Nhà
văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá
(NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2005)
Vương Trí Nhàn
Chương 11
VŨ TRỌNG PHỤNG
VÀ MỘT LỚP NGƯỜI THÀNH THỊ,
MỘT NỀN VĂN
CHƯƠNG ĐÔ THỊ
Vương Trí Nhàn
Nhìn vào tấm ảnh Vũ Trọng Phụng còn sót lại và in ở tập I của
Tuyển tập Vũ Trọng Phụng hôm nay, khó lòng có ai nghĩ rằng con
người đó mất đi khi mới 27 tuổi.
Cái gì là thần thái chính hiện lên trên khuôn mặt đó? Một chút chán
chường hoài nghi về thế thái nhân sinh toát ra sau cặp mắt mệt mỏi.
Mà cái nhìn chậm rãi pha chút mệt mỏi ở đây lại như một điều cả
quyết - không, sự chán chường của tôi là không thể nào cứu vãn được.
Nó là kết luận tôi buộc phải rút ra từ cả cuộc sống sôi nổi với cái
thế “day tay mắm miệng” quyết liệt của mình. Tôi đã định từ chối mà
không sao từ chối nổi. Vậy tôi bằng lòng chấp nhận nó. Sống ngắn
ngủi thế cũng đã đủ rồi. Ra đi không có gì phải nuối tiếc nữa. Dẫu
sao cũng còn hơn chán vạn kiếp sống thiểu lực nhạt nhẽo khác.
Và Vũ Trọng Phụng đã toại nguyện.
Từ tác phẩm của Vũ Trọng Phụng người ta cũng bắt gặp một cái nhìn
cuộc sống tương tự như vậy - một cái nhìn đã ổn định, đã vững vàng,
đã đủ cay đắng chua xót, cả hăm hở lẫn chán chường rồi, nên cũng coi
như đã trọn vẹn và tất cả là không thể sửa chữa được nữa.
Một điều người ta thường ngạc nhiên mỗi khi nghĩ tới những trang văn
của Vũ Trọng Phụng là sao con người này có thể biết nhiều đến thế.
Chữ từng trải đối với ông hình như không hợp, phải nói là ông biết
lắng nghe, biết tổng hợp, biết từ một cuộc sống hữu hạn của mình thu
góp lấy tinh hoa của bao cuộc sống khác, nên mới có sự thông thuộc,
sự thành thạo đối với nhiều mảng sống khác nhau vậy. Từ lễ phát chẩn
đông hàng ngàn người trước cổng một nhà triệu phú đến một buổi tối
sáng trăng, mấy người nhà quê ngồi bóc lạc luộc gẫu chuyện; từ những
đám bạc, những đám hút xách, cảnh chơi bời của đám nhà giàu và công
chức Hà thành, tới một buổi việc làng, một bữa cơm chạy lụt... tất
cả bấy nhiêu khung cảnh, sự việc rồi là lời lẽ của con người, những
chi tiết trong trang phục, thoáng lo lắng chợt hiện ra trong tâm tư
một bà mẹ già... hầu như cái gì Vũ Trọng Phụng cũng biết, cũng mô tả
một cách rành mạch. Stéfan Zweig nói rằng trong Balzac “có cả một
thời đại, cả một vũ trụ, cả một thế hệ”. Đôi lúc đọc những Cơm
thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Số đỏ, Giông tố... người đọc bất
chợt nghĩ rằng cũng có thể nói về Vũ Trọng Phụng bằng một câu tương
tự.
Ta sẽ ngạc nhiên hơn, nếu như nhớ rằng mặc dù trải rộng ra như vậy
nhưng cũng như ở nhiều nhà văn lớn, thế giới của Vũ Trọng Phụng là
một thế giới định hướng rõ rệt. Tác giả biết nhuộm cho cái nhân gian
do ông vẽ ra một sắc thái chỉ riêng ông có. Trong khi chiếm lĩnh
khách quan, văn chương của ông vẫn chủ quan đến từng chi tiết. Dù
viết về cái gì ông cũng tìm ra được lý do để mang được cách giải
thích nhân sinh của mình vào đó, và tạo ra đủ cớ để cho người ta phê
phán ông là định mệnh, cay nghiệt, hoài nghi, và cả khiêu dâm nữa.
Dù viết về cái gì, ông cũng để lại dấu ấn con người mình, cách nghĩ
mình, cả tính mình. Từ các trang sách, ông mỉm cười với hậu thế:
-
Tôi là thế đấy. Tôi độc đáo và không lặp lại như một hiện tượng
thiên nhiên. Tôi luôn luôn mời gọi người tới lý giải!
*
Nghị Hách và Xuân Tóc Đỏ, ông đồ Uẩn và cụ Cố Hồng, người tù chính
trị được tha có tên là giáo Minh và ông già Hải Vân hành tung bí mật
dám làm đủ chuyện ám muội. Rồi bà Phó Đoan, thị Mịch, Tuyết, Loan,
cụ Cử, chị Tuất v.v... và v.v... Thế giới nhân vật của Vũ Trọng
Phụng khá đông và thuộc nhiều giới khác nhau. Khi được nâng lên đến
mức điển hình, một số người trong họ là tài liệu quý, giúp đỡ đắc
lực cho những ai muốn nghiên cứu về xã hội hoặc tìm hiểu tài nghệ
ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Nhưng còn như để hiểu tâm sự người viết,
cái phức tạp đa đoan của chính tác giả, thì có những nhân vật chỉ
đóng vai phụ, hoặc có vẻ không tiêu biểu gì, thật ra lại là một thứ
chìa khoá khá tốt, mà người nghiên cứu không có quyền xao nhãng.
Ý
chúng tôi muốn nói tới nhân vật Long trong Giông tố.
Vốn có một cuộc sống cơ cực, tủi nhục (đặc biệt về mặt tinh thần),
lại tiếp thu được một ít kiến thức, và có lúc có cả triết lý nữa,
nhân vật này giống như một thứ chất hỗn hợp. Chỉ có điều đáng tiếc
là quá trình hỗn hợp ở đó đang dang dở, chưa hoàn thành. Khi lăn lộn
ở “dưới đáy” xã hội, Long không tiếp thu được phần khoẻ mạnh của
cuộc sống lao động. Còn như sự học của Long thì cũng nửa vời
chắp vá nốt. Bởi vậy, càng có dịp tiếp xúc rộng - nay ở ấp Tiểu Vạn
Trường Thành, mai xuống Cảng, ngày kia ra ngõ Sầm Công... - Long
càng chán chường, hoang mang, không tìm ra cuộc đời với cái nghĩa lý
thật của nó.
“ -
Thưa ông, hiện nay tôi có một điều khổ
tâm không thể tả được. Tôi khổ lắm, tôi giận thân, giận đời lắm, tôi
muốn liều lĩnh làm một điều gì xằng bậy, một điều gì càn dở, chỉ cốt
được hả giận mà thôi (...)
- Tư tưởng phá hoại lạ.
- Vâng, chính thế. Tôi chỉ
muốn được khổ sở cho nó bõ một thể.
- Ông Long, ông điên mất
rồi.
- Thưa ông, chẳng phải tôi
không biết như thế là điên đâu. Nhưng không hiểu vì sao tôi muốn
điên lắm, không thì không chịu được nữa. Trời ơi, nếu ông có là tôi,
thì ông mới hiểu được những nỗi đau đớn của tôi”
Nội dung cả đoạn đối đáp rõ, riêng câu cuối cùng của Long có một ý
nghĩa đặc biệt. Nó hé ra cho thấy rằng ở Long cái ý thức về cá nhân
đã lên đến cực điểm. Long mạnh, Long khác người vì phần ý thức ấy,
nhưng Long cũng lại là nạn nhân của phần ý thức ấy.
Ở
chỗ này, Long rất gần Vũ Trọng Phụng.
Có những ngòi bút như Vũ Trọng Phụng trong văn chương vì có không
biết bao nhiêu Long trong đời sống. Những điều như Vũ viết ra, như
Long nói ra, là cái phần tự ý thức của một lớp người hỗn tạp, táp
nham, đau đớn, ê chề, nhưng lại biết suy nghĩ và khổ vì sự bế tắc
không lối thoát của mình: lớp dân nghèo thành thị.
*
Do những đặc điểm lịch sử, sự phát triển của chế độ phong kiến ở
Việt Nam trải qua nhiều khuất khúc và không thể gọi là mang tính
chất điển hình. Ngay vào thuở cực thịnh của chế độ đó, các yếu tố
thị dân vẫn là một cái gì phát triển không bình thường. Những người
thành thị được gọi bằng cái tên không mấy cảm tình, dân kẻ chợ (và
xách mé hơn mà cũng đúng thực chất hơn, dân tứ chiếng).
Trong văn học Việt Nam thời phong kiến, và rộng hơn, trong tâm lý
phổ biến ở xã hội, trong đời sống tinh thần nói chung bao giờ cũng
thấy đầm ấm một tinh thần lạc quan nó là cái đặc tính cố hữu của
những người sống gần thiên nhiên. Một yếu tố bao trùm khác là xu thế
ca tụng cái thanh cao, cái trong sạch của cuộc sống nông thôn, ca
tụng thú điền viên, bài bác khinh bỉ cuộc sống thành thị, cho là ở
đó, nhân tình thế thái điên đảo, đồng tiền làm hư hỏng con người.
Nhưng muốn hay không muốn, thành thị cứ phát triển. Con người kẻ chợ
cứ hiện ra rõ nét dần trong văn học, hơn thế nữa, cũng ngày một rõ
hơn, mạnh dạn, tự tin hơn là những tiếng nói văn học đại diện cho
nếp sống, nếp nghĩ của lớp người kẻ chợ đó. Trong Cung oán ngâm
khúc, người ta bắt gặp một triết lý bi quan ở dạng cô
đọng; sự kết hợp giữa cung đình và thành thị đẻ ra lối nói kiêu sa
pha chút nhục cảm, một thứ nhục cảm mới nẩy nòi, nên còn thô vụng (Tai
nghe nhưng mắt chưa nhìn - Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên...). Với Hồ
Xuân Hương, các yếu tố nhục cảm được sử dụng một cách khéo léo hơn,
đủ sức trêu trọc, chòng ghẹo người ta hơn, nghĩa là được tác giả
quan niệm một cách tự nhiên hơn. Cái lý tưởng điền viên kia không có
nghĩa lý gì với Hồ Xuân Hương cả. Trong thơ ca của người nữ sĩ sống
nhiều ở Hà thành này, nhân vật trữ tình luôn luôn chon von trong một
thế đứng đơn độc, mặc dù đang ở giữa mọi người nhưng không sao tìm
được sự thông cảm của con người, và nhìn cái gì cũng ra kỳ hình, dị
dạng (Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom - Oán hận trông ra khắp mọi
chòm - Mõ thẳm không khua mà cũng cốc - Chuông sầu chẳng đánh cớ sao
om). Sự cô đơn cá nhân đó cũng là chỗ gần gũi giữa Hồ Xuân Hương
với một người như Trần Tế Xương. Tuy là sống cùng thời nhưng nếu thơ
Nguyễn Khuyến đi sát cái nhịp hài hoà bình thản thôn dã và không hề
phân vân trong việc tìm lại sự yên tĩnh đã mất thì thơ Tú Xương là
tiếng nói trực tiếp của những con người thành thị, với tất cả sự
trắng trợn có thể có của nó (Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi...);
tiếng nói ấy không ngại chua chát, cay nghiệt khi nói về một cuộc
sống đã mất hẳn sự hoà điệu, sự thanh cao mà người ta hằng mong
muốn.
Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương không phải những
hiện tượng ngoại lệ. Làm nền cho họ là cả một dòng văn học liên tục.
Từ dòng văn học đó, từ
Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, từ Hoàng Lê nhất thống chí
(nhân vật Tuần huyện Trang với câu nói nổi tiếng: - Sợ thày chưa
bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình...) qua các
truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn thời kỳ Nam phong...
Chúng ta có thể tổng hợp lại để nêu lên một số nét tiêu biểu của các
nhân vật thành thị trong văn học Việt Nam: ở họ, mối quan hệ quân
bình với hoàn cảnh mà ta thường bắt gặp trong cả các nhân vật văn
nhân hiệp sĩ lẫn người nông dân, mối quan hệ ấy không còn nữa. Những
phẩm chất mà người ta hay ca ngợi - một tấm lòng nhân hậu, một chữ
tâm bền bỉ, một thái độ an bần lạc đạo... chỉ còn trong ký ức. Thay
vào đó là một lối sống ích kỷ, một thái độ chính trị có khi hoạt
đầu, một chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Dưới sự hướng dẫn của những
nguyên lý ấy, họ có lối sống mạnh, gấp gáp. Họ không cần được tiếng
khen là chừng mực, thanh nhã. Họ thích những gì mạnh, gắt, đập vào
cân não. Điều kỳ lạ là bất chấp bao nhiêu những bài báo, chê bai từ
phía các bậc trí giả, các nhân vật đó vẫn sống, dòng văn học này vẫn
có những đại diện của mình và suy cho cùng, gom góp lại, vẫn mang
tới cho đời sống văn học những sắc thái mới lạ, cả nền văn học cũng
nhờ đó, có thêm sức sống.
Đến Vũ Trọng Phụng, thì cái chất thành thị ấy cũng trở nên đậm đặc,
và có thêm những biểu hiện mới. Người ta có thể cắt nghĩa điều này
một phần bằng cái hoàn cảnh mà Vũ Trọng Phụng trưởng thành.
Từ một ít phố xá bé nhỏ bao quanh các thành luỹ quân sự trong thời
phong kiến qua thời Pháp thuộc. Hà Nội nhanh chóng trở thành một
thành phố với phố xá sầm uất hơn, nhà cửa khang trang hơn và nhất là
dân cư đông đúc hơn. Đấy chính là một thứ chỗ trũng, thu hút người ở
nông thôn ra, trong số đó có những người nghèo không cam tâm chết
mòn sau luỹ tre xanh, những người bị đè nén bị oan ức,
những người ngày hôm qua còn là những thầy đồ, thầy lang, thậm chí
cả lý dịch nữa
[1]
vì những cơ nhỡ như thế nào đó, rơi tụt xuống cái miệng vực ghê gớm,
là thành phố. Từ nông thôn ra Hà Nội, họ làm đủ nghề, từ con sen
thằng ở “cơm thầy cơm cô”, kéo xe, canh cửa, cho tới mở cửa hàng lặt
vặt, dạy tư, làm thầy ký ở các hãng buôn. Và cả viết văn viết báo
nữa! Nhà văn mà con nhà nghèo, lớn lên trong sự căm uất lớp người
giàu có; nhà văn mà chỉ học đến tiểu học đi làm thuê làm mướn rồi do
những tất nhiên ngẫu nhiên như thế nào đó, phá ngang đi viết báo,
viết văn - có lẽ không ở nước nào có đội ngũ nhà văn kỳ lạ như vậy.
Nhưng đấy là một sự thực. Chính từ một thực tế như thế, văn học Việt
Nam trước 1945 có cái nét mặt bình dân với cả cái hay cái dở của nó,
mà đến nay, chúng ta còn chưa gọi ra đầy đủ.
Ở
trên, trong khi nói qua về Nguyễn Gia Thiều, chúng tôi đã lưu ý rằng
ở tác giả Cung oán ngâm khúc, chất thành thị gắn liền với
chất cung đình. Ở
cả Hồ Xuân Hương, lẫn Trần Tế Xương, người ta cũng còn luôn luôn bắt
gặp những vang bóng của một cuộc sống phong lưu ổn định - một thứ
chất trí thức pha chút hiển quý. Còn Vũ Trọng Phụng? Chúng tôi không
nhắc lại tiểu sử nhà văn ở đây. Chỉ biết rằng không thiếu những cây
bút đương thời có hoàn cảnh xuất thân như tác giả Số đỏ: đó
là những người làm nghề trí thức đời thứ nhất, trước họ, trong gia
đình họ, chưa ai làm nghề này cả, và muốn hiểu họ, phải hiểu cả gốc
gác xa xưa của gia đình họ nữa.
Do những điều kiện mà xã hội tư sản mới hình thành mở ra (trong đó
có xu hướng dân chủ hoá không cưỡng lại nổi), đây là những dịp đầu
tiên mà tầng lớp dân nghèo thành thị có được tiếng nói của mình
trong văn học. Nhưng những con người thành thị mới một hai đời này
cũng bộc lộ một sự không thuần nhất đến lộ liễu. Rời khỏi nông
thôn họ có cái may mắn là cắt đứt khỏi sự trói buộc của hoàn
cảnh quen thuộc, một hoàn cảnh vô cùng tù đọng, trì trệ. Cái ngưỡng
tự do của họ được rộng mở. Với chút căn cốt của dân lao động vốn có,
một số trong họ vẫn giữ được cái nhân hậu của con người, lòng yêu
chính nghĩa, niềm tin và cả cái khoẻ mạnh trong ý nghĩ về cuộc sống
(đương thời, Nguyên Hồng chính là người phát ngôn của tầng lớp
dân nghèo thành thị với cái phần căn cốt tốt đẹp đó). Nhưng ở rất
nhiều người khác, thì sau những năm tháng bị đày ải ở nông thôn,
những gì tốt đẹp hầu như thui chột, rụi rọ đi, thay vào đấy, là lòng
căm ghét con người, cái nhìn ghen tị, thù hận - những phẩm chất gắn
liền với cái mà người ta gọi là chất lưu manh. Lưu manh nghĩa là
không bị ràng buộc bởi một chuẩn mực nào hết. Lưu manh trong ý muốn
đạp đổ tất cả.
Cũng phải công nhận rằng so với những người nông dân thì lớp dân
nghèo thành thị ở chung quanh Hà Nội những năm trước Cách mạng 1945
được tiếp nhận một nền giáo dục đáng kể hơn nhiều. Nhưng kiến thức
thì có mà căn bản văn hoá thì chưa. Những người có hiểu biết về nền
giáo dục mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam trước đây đều biết
rằng nó chỉ nhằm đào tạo ra những người thừa hành mà không hề muốn
làm công việc mở mang trí tuệ như thực chất của giáo dục đòi hỏi.
Ngay ở bậc cao học, kiến thức được truyền thụ cũng mang tính chất
primaire, nghĩa là sơ đẳng, thực dụng. Còn nói chi việc học ở
các bậc tiểu học là cái trình độ mà nhiều nhà văn của chúng ta được
nhận! Để bù lại, sau này vào nghề văn, một người như Vũ Trọng Phụng
đã học thêm rất nhiều (ai đó kể rằng ông thường có mặt sớm nhất bên
những chuyến tàu chở hàng từ Pháp sang để đón sách báo). Nhưng nhìn
chung, làm sao mà tránh khỏi chắp vá, què quặt? Nhiều lần trong các
văn phẩm của mình, Vũ Trọng Phụng đã nhắc tới học thuyết Freud. Đúng
ra, phải nói ông đã mang tiếng là tuyên truyền cho nó. Nhưng từ góc
độ của ngày hôm nay mà xét, phải nhận cách giải thích về Freud của
tác giả Số đỏ, Giông tố... nông nổi và mang màu sắc dung tục.
Là một phát minh vĩ đại của thế kỷ này, phân tâm học của Freud và
những người kế tục như (C.G. Jung) phong phú hơn, sâu sắc hơn, khoa
học hơn và cũng ... cận nhân tình hơn nhiều. Cách tiếp nhận Freud
của Vũ Trọng Phụng chỉ là một ví dụ về khả năng tiếp nhận các vấn đề
khoa học - tự nhiên cũng như xã hội - của nhiều người dân thành thị
đương thời, kể cả những người hành nghề trí thức.
Người ta thường vẫn lấy làm lạ khi thấy một ngòi bút sáng suốt như
Vũ Trọng Phụng lại mê tín và công khai trình bày sự mê tín của mình
trên nhiều trang sách. Nhưng chẳng phải là chính đặc điểm đó lại
thông báo chính xác hơn hết cái phương diện tinh thần ở Vũ Trọng
Phụng và chỉ ra đầy đủ gốc rễ mà cũng là đặc điểm của tài năng văn
học này: Ông là dân nghèo thành thị từ đầu đến chân. Với tầng lớp
dân nghèo đó, khi ông gần gụi, khi ông căm ghét, nhưng bao giờ ông
cũng vẫn là họ, chơi vơi và bế tắc, không tìm đâu ra lối thoát như
phần lớn bọn họ.
*
Theo một con số thống kê đưa ra trong cuốn Giáo trình lịch
sử văn học Việt Nam tập 5 (bản in 1978), thì riêng năm 1937, ở
Việt Nam có 110 nhật báo (gần như tất cả là báo tư), 159 tập kỷ yếu
và các tạp chí. Trong các năm 1938-1939, số nhật báo sẽ lên tới 128,
còn con số kỷ yếu tạp chí cũng tăng lên ít nhiều.
Khi báo đã nhiều như vậy, thì nghề làm báo cũng phát triển. Mỗi tờ
báo trên thực tế, chỉ do vài người viết giúp. Những người này nếu
viết được văn thì càng tốt. Bởi lẽ ngoài phần tin tức và quảng cáo
vốn là lý do để tờ báo có bộ mặt một cơ quan thông tin đại chúng,
báo còn thường cùng lúc đăng nhiều tiểu thuyết, ngày nọ tiếp ngày
kia (thường gọi là phơi-ơ-tông) lấy việc cần phải theo dõi liên tục
câu chuyện để kéo độc giả.
Từ một trường làm báo này, đã hình thành những cây bút vừa viết văn
vừa viết báo, những nhà báo kiêm nhà văn có sức làm việc đều đều, và
tay nghề vững chãi.
Chẳng những Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng mà Nhất
Linh, Xuân Diệu, Thạch Lam... đều đã trưởng thành từ môi trường báo
chí ấy. Đương thời, có lúc cũng một số báo Phong hoá đăng
theo kiểu phơi-ơ-tông mấy tiểu thuyết của Khái Hưng. Bản thân Thạch
Lam cũng từng làm thư ký toà soạn Ngày nay một thời, từ đó,
viết nên
Hà Nội ba sáu phố phường và nhiều tiểu luận văn học có giá
trị.
Cố nhiên, đây chỉ là một sự giống nhau bề ngoài, nó là đặc điểm của
những người làm nghề cùng thời (sau Cách mạng, không thấy cách tồn
tại của các nhà văn như vậy nữa)
Còn trong thực tế, chỗ khác nhau giữa họ rất nhiều. Tất cả bắt đầu
ngay từ câu hỏi dơn giản: Tại sao họ cầm bút?
Ở
chỗ này thì trường hợp một trí thức như Nhất Linh có ý nghĩa một
bằng cớ để so sánh.
Đi du học về, rồi thấy cần phải mở mang dân trí nên Nhất Linh viết
văn. Cùng với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam v.v... ông lập ra nhóm
Tự Lực Văn Đoàn. Họ vừa viết, vừa làm chủ tờ báo và nhà xuất bản.
Viết xong, đã có cơ quan in ngay tác phẩm của mình. Lỗ lãi không cần
lắm. Đã có những nguồn lợi tức khác bảo đảm sinh kế cho họ và gia
đình.
Khi không phải lo chạy ăn từng bữa, người ta tha hồ ngồi nghĩ đủ
việc, cả việc lông bông lẫn việc lớn!
Trước đây, với lối nghĩ dung tục đã thành nếp, một số nhà nghiên cứu
văn học ở ta thường bảo những nhà văn đó chỉ viết để phục vụ cho bọn
trưởng giả, không được việc gì cho dân cho nước mà dễ dàng làm tay
sai cho đế quốc phong kiến. Ngày nay rõ ràng không thể nghĩ hợm hĩnh
vô lối như thế được nữa. Ngày nay chúng ta nói rằng sự bảo đảm vật
chất cũng là một điều kiện quan trọng để nhà văn có thể tạo ra những
tác phẩm có giá trị, còn cái căn bản trí thức thì thật cần, nó tạo
cho người viết văn một cái phông vững vàng để chạy đường trường.
Chỉ có điều đáng tiếc là số nhà văn kiểu ấy trước Cách mạng đếm
không đầy mười đầu ngón tay.
Về mặt chủng loại mà xét, đặt bên cạnh Nhất Linh, Khái Hưng, kiểu
nhà văn như Vũ Trọng Phụng phổ biến hơn nhiều.
Trong số này, có người là nhà nho lỡ thời, không thi cử nữa, xoay ra
viết giúp cho tờ báo nào đó, sống độ nhật. Có người trước cũng giàu
có, nay thất cơ lỡ vận, thù đời mà đi viết văn. Lại có chàng trai
quê, ngơ ngơ ngác ngác, trước chỉ lêu lổng rượu chè rồi làm thơ cảm
khái, hoặc thơ... chọc ghẹo mấy cô hàng xén, nay nhận ra rằng hình
như những điều gọi là tâm sự của mình đó, có người mua, thế là mang
bán; mới đầu bán rẻ, sau khôn hơn, bán đắt hơn, đủ sống và có thể
nhận cả đơn đặt hàng nữa. Thế là thành nhà thơ nhà văn.
Chỗ bi đát thứ nhất của lớp người viết văn kiểu này là họ buộc phải
sinh nhai
bằng ngòi bút. Qua những điều mà chính họ kể lại, cuộc săn tìm miếng
cơm manh áo cho mình và gia đình mình lắm khi hiện ra như một quang
cảnh vừa buồn cười, vừa ứa nước mắt. Bản thân những kỷ niệm mà các
bạn văn của Vũ Trọng Phụng kể lại khi ông vừa nằm xuống đã chứng
minh cho điều ấy.
Nhưng thực tế đời sống còn bi đát hơn ở chỗ mặc dù luôn luôn bị cái
hàng ngày kéo xuống như vậy, các ông vẫn phải làm nhà văn, với tất
cả những yêu cầu cao cả mà nghề nghiệp này đòi hỏi.
Thật vậy, cái trớ trêu của nghề văn là ở chỗ nó không biết đến điều
kiện cụ thể của người viết và điều này có vẻ như đánh thẳng vào lớp
nhà văn dân nghèo thành thị. Với cái vốn sơ học yếu lược khi vào
nghề, họ phải luôn luôn nghĩ rằng những (A. France), (R. Rolland),
(L. Tolstoi), (Dostoievski) là đồng nghiệp của mình. Trong những
căn phòng tranh tối tranh sáng, hoặc là lúc nào cũng ồn lên tiếng
chửi nhau đánh nhau... họ phải nói tới lương tâm chính nghĩa.
Họ đã khổ, nhưng còn có lớp dân quê và những phu phen, thợ thuyền
bên hàng xóm, còn khổ hơn, lúc nào cũng tính chuyện nhờ họ giải bày
niềm oan uổng. Trong khi những chuyện mè nheo hàng ngày không ngừng
giày vò họ, họ vẫn phải nghĩ rộng tới người khác, phải nghĩ mình có
trách nhiệm chấn hưng phong hoá, giáo huấn người đời, và kín đáo tố
cáo chế độ thuộc địa cũng là thức tỉnh lòng yêu nước, nếu có thể.
Trên đôi vai bé nhỏ của các nhà văn ấy chồng chất tầng tầng gánh
nặng mà ở các nước, chỉ bọn trí thức no đủ mới làm nổi.
Biết bao nhiêu nhà văn nhà báo loại này đã đầu hàng, đã nhẫn nhục
coi công việc viết lách như một nghề kiếm sống thuần tuý, đã viết
nhanh, viết ẩu, viết theo thời thượng, cốt cho các ông chủ báo bằng
lòng, rồi lại chán chường khinh bỉ công việc của mình. Một ngòi bút
như Vũ Trọng Phụng không xa lạ với những đồng nghiệp như vậy. Nhưng
Vũ Trọng Phụng đã đi xa hơn họ. đồng thời với việc làm nghề thành
thạo, Vũ Trọng Phụng biết mang lại cho nghề văn một chút ý nghĩa mà
nó thường có ở mọi thời và mọi nước:
Văn học là tiếng kêu khắc
khoải của con người trước một thực tế đời sống không bao giờ họ cảm
thấy bằng lòng và sự thật là không bao giờ hiểu hết.
*
Nếu biết nhìn kỹ thì mỗi một hiện tượng riêng lẻ đều mang những đặc
điểm chung của chủng loại, nghĩa là đều có ý nghĩa tiêu biểu. Chỉ
riêng nó thôi, cá nhân nào cũng mang sẵn trong nó chất điển hình
rồi, điển hình ấy chỉ chờ ta đến khám phá.
Cái chân lý sơ giản ấy đã đúng cho mọi người thì cũng đúng cho các
nhà văn. Một lúc nào đó, tôi ngờ rằng trong một cuốn từ điển làm
riêng về văn học Việt Nam, người ta sẽ gọi Vũ Trọng Phụng là một nhà
văn tiêu biểu của thế kỷ XX. Nhà văn này xuất thân từ một tầng lớp
đã cung cấp cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1945 nhiều cây
bút nổi tiếng. Như một giống cây khoẻ, trong khi vươn lên mãnh liệt,
tài năng của Vũ Trọng Phụng vẫn bắt rễ rất sâu vào cái khu vực tranh
tối tranh sáng là cuộc sống lớp dân nghèo thành thị đã sản sinh ra
ông. Và ông khai thác nó một cách triệt để. Với tất cả vẻ chua chát,
phũ phàng, cay đắng hằn học khiến người ta vừa thích vừa ngại, giọng
văn Vũ Trọng Phụng tưởng là xa lạ, thực ra là sự tiếp tục ở giai
đoạn mới cái dòng văn học thành thị trong văn học Việt Nam, cái dòng
văn học được làm nên bởi những tên tuổi như Nguyễn Gia Thiều, Hồ
Xuân Hương, Trần Tế Xương và bao người khác.
Chẳng những thế, hiện tượng Vũ Trọng Phụng còn có ý nghĩa tiêu biểu
ở một phương diện khác: qua ông người ta hiểu tâm tình, hoàn cảnh,
lối làm việc, chỗ mạnh chỗ yếu của số đông những người cầm bút Việt
Nam. Phần lớn họ sống lầm lụi giữa nhân dân lao động (cái điều người
ta thường chê trách rằng họ sống xa nhân dân chẳng qua là một câu
chuyện bịa đặt); bản thân việc cầm bút của họ trước tiên cũng là một
thứ lao động cật lực. Nếu như đôi lúc, sau những trang văn phần lớn
do sinh kế thúc ép mà phải viết vội ấy, họ có hiện ra như những
người hàm hồ, lắm lời, nói quá nhiều chuyện tầm phào, thuyết minh cả
những điều mình chưa biết cặn kẽ, để rồi sau đó lại chán ngán, buông
xuôi, kêu to lên tiếng kêu bất lực , v.v... và v.v... thì ngẫm cho
kỹ, tất cả đều đáng thông cảm. Vả chăng mặc dù, lẫn vào bao nhiêu
trấu sạn và cả rác rưởi nữa, cái phần tinh hoa tốt đẹp của mỗi người
vẫn là không gì thay thế được. ít nhiều công việc mà những người cầm
bút như Vũ Trọng Phụng đã làm đều có gắn với hồn thiêng đất nước và
cái mong mỏi khôn cùng là mong cho xã hội ngày một văn minh tấn tới.
Đấy cũng là lý do khiến tác phẩm của họ sẽ còn lại mãi với lịch sử.
1989
Đã in Tạp chí văn
học 1990, số 2
|