có thể kể hết cho tôi không? Tôi không chắc.

Cũng giống như mỗi Mùa Thu Tháng 8 đến, tôi ước gì có ai đang ở Ninh Giang - Hải Dương- trên giấy tờ là “nơi sinh”‘ của tôi- kể cho tôi biết giờ đây ở đó thế nào, có còn dấu vết gì không?

Nơi ấy khi Cách mạng Tháng tám bùng nổ, lúc đó cha  tôi làm y tá và mẹ là giáo viên- “công chức thời Tây “ đã bỏ hết nhà cửa theo kháng chiến. Chúng tôi còn nhỏ, được người ta “cho ngồi vào thúng" gánh đi tản cư nên không thể nhớ- Chỉ nghe kể lại  mẹ tôi là người đã  tự tay châm lửa đốt chính ngôi nhà của mình để thực hiện “tiêu thổ kháng chiến “ ngăn bước quân thù.

Chúng tôi hay khoe quê rất “xịn”: Bà ngoại tôi - người con gái đảo Vân Đồn nên quê ngoại tôi ở Vịnh Hạ Long và bố tôi quê có làng cổ Sơn Tây. Chồng tôi thì cười tủm tỉm: “Quê tôi hả? Thường thôi!...Quê Bạc”. (Quê Bác)

Chúng tôi đang già đi ở Sài Gòn và lũ trẻ nay lại đi tận những phương trời xa hơn.

Nhưng tâm hồn chúng ta luôn ở đó - dù bây giờ nó đã khác xưa và bao người khác lại đến sống, làm nên hành trình mới mà ta gọi là Lịch Sử, dù trải những gì thì cuối cùng là tình yêu quê hương đất nước.

 Dù đã có Google Map - hay là  VR- vũ trụ ảo Metaverse – tôi vẫn luôn muốn hỏi thăm: Ai về nơi ấy cho tôi biết….

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 14-2-23