Cây
bút, đời người
Vương Trí Nhàn
|
Nhị Ca
và một triết lý sống hợp lý
Khi
tâm sự về những vui buồn trong việc làm tập Thi nhân Việt Nam
1932-1941, Hoài Thanh không quên thú nhận là mình đến với
nghề một cách bất đắc dĩ và thường rất ngại khi nghe ai đó nói
mình là nhà phê bình văn học.
Theo
tôi hiểu, trường hợp vào nghề như Hoài Thanh không phải là ít.
Bởi nói chung nghề này quá mới lại quá khó khăn, đứng ở ngoài
cũng đủ ngại nên không ít người thường lảng tránh và cho đến
phút cuối cùng không bỏ được mới phải sống với nó. Sau lứa Hoài
Thanh, đến cả lứa sau, tình trạng trên vẫn còn là phổ biến,
trong số này, có một người từng là thầy dạy nghề của tôi, người
đã ảnh hưởng nhiều đến tôi về nghề nghiệp.
Người đó là nhà phê bình Nhị Ca.
Nhị
Ca tên thật là Chử Đức Kính, sinh năm 1926 tại Hà Nội. Sau khi
nhập ngũ, ông đã chuyển qua đủ thứ công việc, cuối cùng gần 40
tuổi, mới đi hẳn vào nghề phê bình văn học. Không kể những tác
phẩm dịch, không kể tập sách mỏng Viết hồi ký, thì mãi
1972, khi đã 46 tuổi, tập bài phê bình đầu tiên của Nhị Ca mới
được in ra. Đó là tập Từ cuộc đời vào tác phẩm. Sự thực
số đầu sách của Nhị Ca đâu có nhiều: Về sau, ông cũng chỉ cho in
thêm có tập bài Dọc đường văn học (1977) và một cuốn
chuyên khảo mang tên Gương mặt còn lại - Nguyễn Thi
(1983). Trong cuộc đời có phần tẻ nhạt của số đông người viết
phê bình chúng tôi, kể ra như thế là Nhị Ca cũng đã đạt được cái
mức mà những người khoẻ mới làm được. Và nếu tính cả việc làm
báo, biên tập, hướng dẫn những người đi sau, thì đây đã là một
nhà phê bình có đóng góp, trong đó cái đóng góp chủ yếu của ông,
cái phần để lại sâu đậm nhất trong tâm trí chúng tôi, là ông tìm
được một cách sống bình tĩnh, thoải mái, một cách sống khá phù
hợp với nghề nghiệp và con người mình.
*
* *
Sự
làng nhàng của một số phận như Nhị Ca - xin phép được tạm gọi
như vậy - bắt đầu từ cái vẻ “làng nhàng” của hoàn cảnh xuất
thân. Mỗi khi soát xét lại quá trình trưởng thành của mình, Nhị
Ca thường quay nhìn tuổi trẻ với nhiều lưu luyến. Một nếp nhà
bình thường nhưng nó vẫn là một cái nhà, mà ở xó xỉnh nào, người
ta cũng có bao kỷ niệm. Đời sống an bài đâu vào đấy, trường sở
nghiêm chỉnh, đến mức dù là con một công chức xoàng thôi, thì
người ta cũng có điều kiện để vừa học vừa chơi mà tiếng Pháp học
được vẫn đủ để kiếm công ăn việc làm khi ra đời.
Bảo
rằng Nhị Ca là một người thất bại, cũng không hoàn toàn đúng. Sự
thực là ông cũng đã có một tuổi trẻ anh hùng. Khi Cách mạng 1945
xảy ra, con người đó vừa đúng 19 tuổi. Cũng như đám bạn bè cùng
lứa, ông đã sống những ngày từ 9-45 qua cả năm 1946 một cách náo
nức, dù không có một việc gì cụ thể. Khi tiếng súng kháng chiến
bùng nổ, vốn sẵn “có tí văn hoá”, ông được cử vào một đội tuyên
truyền văn nghệ, đi các nơi động viên kháng chiến. Thoạt đầu ông
thuộc biên chế một trung đoàn, rồi sau mới về công tác ở phòng
chính trị một khu. Tại đây, có thời gian Nhị Ca được đề bạt
trưởng tiểu ban văn nghệ, thường xuyên thay mặt đơn vị, đến làm
việc với Ban chấp hành chi hội Văn Nghệ liên khu I lúc ấy, gồm
toàn những nhân vật nổi tiếng Nam Cao, Ngô Tất Tố, Trần Văn Cẩn,
Tú Mỡ, Nguyên Hồng v.v...
Không phải chỉ riêng Nhị Ca, mà nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của
nền nghệ thuật Cách mạng đã bắt đầu bằng những bước đi tương tự.
Giá
như dấn lên một chút, Nhị Ca cũng thành ra một nhà văn nhà thơ
hay một nhạc sĩ nào đó. Thì bè bạn của ông, những Xuân Thiêm,
Cao Nhị, mà ông cùng học ở trường, những Chính Hữu, Ngọc Tự mà
ông cùng công tác, lúc xuất phát nào có gì khác.
Nhưng rồi bệnh tật đã tới.
Việc
này về sau Nhị Ca sẽ kể với một người bạn thân tình:
-
Mọi người bắt tay tôi thường bảo: “Sao tay ông nóng thế?”, “Mình
vẫn làm việc bằng một phổi, làm sao bình thường cho được”. Bấy
giờ, bệnh lao còn là một bệnh đáng sợ lắm. Nhiều thằng bệnh
không nặng như tôi, song vì bi quan quá, hoảng quá, nhắm mắt chờ
vi trùng đục ruỗng lá phổi. Có thằng tự tử. Cả cái lán bệnh mười
hai thằng nằm dài như thế này, đã bao nhiêu lần, mười một thằng
đi, còn lại mình tôi. Rồi lại bổ sung. Rồi lại mười một thằng ấy
đi tiếp. Tôi sống được một phần chỉ tại tôi cố sống, tôi nhất
định không tin rằng mình sẽ chết.
Nhị
Ca đón hoà bình lập lại (1954) ở một bệnh viện bên Nam Ninh
Trung Quốc, sau đó, từ đấy ông về thẳng Hà Nội.
Ông
đã trở về với Thủ đô hoa lệ mà cũng là quê hương, là mảnh đất
nuôi dưỡng tuổi thơ của mình.
Nhưng dấu vết của trọng bệnh không bao giờ xoá sạch.
Hãy
thử tưởng tượng một người ra khỏi cái ốm - mà cũng tức là ra
khỏi chỗ chết như thế - lại có dịp trở về với đời sống Hà Nội
những năm 1955-56 - một Hà Nội có đèn điện, có nước máy, có
những biệt thự bên bóng cây xanh, một Hà Nội vẫn giữ được những
nền nếp thanh lịch, mà hồi ở kháng chiến, giữa cái u tì của núi
rừng, người ta thường nắc nỏm ao ước.
Có
hai tâm trạng nảy ra trong Nhị Ca lúc ấy: vừa sung sướng nhớ lại
tuổi trẻ êm đẹp, vừa đau đớn vì nay mình đã là người ngoài cuộc,
không còn sung sức để đóng góp cho đời sống, mà cũng là để tận
hưởng đời sống.
Một
lần nào đó, Nhị Ca có dịp đến dự một buổi biểu diễn ca nhạc ở
Nhà hát lớn. Người diễn viên lộng lẫy dưới ánh đèn sân khấu kia,
hôm qua, từng là cô gái quê được người cán bộ này dìu dắt, bảo
ban, rồi đề nghị cấp trên cho đi học bên nước bạn. Nhưng làm sao
mà bây giờ cô ta còn có thì giờ đoái hoài tới người khán giả ốm
yếu bệnh tật, vừa ở bệnh viện trở về và đã bị cắt hẳn một bên
phổi!
Đứng
nép sau hàng cột, bần thần một hồi, Nhị Ca lẳng lặng trở về với
căn phòng làm việc của mình, ở Thư viện Quân đội. Kể ra có người
từng cũng bệnh tật nặng nề như Nhị Ca, cũng bị lao, cũng sang
Trung Quốc chữa bệnh, song khi về nước, đã làm một cuộc hồi
sinh, như con phượng hoàng bay lên từ đám tro tàn vùng vẫy trở
lại: đó là trường hợp Chế Lan Viên. Nhưng làm sao mình có thể so
sánh với tác giả Điêu tàn cho được - Nhị Ca tự nhủ, và
cùng với việc lo lấy vợ, sinh con, chỉ còn nghĩ rằng may lắm là
được mầy mò giữa các trang sách.
Từ
đấy, ngòi bút dịch thuật Nhị Ca bắt đầu hoạt động đều đặn.
Rồi
cũng nhân ở thư viện, ông viết vài bài đọc sách gửi đi các nơi.
Bấy giờ lực lượng văn học trong quân đội, dù đã qua tám năm
kháng chiến, vẫn chưa có điều kiện để đào tạo những nhà nghiên
cứu lý luận. Nói cụ thể hơn vào khoảng những năm 1960-62 gì đó,
khi mà Văn nghệ quân đội ra công khai đã được vài năm,
cần có người giữ gôn mục phê bình trên báo thì cũng chỉ
có Nhị Ca là ứng cử viên duy nhất, và ông đã trở thành một thành
viên chính thức của Văn nghệ quân đội, ngay từ trước khi
xảy ra cuộc chiến tranh phá hoại (5-8-1964). Con đường Nhị Ca
đến với phê bình văn học có mấy đặc điểm: 1/ Ông đến với nó hơi
muộn; 2/ Ông đến trong cái tư thế của một người đã lữa, đã chán
ra rồi, đã cam tâm chấp nhận rằng mình thất bại trong việc đời,
giờ làm gì thì cũng chỉ coi là một nhiệm vụ được giao phó.
Trong bài viết mang tên ý nghĩa phê bình văn học, Nhị Ca
tóm tắt quan niệm phê bình văn học của mình như sau:
“Từ
trong nguồn gốc sâu xa của nó, sáng tác và phê bình chỉ là hai
mặt nhất trí của một nhu cầu tinh thần: sáng tác là hành động,
phê bình là nhận thức và lương tri của các hành động đó.
... Phê bình ở ta luôn luôn tìm cách khẳng định những điều tốt
đẹp có thực, những đóng góp dù nhỏ nhoi của những người làm ra
của cải tâm hồn.
... Phê bình cũng như sáng tác đều đại diện cho lợi ích xã hội
và phê bình rất có quyền và cần phải đưa đơn đặt hàng cho nhà
văn, hướng nhà văn vào việc góp phần giải quyết những vấn đề
trung tâm của cuộc đấu tranh cách mạng”.
Đây
cũng là những quan niệm được ông tuân theo mỗi khi cầm bút. Với
ông, dù mỗi bài phê bình có ký tên ai đi nữa, thì đấy vẫn là
tiếng nói của dư luận, của chỉ đạo, và sau đó mới là ý kiến
riêng, yêu thích riêng của cá nhân. Vậy thì phải tỉnh táo, lý
trí phải vững, dù có bị chê một tí cũng chẳng sao. Trên cương vị
một người phụ trách công tác lý luận phê bình của Văn nghệ
quân đội trong những năm ấy, Nhị Ca thường phải lo mấy loại
bài sau đây:
Một là
những khi các sách sáng tác, lý luận của các lãnh tụ được in ra,
như thơ Hồ Chủ tịch, thơ đồng chí Sóng Hồng, thơ Tố Hữu, tạp chí
cần có tiếng nói của mình; hoặc những khi kỷ niệm 25 năm, 30 năm
ngày thành lập Quân đội, tạp chí cần có bài tổng kết một giai
đoạn v.v... và v.v...
Hai là
những khi có các sáng tác của anh em ở chiến trường gửi ra, hoặc
một số đồng chí ở tạp chí đi công tác về viết được những cuốn
sách tốt, cần khẳng định một phương hướng, một cách làm việc.
Trước những yêu cầu của cơ quan, Nhị Ca bao giờ cũng vui vẻ đón
nhận, và viết bài với tất cả tâm sức của mình. Ông đã viết về
Những cuốn sách của Bác Hồ dẫn chúng tôi đi, về Những
trang thơ hùng tráng và thiết thực. Ông đã viết về văn xuôi
Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Hữu Mai, Nguyễn Minh Châu, về thơ
của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật v.v...
Trên
đây là mấy nét sơ lược về cuộc đời Nhị Ca. May mắn cho tôi là
chính lúc Nhị Ca đã vào tuổi “tứ thập nhi bất hoặc” và cốt cách
của nhà phê bình nơi ông đã ổn định, thì tôi được làm việc nhiều
với ông. Ban đầu là mối quan hệ cấp trên cấp dưới rõ rệt, nhưng
ngoài cái đó ra, giữa chúng tôi còn có tình người, và không phải
chỉ là tình đồng nghiệp thông thường mà là trong cái nghề người
ta biết mọi nóng lạnh của nhau: nghề cầm bút. Rồi đến một lúc
nào đó, tôi bắt đầu nhận ra trước mặt mình là một nhân cách độc
đáo, thú vị. Tôi không dám chắc mình đã hiểu hết người đồng
nghiệp lớn tuổi ấy, chỉ biết mang máng là bên cạnh cái phần bề
nổi có phần chìm, thậm chí có thể có nhiều Nhị Ca trong một Nhị
Ca.
...
Nhưng đó là một câu chuyện hơi dài dòng một chút.
*
* *
Phải
thú thực là với sự non dại của mình, thời gian mới gặp Nhị Ca,
tôi chưa thể thú ông ngay được. Hồi tưởng lại mấy năm 1966-67,
khi thập thò gửi những bài viết đầu tiên đến cho Văn nghệ
quân đội, và thường tới làm việc với Nhị Ca ở chỗ ông sơ tán
- nó chính là căn phòng trên gác hai 104 Nguyễn Thái Học, nơi
gia đình ông ở - tôi không nhớ gì lắm mà chỉ mang máng cảm thấy
sao mà ông muốn răn dạy mình quá nhiều, hình như ông hơi công
chức, ông không có những bột phát tự do của người làm nghề sáng
tạo. Tới khi tôi được xếp về ở cùng phòng với ông trong cái
buồng ngách phía nam ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, thì sự ngờ ngợ của
tôi ngày càng trở nên rõ rệt. Các bạn hãy thử tưởng tượng, hồi
ấy là những ngày cuối 1968, đơn vị vừa từ sơ tán chính thức trở
về Hà Nội ít lâu. Sau một lúc làm việc buổi sáng, phần lớn lớp
cán bộ lâu năm như Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Nguyễn Khải, Hải Hồ...
đều về gia đình riêng ăn cơm trưa, chỉ còn một vài anh em gia
đình ở xa hoặc có hoàn cảnh đặc biệt, như Xuân Sách, Nguyễn Minh
Châu, kể cả Nhị Ca và tôi ở lại, ăn bếp tập thể. Sau này, tôi
mới biết rằng đấy là nếp sống đã sẵn có ở Văn nghệ quân đội
từ trước chiến tranh và sau mấy năm sơ tán, mọi chuyện có vẻ
đang được an bài trở lại thành thử không ai bỡ ngỡ gì hết. Riêng
đối với tôi lúc ấy thì không phải thế, thường xuyên tôi sống
trong tâm trạng bồn chồn, và cảm thấy ngôi nhà như quá rộng, căn
gác như quá vắng. Tôi chỉ vừa được chuyển về đây làm việc hồi
đầu năm; vả lại địa điểm mà tôi đến nhận công tác là một làng
quê Sơn Tây, còn đây là Hà Nội, là cái ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, mà
hồi đi học, tôi chỉ dám ngước mắt nhìn thật nhanh chứ không bao
giờ dám nghĩ được bước chân vào sống trong đó, bởi vậy làm sao
tôi không bỡ ngỡ cho được. Nhưng điều quan trọng khiến tôi sốt
sáy không yên còn là ở một điều khác: về đây nghĩa là tôi được
sống với những người mà thời đi học, tôi từng ước ao; tôi sẽ
được làm cái nghề mà trước đây tôi mơ tưởng, tôi sẽ được dự vào
sinh hoạt chung của giới sáng tác văn học mà xưa nay tôi chỉ
nghe hóng và coi là cả một sự bí mật ghê gớm. Ôi! mới ngây ngô
làm sao, những sốt sắng của tôi lúc ấy! Rất nhiều trưa, tôi đã
không ngủ, bụng dạ bồn chồn, loanh quanh đi lại trong hai tầng
gác mênh mông, rồi lại về nghĩ ngợi vẩn vơ và dù không làm gì
nữa, thì cũng như đám trẻ con hay la cà buổi trưa không sao ngủ
nổi. Chính ở điểm này, mà tôi nhận ra sự khác biệt đầu tiên giữa
mình với người đồng nghiệp cao tuổi hơn, người phụ trách trực
tiếp và cũng là người ở cùng phòng với mình. Hầu như Nhị Ca hoàn
toàn vô tâm, và cứ sống như một cái máy. Trưa nào, ông cũng đánh
một giấc đàng hoàng, trở dậy, mang chậu xuống dưới nhà, rửa ráy,
rẽ đầu ngôi đâu vào đấy, rồi mới bắt tay vào công việc. Lại ví
như khi mà thỉnh thoảng, cái buồng của bọn tôi trở thành địa
điểm để những Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Sách đến tụ
họp rồi tán phét... thì thái độ của chúng tôi cũng khác hẳn
nhau. Trong khi tôi hồi hộp lắng nghe, sẵn sàng quên cả ăn, quên
cả khách khứa để ngồi nghe, và chỉ sợ mọi người ra về quá nhanh
mà mình không nghe được những điều thú vị, thì Nhị Ca khá đủng
đỉnh. Lúc có thì giờ rỗi rãi, ông cũng ngồi đấy nhưng chỉ ngồi
để tủm tỉm cười thầm, hoặc thỉnh thoảng đế vào một hai câu cho
vui. Và có việc gì vội đi, là ông cho mọi người giải tán ngay,
rồi dứt ra thật
nhanh, chứ không một thoáng lưu luyến.
Khỏi
phải nói, trước một thái độ sống mực thước đều đều, chỉ biết
tuân theo những nhịp điệu có sẵn như thế, tôi không hiểu nổi.
Cũng may với kinh nghiệm sẵn có, Nhị Ca không lấy đó làm lạ, vẫn
từ tốn tìm cách dạy cho tôi những điều mà càng về sau này, tôi
càng thấy là thiết yếu.
Tôi
không khách sáo tí nào trong việc dùng chữ dạy ở đây cả. Thấy
bọn tôi có vẻ viết được, một cơ quan chuyên trách như Văn
nghệ quân đội lấy về làm báo và trong ánh mắt mọi người -
những nhà văn nổi tiếng - hầu như luôn luôn có sự ưu ái cùng
những khuyến khích: cố lên, cố mà viết! Chết một cái là hầu như
chúng tôi chỉ được khuyến khích để tiến lên, gạt phăng mọi trở
ngại mà lập nên những kỳ tích, nhưng còn lùi về ra sao, sống
bình thường trong nghề này thế nào, thì không có luật lệ nào quy
định, mà hầu như trong các buổi họp cũng không bao giờ có ai nói
tới. Nếu tôi không nhầm, không ít tài năng trẻ bọn tôi, bởi
thiếu sự bảo ban cặn kẽ như thế này, nên đã lầm lạc, mà về phần
tôi, nếu như có khôn ra được nào, cũng là nhờ có nhìều người,
trước tiên là Nhị Ca, thường xuyên dội cho những gáo nước lạnh.
Chẳng hạn năm ấy, anh C. là một nhà thơ, tiếng tăm lừng lẫy. Từ
chiến trường trở về, anh được chào đón như một tài năng lớn, có
người bạo miệng bảo đó là một hiện tượng giống như Apollinaire
của nền thơ Pháp hiện đại. Ai cũng yêu chiều kính nể, ai cũng
dạt ra để nhường anh đi. Trong chiến tranh, đồng tiền không có
sức mạnh vạn năng như bây giờ, và nhu cầu về tiền của mọi người
cũng chẳng là bao, nhưng C. cũng đã được nhiều người đưa tiền
hoặc tặng cho cái đài Orionton bấy giờ thuộc loại vật kỷ
niệm vào hạng quý hiếm. Có điều, với thói quen thời chiến, và sự
vô tư của tuổi trẻ, C. đối với tiền rất chểnh mảng, vứt mỗi chỗ
một ít, đến lúc sạch túi cũng không biết đã tiêu vào những việc
gì nữa! Mọi người không ai lấy làm ngạc nhiên, chỉ riêng Nhị Ca
là nói với tôi: “Loại nghệ sĩ tài tử, loại nghệ sĩ lang thang
không cần biết đến đồng tiền,
đi đến đâu cũng có người nuôi thực ra là mẫu người của các thế
kỷ trước. Ở thời này, bọn thiên tài như Picasso, Charlie Chaplin
nhìn kỹ đều là bọn kinh nghiệm lõi đời, kiếm tiền đã bợm mà giữ
tiền cũng giỏi. Ông C. nhà ta mới nho nhoe có mấy đồng bạc đã
không biết giữ lại vung tay quá trán, rồi ra còn làm được cái
gì? Cái cách coi thường đồng tiền như thế, tưởng là nghệ sĩ, là
hơn đời lắm, thực
ra là một cách sống rất cũ”.
Cũng
là tận tuỵ với nghề nghiệp, nhưng trong khi bàn về nghề, mọi
người thích nói tới sự cao sang, thì Nhị Ca thích nói những
chuyện thiết thực, nói chung gần như ông không hề bị cái danh
hiệu nghệ sĩ lừa dối, mà luôn coi đây là công việc. Theo ông,
không có gì sai, nếu bảo sự sáng tác là thiêng liêng trọng đại,
cần có cảm hứng, cần sự xuất thần. Nhưng vẫn theo lời Nhị Ca,
trong thời này mà nói, nhất lại là trong chiến tranh, còn bao
nhiêu việc trọng đại, có ý nghĩa quyết định bằng mấy. Người ta
còn phải lo gạo, lo đạn, lo cho bộ đội có tinh thần chiến đấu
v.v... Vậy thì hãy xếp cái thảng thốt của anh lại, đừng có tố nó
lên, và nhất là đừng có vớ vẩn nói chuyện không đâu, hãy lo công
việc cụ thể đi. Vâng, đừng có vớ vẩn nói chuyện đâu đâu,
đấy là lời chê trách nặng nhất mà Nhị Ca dành cho những cơn nóng
lạnh của chúng tôi. Ông không thích kiểu vớ vẩn ấy, ông thích
nói tới phần trách nhiệm mà chúng tôi phải gánh vác. Công việc
cơ quan ông làm đều đều, đến mức, không cần tinh ý lắm, nhiều
người cũng nhận ra rằng có lẽ những công chức ngày xưa cũng mẫn
cán như thế. Lại nữa, một trong những điều ông hay dặn dò tôi:
phải công bằng trong đánh giá. Trên tạp chí có tồn tại những
cách viết khác nhau, như trong cuộc sống mỗi người có cách sống
khác nhau thì cũng là chuyện tất nhiên, tác giả nào có độc giả
riêng của người ấy. Trong số những kỷ niệm về quan hệ Nhị Ca với
những người sáng tác, tôi còn nhớ như in câu chuyện sau đây. Một
lần, do vô tình thế nào đó, Nhị Ca làm cho nhà văn Hồ Phương cảm
thấy bị chê. Hồ Phương giận lắm. Khi cho in cuốn Kan Lịch,
không tặng Nhị Ca nữa. Nhưng Nhị Ca vẫn mượn Kan Lịch về
đọc tới trang cuối cùng, sau đó, bảo bọn tôi đi đặt bài viết
khen ngợi. Ông bảo riêng với tôi: “Trong khu vực sách về người
thật việc thật, Hồ Phương vẫn là tay bợm nhất”. Tôi chưa bao giờ
kể lại chuyện này cho Hồ Phương nghe, song xem đây là một bài
học đối với công việc.
Chăm
chỉ làm vậy song được cái không phải Nhị Ca cay nghiệt bắt người
ta hùng hục ngày tám tiếng như thợ đấu. Một trong những thói xấu
của tuổi trẻ - tuổi trẻ bọn tôi năm ấy và những thế hệ trước -
là đồng thời với sự thiêng liêng hoá nghề nghiệp, lại thường hơi
có vẻ khổ hạnh, lúc điên lên chỉ nghĩ đến công việc, không biết
nghỉ ngơi để giữ sức lâu dài. Dường như Nhị Ca đã có đủ kinh
nghiệm về chuyện này rồi, khoảng trống từ một lá phổi bị cắt
trong ngực đã nói với ông đầy đủ tất cả, nên ông chỉ nhìn bọn
tôi mủm mỉm, và lựa lúc tôi có vẻ nghe được, ông mới xa xôi
buông mấy lời khuyên bằng cách kể chuyện mình đã làm việc ra
sao. Một lần sau khi tặng tôi tập sách dịch, Nhị Ca bảo:
- Ồ,
có gì đâu, hè năm ngoái cơ quan cho đi nghỉ ngoài Đồ Sơn, tôi
mới mang bản tiếng Pháp đi, cùng với cuốn tự vị. Lội ra một
quãng ngâm nước mặn và nhảy sóng chán, lên vừa lau khô người là
bắt tay dịch, rồi lại nhảy tùm xuống nước, rồi lại lên dịch,
suốt ngày vừa nghỉ vừa dịch độ một tháng là hòm hòm rồi, về đọc
lại và sửa chữa là nộp bản thảo chứ gì. Năm nay, bên nhà xuất
bản Thanh Niên nó lại đang nhờ quyển nữa, rồi cũng phải
xin đi nghỉ để trả cho xong nợ mới được.
Vừa
làm vừa nghỉ, chơi trong lúc làm, làm trong lúc chơi, lối sống
của Nhị Ca, tóm lại là lối sống của một người từng trải và
biết tính chuyện đường dài có lui có tới. Hàng tuần, sau những
giờ miệt mài bên bàn làm việc đến chiều thứ bảy, nếu không có gì
bận lắm, Nhị Ca đến Câu lạc bộ quân nhân. Nhìn ông ngồi trước
vại bia mới thấy hết vẻ bình thản và lòng yêu đời của ông. Tuy
Nhị Ca không nói gì nhưng cả con người ông, cả nét mặt ông như
muốn kêu to lên: “Tôi không đòi hỏi gì hơn! Như thế này đã là
mãn nguyện lắm rồi! Được sống trên đời này đã là sung sướng lắm
rồi”. Chính đó là nhận thức chủ đạo của ông về đời sống, điều
không những ông thành
tâm hướng theo mà còn muốn mọi người cũng tin theo như vậy.
Sở
dĩ bảo sự tỉnh táo là phẩm chất chủ yếu làm nên định hướng phê
bình văn học của Nhị Ca, bởi trước khi có quan hệ với cách viết
của ông, nó quan hệ tới cuộc sống của ông nữa.
*
* *
Là
một nhà văn nổi tiếng, song Tô Hoài thường lại có sự cảm thông
riêng với những khốn khó của nghề cầm bút: không ít phen ông đã
để công viết về những đồng nghiệp bất hạnh trong viết lách, tức
những người ham muốn nhiều mà lực bất tòng tâm, sống lom đom
nhợt nhạt, kéo lê cả cuộc đời giữa giới sáng tác. Có lẽ, là do
được sự cổ vũ ngấm ngầm của Tô Hoài mà có lần nhân nói chuyện
với ông, tôi đã buột miệng:
-
Đúng là có thuộc loại như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, hay Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu thì hãy nên trở thành nhà văn! Chứ còn đa
số chúng tôi, cơm vãi cơm rơi, giá có nói tên lên cũng chẳng ai
người ta nhớ tới một tác phẩm nào của mình, cả một đời sống với
văn chương vẫn hoá ra đứng ngoài, lắm lúc nghĩ lại chua xót lắm.
Quả
thực sau mấy chục năm dang dở với nghề, cho đến những năm tuổi
gần sáu chục này, tôi vẫn nghĩ thế!
Tuy
nhiên, nhìn đi nhìn lại chung quanh, thấy những nhân vật gọi là
hàng đầu của sinh hoạt văn học một thời, thật ra chỉ độ mươi
người - còn ra loanh quanh cũng loại ẩm ương như mình. Chính số
đông này làm nên vẻ tấp nập thông thường của đời sống văn
chương. Vả chăng sẽ là còn phiến diện, nếu đánh giá một con
người, mà chỉ tính đến tài năng. Trong khi tài năng phụ thuộc
không ít vào những năng khiếu thiên bẩm thì giá trị của con
người còn phải được đo tính căn cứ vào cái nhận thức cơ bản của
người đó về cuộc đời, và về chính mình, cái bản lĩnh của con
người đó trong việc tìm ra và theo đuổi một cách sống thích hợp
với bản thân, tiếp theo là cái nghị lực để đi đến cùng trên con
đường đã chọn.
Còn
nhớ Xuân Sách, cây bút tinh đời, đáo để, kẻ đã làm ồn một dạo
bởi những bài thơ chân dung viết về các đồng nghiệp, Xuân Sách
đó có lần nửa đùa nửa thật nói với Nguyễn Minh Châu (vốn là cùng
xuất phát, nhưng sau đi được xa hơn nhiều, so với Xuân Sách):
-
Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn
chúng tôi chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà
văn, lẽ ra anh phải thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới
phải! Cũng nên sớm học tập cách kính trọng bọn không nổi tiếng
đi thì vừa. Vì trong cái bọn không nổi tiếng ấy, khối tay, về
mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy anh đấy!
Dường như Xuân Sách không chỉ nói riêng với Nguyễn Minh Châu, mà
còn nói chung với nhiều người khác.
Riêng với tôi, một người làm phê bình, lại thích viết về cuộc
đời các nhà văn, thì mấy lời tâm huyết ấy của Xuân Sách là cả
một gợi ý. Tôi cũng rất muốn vẽ cho ra khuôn mặt những con người
không chói lọi trong nghề, những người thoạt nhìn mờ mờ nhân ảnh
mà xét kỹ lại hoá ra rất bản lĩnh. Nhận ra một sự thực - ở đây
là nhận thức thấu đáo bản chất một tính cách - luôn luôn là thú
vị. Nhưng nếu như trong quá trình nhận thức ấy, bản thân mình có
sự tự vượt lên, tức ban đầu hiểu về người ta thế này, sau lại
nghĩ được khác đi, nghĩ sâu hơn và tìm ở người mình quen những
khía cạnh mới, thì sự thú vị lại càng tăng lên gấp bội. Câu
chuyện về Nhị Ca ở đây, là nằm trong cái mạch đó. Từ lúc nào
không rõ, tôi cảm thấy trước mặt tôi không chỉ có một con người
nặng chất công chức, làm đều đều việc hàng ngày, mà còn có một
nghệ sĩ với niềm tin riêng và cách sống riêng. Trong sự gắng gỏi
để sống, bắt đầu từ bản năng thích ứng, con người đó dần dà hun
đúc cho mình những lý lẽ để tin theo, và bởi lẽ sự gắng gỏi quá
lớn, cuộc sống giành được phải qua quá nhiều dụng công, nên cái
chất ngọc hun đúc được kia, cũng không phải bình thường, mà là
một cái gì độc sáng, quái lạ. ý tôi muốn nói đến một chút hư vô
ở Nhị Ca, hư vô với nghĩa chấp nhận đời sống, vượt qua mọi quy
phạm cứng nhắc thông thường để quan niệm rằng, đời sống này
chẳng bị ràng buộc bởi cái gì hết, chỉ riêng nó là có nghĩa, và
làm sao tồn tại được, thế là anh thắng rồi, anh có thể yên tâm
với cái anh có. Với những ai kia, hư vô là chuyện đâu đâu, song
với Nhị Ca, hư vô chỉ có nghĩa như vậy. Cái điều thoạt nhìn
tưởng như xa xỉ, hoá ra lại đã nảy sinh một cách tự nhiên, nó là
một thoáng sương khói mông lung mà mọi người bình thường đều cảm
thấy, chẳng qua không gọi tên ra rành mạch đấy thôi; nói cách
khác, nó là những thoáng triết lý mà phàm còn sống người ta còn
cần tới sự trợ giúp của nó. Như ở Nhị Ca mà tôi đang kể, một
thoáng hư vô là rất cần cho một người ốm và từng cảm thấy bất
lực như ông, nên trong đời sống hàng ngày,
hầu như không có việc gì ông không viện dẫn tới nó. Trở lại câu
chuyện hàng ngày Nhị Ca sinh hoạt và làm việc đều đều như một
cái máy. Mới đầu, tôi tưởng không gì dễ hơn, chỉ mãi về sau mới
hiểu được rằng không gì khó hơn chuyện đó. Dường như đã nhận ra
sự tỉnh ngộ của tôi - nghĩa là biết tôi đã công nhận ý chí của
mình, trong việc tạo nền nếp cho đời sống và một thoáng hư vô
sau cái nhịp sống mực thước ấy - Nhị Ca tâm sự:
-
Các ông nghệ sĩ cứ hay vớ vẩn nói chuyện hứng thú. Từ góc độ một
thằng đau ốm như tôi mà nói, thì tất cả là lý trí. Cả đến ăn
cũng phải có lý trí. Khốn nạn, đang ốm, nhiều khi có thấy ngon
lành gì đâu, nhưng cần phải ăn là ăn, tự nhồi mình như nhồi vịt
vậy. Rồi sẽ thấy thích và quan trọng hơn rồi sẽ thấy khoẻ.
Sau
sự kiện Mậu Thân, từ đầu những năm 70 khi cuộc chiến có chiều
kéo dài, và đời sống thời chiến bộc lộ nhiều điều không như ý
muốn, anh em gặp nhau thường có ý kêu ca rằng sao dạo này con
người như ác với nhau quá, tệ bạc với nhau quá, Nhị Ca bác đi
một cách đơn giản:
-
Chẳng có sự suy vi nào như các ông nói cả. Chẳng qua xếp hàng
mua mì mua thịt khó một chút, điện nước thường xuyên chập chờn
một chút, nên người ta dễ sinh ra cáu giận rồi độc ác vậy. Mai
kia, mọi chuyện dễ dàng, người ta lại xởi lởi với nhau ngay đấy
mà.
Luôn
luôn, ông trở về với mình nhưng cũng luôn luôn, ông nâng mọi
chuyện lên, thành những nguyên lý:
-
Xưa nay tôi vẫn thấy cần quan niệm như duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử vẫn dạy, tức là hoàn cảnh tạo nên tính cách con
người. Khi tôi còn khoẻ, tôi làm đủ việc, tôi phụ trách đội cổ
động tuyên truyền cho kháng chiến, tôi làm trợ lý, tôi đi họp về
văn nghệ rồi tôi làm thơ, thơ in đá ấy mà, có ra gì đâu, nhưng
mà đã in ra, tóm lại là tôi đủ việc như mọi người. Còn bây giờ
tôi ốm thì tôi làm việc theo kiểu bây giờ, không thể phung phí
sức lực như những người đang khoẻ và chính mình lúc đang khoẻ.
Ông chưa thể hiểu hết tâm trạng của một người ốm nặng trở về,
đơn giản là vì ông chưa ốm, thế thôi. Nhưng
ông phải nhớ xưa kia, tôi cũng như ông và nếu rơi vào hoàn cảnh
tôi, ông cũng sẽ như tôi. Chúng ta chẳng có gì là khác nhau cả.
Trước một con người có tính cách ổn định như Nhị Ca, ổn định
trong cái thế nhiều tầng lớp đa dạng khuất khúc của nó, không
phải chỉ riêng tôi, mà nhiều nhà văn khác ở Văn nghệ quân đội
hồi ấy cũng có những điều phải suy nghĩ. Một trong số đó là
Nguyễn Minh Châu. Tác giả Cửa sông, Dấu chân người lính
hồi ấy còn ở tập thể nên những lúc rỗi rãi cũng ngồi đấu hót đủ
chuyện linh tinh với bọn tôi. Và Nguyễn Minh Châu đó từng đùa
cợt mà doạ:
-
Lúc bí, thể nào mình cũng lôi mấy thằng phê bình ra mà viết mới
được. Thò tác phẩm nào của mình ra chúng nó cũng nhận xét với
lại phê phán, rồi không chỉ viết về cuốn tiểu thuyết hay tập
truyện ngắn, mà còn viết về cả con người mình ở đằng sau tác
phẩm nữa. Thế thì tại sao, mình không viết một truyện, lấy nhân
vật chính là Nhị Ca, một truyện khác lấy nhân vật chính là cái
thằng Nhàn này này.
-
Viết ra sao? - Tôi hỏi lại.
Dường như chưa quên những sốt sắng ngây ngô hồi nào của tôi, nó
đối lập với bao nhiêu từng trải, bao nhiêu lõi đời của Nhị Ca,
Nguyễn Minh Châu nói một cách hình ảnh:
- Để
viết riêng về Nhị Ca không thôi, tôi sẽ tả một nhân vật sống
giữa căn phòng được kẻ ô cẩn thận và nhân vật đó sẽ luôn luôn
vừa đi vừa xác định:
“A,
mình đã đi đến mi-li-mét này rồi!”
“A, còn đang thiếu mấy xăng-ti phải cố cho
kịp!”
Còn
như để viết về sự oái oăm của cuộc đời, tôi sẽ tả một căn phòng
có hai thằng một già một trẻ. Thằng trẻ đêm ngày thảng thốt đi
lại, đấm cửa thình thình. Còn thằng già sẽ đắp chăn kín đầu, và
chỉ thỉnh thoảng, bị quấy rầy quá mới thò cổ ra mà tuyên bố
rằng: “Chỉ có điên mới lúc nào cũng húc đầu vào tường để tìm tự
do rồi lại mình túm ngực mình băn khoăn, không hiểu rằng mình
đang hạnh phúc hay bất hạnh”.
Giữa
người với người, sự hiểu được nhau, không phải là lúc nào cũng
dễ dàng, có điều suy cho cùng, ai thế nào đến vợ con mình cũng
biết, nữa là các đồng nghiệp viết văn. Không phải là tôi quá đề
cao nghề này, song những bài học cụ thể tôi học được ở Văn
nghệ quân đội, dạy tôi như vậy. Trong số những cây bút chủ
lực của cơ quan tôi năm ấy, Nguyễn Minh Châu là một người rất có
tài, và có năng khiếu. Cách sống của ông Khúng, dĩ nhiên,
là có khác cách sống của Nhị Ca, bởi thế lúc hứng lên Nguyễn
Minh Châu không khỏi có ý chế giễu cái tính quá công chức của
ông bạn lớn tuổi. Nhưng có dịp cùng sống với cả Nhị Ca lẫn
Nguyễn Minh Châu, tôi biết là từ chỗ xa lạ, dần dần Nguyễn Minh
Châu cũng đã nhận ra cái bản lĩnh hơn người của Nhị Ca. Sau lưng
Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu thường không ngớt lời khen: “Ở cái nhà
này, không thằng nào lọc lõi bằng Nhị Ca”. “Cứ bảo ông Khải lạnh
lùng với lại hoài nghi! So với Nhị Ca, Khải còn trong sáng chán,
không biết chừng có lúc còn phải mang giấy bút đến mà nghe Nhị
Ca giảng kia đấy”. “Tìm tòi cái gì, cuối cùng chúng ta sẽ rơi
vào sự biết điều mà cũng là cái trung dung của lão Nhị Ca hết!
”. Ấy, sở dĩ cái giọng của Nguyễn Minh Châu mỗi khi nói về Nhị
Ca ngày càng có vẻ dịu dàng hơn ưu ái hơn, lý do là vì như thế.
*
* *
Lúc
còn làm việc bình thường, Nhị Ca sẵn có thái độ trân trọng với
lớp người đi sau. Ông tin khi mình không làm việc nữa, sẽ có
những người khác làm, và nửa đùa nửa thật, ông bảo biết đâu, khi
mình gặp chuyện khốn khó, những người đó chả giúp mình được ít
nhiều!
Những tưởng đó chỉ là những điều Nhị Ca vui mồm nói chơi nào
ngờ, trong đời ông, lại có lúc trở thành sự thật: Sau khi từ Tạp
chí Văn nghệ quân đội chuyển qua Hội liên hiệp văn học
nghệ thuật Việt Nam ít lâu, Nhị Ca bị đứt một bên mạch máu não,
phải nằm liệt một chỗ, trong khi bản thảo cuối cùng, cuốn
Gương mặt còn lại - Nguyễn Thi còn dang dở. Một đồng nghiệp
trẻ của ông, anh Ngô Thảo, đã gánh vác việc hoàn chỉnh chuyên
khảo này của Nhị Ca, nhờ đó, cuối năm 1983 cuốn sách được in ra,
trong sự vui mừng, hơn nữa, sự thanh thản của Nhị Ca: những gì
làm được, ông đã làm, có thể yên tâm ra đi.
Suốt
bốn năm nằm trên giường bệnh, Nhị Ca vẫn tỉnh táo nghỉ ngơi, ăn
uống (ăn uống lúc này lại là một công việc), chịu đựng mọi đau
đớn, sẵn sàng chấp nhận những tai hoạ sẽ tới. Và khi có điều
kiện, ông đọc sách, suy nghĩ về đời sống, nhớ lại mọi vui buồn
trong hơn năm chục năm làm người của mình. Nhiều bạn bè đến thăm
ông không khỏi ngạc nhiên, bởi thấy người bệnh còn quá tỉnh,
thân thể thì héo tàn đi, nhưng đầu óc sáng suốt thêm, không oán,
không giận, từ tốn hỏi chuyện anh em đang khoẻ đang làm việc. Có
hôm ông đùa bỡn bảo tôi: “Có phải đứa nào cũng hỏi thăm rằng Nhị
Ca đã chết chưa phải không?”. Lần khác, nghe nói hai người bạn
trẻ một nam, một nữ tính chuyện gắn bó với nhau, mà lại ngượng
ngùng, giấu diếm, ông nhắn: “Về bảo với chúng nó, đừng tranh
cướp của người khác, đừng phạm pháp là được, còn bằng tài năng
của mình, bằng lao động của mình, ai thêm được một bát cơm ngon
cứ ăn, một chén rượu ngon cứ uống, một mối tình tốt đẹp cứ
hưởng. Nhân danh một thằng sắp chết tôi muốn nói với mọi người
như vậy”. Trong giọng nói đã lạc đi của ông, trong nụ cười nhiều
khi không thành của ông, trước mắt chúng tôi vẫn là một Nhị Ca
tha thiết với đời sống này. Lại nhớ những kỷ niệm về cuộc sống
một thanh niên Hà Nội cũ, mà lúc vui chuyện, ông từng kể. Lại
nhớ những lúc mắt ông sáng lên bên chén rượu. Lại nhớ những lúc
ông sau giờ làm việc, ngất ngưởng cái mũ vải trắng trên đầu hoà
nhập một cách tự nhiên vào đường phố Hà Nội, và sau 1975 là
đường phố Sài Gòn, hoà nhập vào đó, để rồi mất hút đi, với cuộc
đời riêng trong đó hết sức thoải mái. Ông bảo tôi nếu còn khoẻ,
sau Nhà thờ Đức bà Paris, ông rất muốn dịch tập
Décaméron (tức Mười ngày) của Bocaccio, một cuốn sách
ca ngợi hạnh phúc trần tục ngay trong cuộc đời chúng ta đang
sống. Nhị Ca không làm hết mọi điều ông đã ước muốn, song tinh
thần của cái cách sống mà ông tuân theo, chúng tôi thấy cần ghi
nhận, bởi ngày càng thấy trong sự dễ dàng của nó, không chừng đó
là cách sống phù hợp với đám đông chúng sinh mặt trắng là tôi,
là anh, là rất nhiều kẻ tài năng làng nhàng chúng ta. Có phải tự
con người thích triết lý nọ kia đâu, chẳng qua đời sống thúc ép
nên người ta phải cố nghĩ ra những lý lẽ để tự vệ; trong thuở sơ
khai của nó, các triết lý đều hình thành như vậy, và bao giờ nó
cũng được tiếp nhận, tuỳ theo hoàn cảnh.