Cây
bút, đời người
Vương Trí Nhàn
|
Nguyễn Thành Long
và một cuộc sống khác
I
Những
năm 1966-1967 – mà đôi khi người ta hay gọi tắt là khoảng đầu chống
Mỹ – khi Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật và nhiều người khác bắt đầu viết đều
và cũng hay đến chơi đều đều những người viết văn lớp trước, thì một
trong những nơi các anh hay đến và rủ tôi cùng đến, là nhà Nguyễn
Thành Long. Giờ đây, căn phòng gần ba chục mét của anh Long ở phố Dã
Tượng có vẻ đã quá hẹp, người lạ đến chơi thật dễ ái ngại khi nghĩ
trên diện tích ấy, cả gia đình (hai vợ chồng và hai cháu gái) cùng
cư ngụ. Song trong con mắt chúng tôi những năm cuối 60 đầu 70, căn
phòng ấy đã quá rộng: đối với một người viết văn, một chỗ ở như thế
thật đã gọi là lý tưởng(!). Anh Long ngày ấy mới trên bốn mươi, song
dáng vẻ thì cũng như lúc về già, nghĩa là mảnh mai gầy gò bước đi
lẫn cách nói chuyện đều chậm rãi, chắc chắn. Trông anh lúc nào cũng
như chìm trong suy nghĩ. Cái đầu khá to khiến cho nét mặt đăm chiêu
thêm trĩu nặng hơn. Anh hay hỏi han chúng tôi về đời sống riêng tư.
Vào cái thuở mà giới viết văn còn sống thân mật như trong một gia
đình, với chúng tôi, đấy là một người anh gần gũi. Trong đám anh em
ít tuổi anh nào yêu cô nào hay dẫn cô nào đến chơi anh đều ủng hộ và
sẵn sàng làm một thứ trung gian móc nối thêm. Khoảng đầu 1968, khi
đám cưới Đỗ Chu tổ chức trên thị xã Bắc Ninh, anh lấy xe đạp đèo chị
Nguyệt vợ anh vượt 29 cây số về dự. Cố nhiên sự quan tâm chính của
anh dành cho chúng tôi vẫn là sáng tác. Dễ không ai lại chăm đọc anh
em viết trẻ như Nguyễn Thành Long. Và trước vô số những câu hỏi về
nghề nghiệp, cả những câu hỏi thông minh lẫn những câu ngớ ngẩn do
bọn tôi đặt ra, thường anh ngẫm nghĩ tìm câu trả lời thật gọn, nhưng
cũng thật thấu tình đạt lý. Đại khái, anh thường đi tới những kết
luận giản dị:
- Nghề
của mình khó lắm.
- Phải
biết trân trọng nhau, được người nào quý người ấy.
- Trước
khi tính chuyện viết lách, phải lo bảo ban nhau về cách sống. “Sống
sai là viết sai ngay” - Nguyễn Thành Long nói dứt khoát như hai với
hai là bốn.
Trong ý
nghĩ của một
số người chúng tôi hồi ấy, Nguyễn Thành Long là nhà văn vừa có vốn
liếng thực tế vừa có học, lại có tấm lòng đôn hậu. Tài năng của anh
là do công phu mà nên, có vẻ nó như một thứ tài có thể cố mà được,
nên chúng
tôi càng thấy gần.
Về sau
này, sự lại chơi của một số anh em trẻ với Nguyễn Thành Long có thưa
thớt hơn. Song ân tình cũ thì mãi mãi vẫn còn - trên bước đường đời
của mỗi người, thật nhiều kỷ niệm là những bước chập chững đầu tiên
và những người giơ tay đón ta lúc ấy, bao giờ ta quên nổi! Huống
chi, một người như Nguyễn Thành Long, trong cuộc sống hơn 40 năm cầm
bút, thật đã đi đến cùng trên con đường đã lựa chọn, và một cuộc đời
như vậy nếu không phải để ta theo thì cũng luôn luôn để cho người ta
phải so sánh, đối chiếu, rút kinh nghiệm. Ai đó đã nói chí lý “Cuộc
sống bao giờ cũng cao hơn cái chết, ít nhất là một cuộc đời. Nếu
không có cái để mà sống thì cũng làm gì có cái để mà chết”.
II
Khi nhớ
lại quá trình sáng tác Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long có
lần kể rằng nếu chỉ viết riêng về các nhân vật ở trạm khí tượng thì
hơi khó. Nên sau khi đã có tài liệu đầy đủ, để lên được truyện ngắn,
anh phải thêm vào nhân vật người hoạ sĩ già. Người hoạ sĩ này, cũng
tương tự như vai nhà báo trong Buổi sáng Điện Biên, hoặc một
nhà báo khác trong Sớm mai nào xế chiều nào không chỉ là loại
nhân vật dẫn truyện, mà còn là hình ảnh tốt đẹp của một loại người
khác, những người làm nghề sáng tạo. Nét đặc biệt của các nhân vật
này: họ đều hay đi, say đi, thích xem xét công việc mọi người đang
làm. Tâm hồn ở họ rộng mở và họ biết chan hoà vào chung quanh, chia
sẻ vui buồn cùng mọi người. Và đặc biệt dưới cái bề ngoài lặng lẽ,
họ thích đơn độc trong những suy nghĩ về mình và về chung quanh.
Không còn ở lứa tuổi thanh niên nữa, nhưng tâm hồn mỗi người thường
trẻ trung tươi tắn.
Khỏi
phải nói, hình ảnh những nhà báo nhà
văn hoạ sĩ nói ở đây chính là hình ảnh của
Nguyễn Thành Long.
Một lần
cùng đi công tác với Nguyễn Thành Long lên Tuyên Quang, tôi bất ngờ
nhận ra rằng sao nhà văn này đi nhiều và bạn với nhiều người đến
thế. Đến nông trường này, anh có người quen, đến bệnh viện kia, hỏi
thăm một lúc, anh lại nhận ra người quen khác, mà toàn là những bạn
bè biết nhau sau các chuyến đi thực tế. Họ là giám đốc nông trường,
giám đốc mỏ, các đội trưởng lao động, các công nhân... Nơi làm việc
của họ đôi khi là những nhà máy xí nghiệp cũ kỹ, sống lay lắt tại
một miền quê xa xôi hay một miền rừng heo hút nào đó. Vậy mà một lần
Nguyễn Thành Long đã đến, đã ngồi hàng giờ nghe họ tâm sự, đã đưa
cuộc đời họ vào các sáng tác của mình. Thậm chí, sau khi đã viết
xong, Nguyễn Thành Long vẫn cứ còn nhớ mãi về họ, xem họ như bạn bè,
có dịp là nhắc tới họ với những lời thương mến.
Hồi mới
vào nghề - cũng là dịp hay đến với Nguyễn Thành Long - tôi tưởng
cách quan hệ, cách làm việc như thế đã là tất cả công việc phải làm
đối với một người viết văn. Mãi về sau, tôi mới hiểu rằng mặc dù đó
là cách làm việc chăm chỉ, lương thiện nhưng vẫn chưa đủ. Nhà văn
cần một cái gì hơn thế nữa: Cần sự nhập thân vào hẳn một mảng một
khu vực của đời sống (Khu vực theo nghĩa rộng, khu vực
của những vui buồn sung sướng hay thất vọng, chứ không phải khu vực
địa lý). Cần sống chết với các nhân vật riêng mình có, sống chết với
những vấn đề thiết thân mà mình tự đặt ra và giải quyết. Nói chung
là cần viết bằng những ao ước băn khoăn vui buồn hàng ngày của mình,
chứ không phải chỉ lo quan sát, ghi chép về người khác. Tôi không
đảm bảo là Nguyễn Thành Long không có những điều kiện làm nên chất
văn như thế. Nhưng có vẻ như anh không thường xuyên huy động đến nó,
cả đời cầm bút ít khi anh viết cho mình, nên thường anh chỉ có những
truyện ngắn kỹ về câu cú chữ nghĩa, giỏi về dẫn truyện hoặc tạo
không khí, trong đó có phác hoạ ra vài con người làm cảnh, chứ không
có cái mà người ta gọi là thế giới riêng. Kết quả là những chuyến
đi, và những cái viết ra của anh sau các chuyến đi cứ na ná giống
nhau, cái sau sa vào vết mòn của cái trước... Nhưng thôi phán xét về
những điều một nhà văn không làm, là điều nói không bao giờ đến
cùng! Trước mắt, hãy biết Nguyễn Thành Long có cái cách đi cách
viết, cách hình thành tác phẩm riêng và công việc đó đã được anh làm
nghiêm chỉnh, tận tuỵ. Đối với những người mới viết, đó là những
điều cấp thiết bậc nhất.
III
Một khía
cạnh khác làm nên sự lương thiện trong quá trình hành nghề của
Nguyễn Thành Long là khả năng sống một cách hết lòng với các việc cụ
thể trước trang giấy trắng.
Chỉ cần
đọc một đoạn văn ngắn của Nguyễn Thành Long, người ta có thể nhận ra
ngay rằng đấy là một người viết kỹ lưỡng. Từng câu một được anh cân
nhắc, câu sau không phải cứ nảy sinh tuồn tuột từ câu trước, mà mỗi
câu đều đòi hỏi công sức riêng, năng lượng riêng cho nó. Chữ Nguyễn
Thành Long sít, chặt, nhỏ nhưng dễ đọc. Cả các truyện của anh cũng
thế. Đi đâu về, anh cũng muốn viết, và không phải chỉ viết ký thôi,
phải viết truyện mới hả! Viết như một món nợ! Và người viết này rất
sòng phẳng, rất muốn trả nợ cho đâu vào đấy! Thế là có thể anh ngồi
hàng tuần hàng nửa tháng để hý hoáy xếp đặt, dàn truyện. Và có khi
để hàng vài tháng, để viết một truyện ngắn. Còn nhớ có lần Nguyễn
Khải, thấy Nguyễn Thành Long sáng tác theo lối câu dầm vậy, đã nửa
đùa nửa thật hạ một câu vui vẻ:
- Viết
thế thì đói là phải!
Bản thân
Nguyễn Thành Long cũng nói về mình đại ý: “Nhưng có lẽ là giời đầy
tôi, tôi cứ phải lo nhận xét, ghi chép, và đắn đo ở từng chữ như
vậy”. Có cảm tưởng là Nguyễn Thành Long rất nghiệt với mình, với
nghề của mình, và trong niềm đau khổ đang phải chịu đựng anh lại
ngấm ngầm cảm thấy có niềm sung sướng. Nếu có một thứ tôn giáo phụng
thờ ý nghĩa thiêng liêng của nghiệp cầm bút thì Nguyễn Thành Long là
một tín đồ nồng nhiệt của tôn giáo đó. Tôi nhớ những lần nói chuyện
với anh về đời sống văn học nói chung. Giữa những người viết với
nhau, sự đọc nhau vừa là tình cảm, vừa là công việc, nếu có khắt khe
một chút, thì cũng là chuyện thường tình. Nguyễn Thành Long chăm đọc
người khác, và quả thực, thuyết phục được anh, không dễ dàng chút
nào. Nhưng cái sự yêu cầu cao như vậy, là một cách để Nguyễn Thành
Long biểu hiện niềm tin của mình với một ngòi bút nào đó. Ngược lại
điều mà tôi nhớ nhất, là những lúc Nguyễn Thành Long phát hiện ra kẻ
làm ăn cẩu thả. Anh dễ dàng đỏ mặt lên vì ngượng thay cho người đó.
Không nói chi nhiều, anh chỉ nhắc đi nhắc lại: “Viết thế là tầm bậy!
tầm bậy”, nhưng chỉ một câu đó thôi, đủ nói lên thái độ của anh là
thế nào!
IV
Chẳng
những thành kính kỹ lưỡng trong lao động cụ thể - phải nói là ở
Nguyễn Thành Long, nghề viết văn còn được hiểu như một sứ mệnh
thiêng liêng, một công việc của cả đời người, không một chút nào
người ta được phép dễ dãi.
Đây có
lẽ là một quan niệm về văn học thấy có ở nhiều người, nhất là những
người lớn lên và làm văn nghệ từ sau 1945 trở đi. Cùng với khói lửa
của cuộc chiến tranh, những trang sách trang báo của chúng ta đã ra
đời và trở thành vũ khí, được trang nào quý trang ấy. Lâu dần, cái ý
nghĩa cao quý mà chúng ta mang lại cho nghề văn càng trở thành một
sự tự ràng buộc. Nguyễn Thành Long là một trong những người chấp
nhận sự ràng buộc đó vừa tự nguyện vừa thích thú.
Ở
chỗ này, tôi nhớ một chi tiết có ý nghĩa đối chiếu:
Để phác
hoạ lại sinh hoạt văn chương nước mình hồi đầu thế kỷ, nhà văn
Nguyễn Công Hoan từng viết Đời viết văn của tôi. Sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Công Hoan rất đồ sộ, trong các truyện ngắn
truyện dài của ông, các nhà phê bình đã tìm được nhiều điều có ý
nghĩa. Vậy mà ngay từ khi đang viết khoẻ cũng như về cuối đời khi
nhìn lại quá trình viết của mình, Nguyễn Công Hoan vẫn không khỏi
ngả sang một cách nói bông đùa. Ông viết: “Làng văn, từ xưa đến giờ,
quả là cái chợ”. Khi đọc đến chỗ này, Nguyễn Thành Long không bằng
lòng. Trong cuốn Đời viết văn của tôi (bản của Thư viện Hội
Nhà văn Việt Nam) bên cạnh câu văn trên của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn
Thành Long ghi bằng mực đỏ hai chữ “nói bậy”.
Xét
trong quan hệ hàng ngày, giữa hai người không có chuyện gì. Trong
khi kể lại những kỷ niệm về đời văn của mình với Hà Nội, Nguyễn
Thành Long thường vẫn nhắc nhở đến sự giúp đỡ của Nguyễn Công Hoan.
Trước 1975, gia đình cụ Hoan ở Hàng Bông Nhuộm, nhà Nguyễn Thành
Long ở Dã Tượng, hai nhà rất gần nhau. Thường khi, nếu tối hôm
trước, đài phát thanh có đọc bài nào của Nguyễn Thành
Long, thì hôm sau, Nguyễn Công Hoan đi đâu vẫn rẽ vào nhà Nguyễn
Thành Long chơi, để nêu một vài
nhận xét thân tình.
Thế
nhưng, đứng về quan niệm nghề văn, những ý nghĩ bông đùa của Nguyễn
Công Hoan là điều mà Nguyễn Thành Long hoàn toàn không thể chia sẻ.
Sự
nghiêm trang của Nguyễn Thành Long cũng như sự bông đùa ở Nguyễn
Công Hoan có lẽ là hai phía có thật, cùng có ở nghề văn, cùng có ở
cuộc đời này nói chung. Những nhà văn lớn trên thế giới, thường cùng
lúc, cảm thấy cả hai phương diện ấy của cùng một đối tượng. Nhà văn
Pháp Simone de Beauvoir có lần bảo: “Thật là buồn khi nghĩ rằng nghề
văn có lắm ý nghĩa đến thế, trong khi nó chỉ có thế”. Một nhà văn
khác: “Kiếp nhân sinh nghiêm chỉnh một cách rầu rĩ”. Một nhà văn
khác nữa: “Cuộc đời là một tấn hài kịch, nhưng đó là cái trò hài
khiến người ta cười ra nước mắt”. Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Thành
Long thì khác, mỗi người sống với một phía của cái chân lý hai mặt
nói trên, và đẩy nó đến cùng. Về trường hợp Nguyễn Công Hoan, đấy là
câu chuyện chúng ta sẽ bàn trong một dịp khác. Còn về Nguyễn Thành
Long, thì có thể nói ngay rằng không phải là anh lên gân lên cốt gì
cả, mà tự anh đã nghĩ thế. Một trong những nhà văn chơi thân với
Nguyễn Thành Long là Huy Phương có lần nói đùa với tôi: “Ông Long là
cái loại nhà văn khi viết toàn ngước nhìn lên các ngọn cây” - theo
tôi hiểu, ở đây Huy Phương muốn nói đến một thứ tâm thế học trò ở
ngòi bút nhiều người đương thời, trong đó có Nguyễn Thành Long và ở
một dạng nào đó, ở chính Huy Phương nữa. Cái chất thư sinh sẵn có
ban đầu trong ta không mất đi với thời gian, mà thật kỳ lạ (hay thật
khốn khổ?), nó cứ theo ta trong suốt cuộc đời cầm bút. Và rút cục
cái yếu tố dẫn người ta đến với nghề đôi khi lại là yếu tố giữ người
ta lại, không sao bay lên được!
V
Theo như
chính Nguyễn Thành Long từng kể, thì trước 1945 tức hồi còn học tú
tài ở Hà Nội, anh đã có bài viết, in trên Thanh nghị là một
tờ báo tập hợp được nhiều trí thức có uy tín thời ấy. Con đường đi
của người trí thức trong lòng xã hội thuộc địa, từng là vấn đề day
dứt lòng anh, và trở thành chủ đề của một vài cuốn sách - chắc chắn
là còn non nớt và còn chưa kịp xuất bản - của anh bấy giờ. Vấn đề
trí thức cũng sẽ ám ảnh Nguyễn Thành Long trong suốt cuộc kháng
chiến: một mặt lăn lộn với công nông không bỏ qua một chuyến đi thực
tế nào đó Chi hội văn nghệ Khu Năm bấy giờ tổ chức; mặt khác, luôn
luôn anh sục sạo săn tìm sách vở để xem người khác đã làm văn nghệ
như thế nào, và bản thân mình nên làm theo cách nào. Trong hoàn cảnh
của Khu Năm xa xôi, các anh vẫn tìm đọc từ Người mẹ, Suối thép,
Người Xô viết chúng tôi cho tới cả Sự hồi sinh của nền
văn hoá Pháp của Garaudy. Đúng theo cách làm của kháng chiến,
sau khi đọc xong một số tác phẩm anh đã tóm tắt lại để người khác
cùng đọc. Bởi vậy, trong danh mục sách của Nguyễn Thành Long đã in ở
Khu Năm, mới có cuốn Kể lại một số tiểu thuyết Xô viết. Và về
sau, khi làm báo Văn học, Nguyễn Thành Long còn viết nhiều
bài về văn học nước ngoài, ký tên Phan Minh Thảo, cũng như nhặt ra
kinh nghiệm viết văn của nhiều người in rải rác, rồi sau tập hợp
thành cuốn sách nhỏ, mang tên Sổ tay viết văn ký tên Lưu
Quỳnh.
Có lẽ
những chi tiết này càng cắt nghĩa rõ thêm về sự hấp dẫn của Nguyễn
Thành Long đối với một số anh em viết trẻ những năm đầu chống Mỹ mà
trên kia tôi vừa nhắc tới. Trong căn phòng chật hẹp của Nguyễn Thành
Long lúc ấy, thỉnh thoảng đến chơi, tôi thường gặp Chính Yên, Huy
Phương, Trần Đĩnh, về sau là Ngô Quân Miện và một vài người khác.
Ngoài những mảnh vụn thời sự trong nước quốc tế, cùng những “chuyện
làng chuyện xóm” lặt vặt vơ vẩn xảy ra hàng ngày trong giới cầm bút,
tôi thấy đặc biệt ở nhóm bạn của Nguyễn Thành Long có một loại
chuyện khác. Những cuốn sách tiếng Pháp (thường là loại sách bỏ túi)
mà Hội Nhà văn được biếu, các số Lettre
Francaise, Europe, Lettres Sovietique, Revue Roumanie...
về đều đều được các anh truyền tay, kèm theo những nhận xét như của
người trong cuộc:
- Thế
mới biết đảng Pháp họ quý một nhà văn ngoài đảng như thế nào. Elsa
Triolet chết mà L’humanité viền đen cả mấy số liền.
- Bản
dịch Con người năm tháng cuộc đời của Ehrenburg vừa được nhà
Gallimard cho in. Khối chuyện được xới ra, bây giờ mọi người
mới thấy có lý. Về già mà Ehrenburg còn bợm thật. Người ta bảo đọc
xong cuốn hồi ký này, tự nhiên không ai muốn giở lại tiểu thuyết của
ông ta nữa.
- Cái
tay Kataev cũng lạ. Hồi ký gì mà như đánh đố, vừa thật vừa giả.
Nhưng mà một cuộc đời như thế thì phong phú thật. Hình như Elsa
Triolet có nói ở đâu đó rằng vì Kataev mà Maiakovski tự tử đấy.
- Chỉ là
giọt nước cuối cùng thôi.
- Nói
xuôi nói ngược gì cũng cần sự thật. Chính tôi thích hơn cả, lại là
cách viết trần trụi của Malaparte. La Peau mới thật là khinh
bạc cay đắng mà lại quý phái chứ.
... Giờ
đây, hơn hai chục năm đã
qua đi, tôi cũng nhớ không thật rõ tất cả những chuyện lặt vặt nói
trên, tôi nghe từ miệng ai nói ra và nội dung có đúng là thế không.
Nhưng cái này, thì xin bảo đảm chắc chắn: không khí bạn bè ở chỗ
Nguyễn Thành Long, là một không khí trí thức. Các anh vừa sống, vừa
viết, vừa quan tâm tới một đời sống văn hoá khác, mà các anh yêu mến
và sống hết lòng. Lúc đang say chuyện thỉnh thoảng các anh chêm vào
một vài câu tiếng Pháp. Tôi không hiểu được những câu nói ấy, nhưng
nhìn nét mặt của các anh, biết rằng phải làm thế, người nói mới diễn
tả được hết ý nghĩ của mình, và nỗi sung sướng đang đến trong lòng
mình. Từ câu chuyện nghe lỏm được qua miệng những Chính Yên, Trần
Đĩnh, Huy Phương, Nguyễn Thành Long, tôi bỗng cảm thấy cái đời sống
văn học mình đang có phần can dự, như được kéo dài ra, nối mãi vào
cả cái khu vực bao la huyền diệu, là toàn bộ đời sống văn học thế
giới hiện đại. Đôi lúc, có cảm tưởng rằng những quyển sách mà tôi
chỉ ngắm nhìn, những tác giả mà tôi chỉ nghe tên cũng như đang sống
đâu đây, họ cùng gợi nên những vui buồn yêu ghét trong lòng tôi, như
những Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Khải, Tô
Hoài... mà tôi
hằng gặp.
Cũng
phải nói thêm rằng, bên cạnh Nguyễn Thành Long viết truyện ngắn,
Nguyễn Thành Long làm báo và làm xuất bản, trong tôi còn một Nguyễn
Thành Long dịch giả, đúng hơn là một Nguyễn Thành Long tiếp cận
những tìm tòi mới trong văn xuôi hiện đại. ý tôi muốn nói tới cuốn
Roméo Juliet và bóng tối của nhà văn Tiệp Khắc Jan Otchenasek
do anh dịch ra tiếng Việt. Đấy là một thể nghiệm nhằm sử dụng những
tìm tòi của các bậc thầy văn xuôi hiện đại như M. Proust, James
Joyce vào việc biểu hiện những nội dung hiện thực và cách mạng.
Không nghi ngờ gì nữa, đó cũng là điều băn khoăn thường xuyên của
Nguyễn Thành Long. Nhiều anh em trong nghề biết rằng một vài thủ
pháp kỹ thuật mới của văn xuôi đã được áp dụng dè dặt trong các
truyện ngắn loại như Con trai con gái cụ Hồ (in lại ở Giữa
trong xanh). Trong đời sống văn học ở Hà Nội từ 1975 về trước,
những tìm tòi loại đó âm thầm bé nhỏ, không đáng kể gì hết. Song,
với típ người cầm bút như Nguyễn Thành Long thì nó là cả một nhu cầu
nội tại, kể cả nhiều khi biết rằng đeo đẳng chỉ thêm phiền, người ta
vẫn không từ bỏ nổi!
VI
Tai
hoạ như trẻ con trên mặt đất
Người
ta rồi ai cũng có thôi
Anh
nói điều ấy thật thản nhiên
Mắt
đăm đắm nhìn chiều xuống
Mấy câu thơ ấy là do Bằng Việt dịch của
Eluard. Không hiểu sao chúng cứ trở đi trở lại trong đầu óc tôi, mỗi
khi nghĩ đến những người căn bản là lành, căn bản là tốt, mà thỉnh
thoảng lại cứ gặp phải những tai nạn nghề nghiệp nho nhỏ, như Nguyễn
Thành Long. Hình như nghề này quá khó và những người vụng về thì quá
nhiều, cho nên đành tự an ủi là “rồi ai cũng có thôi”, vật vã thắc
mắc phân tích rạch ròi làm chi cho mệt!
Khoảng 1956, 57, sau khi cho in những bút ký có được tiếng vang nào
đó hồi ấy, như Hướng Điền, như Gió bấc gió nồm, tự
nhiên Nguyễn Thành Long lại mắc vào vụ Một trò chơi nguy hiểm.
Những năm đầu chống Mỹ, bên cạnh Tờ hoa, Tình rừng của Nguyễn
Tuân, Cái gốc của anh cũng trở thành một đối tượng để phê
phán. Khi những vụ việc này xảy ra, tôi còn quá nhỏ (vụ trước) hoặc
quá non nớt trong nghề (vụ sau), nên không thật rõ mọi chuyện ra
sao. Tuy nhiên những năm có dịp gần Nguyễn Thành Long về sau tôi cứ
có cảm tưởng những chuyện tưởng như đã qua ấy vẫn còn vướng vất
trong anh. Anh trở nên thận trọng giữ gìn hơn trong suy nghĩ, khép
nép hơn trong quan hệ với mọi người. Lại có lúc anh sinh ra hay ngờ
vực và dễ hùa theo chung quanh trong cách đánh giá, dù là một cách
hùa theo kín đáo. Thậm chí tôi cảm thấy ở Nguyễn Thành Long còn nảy
sinh nỗi nghi ngờ chính mình. Đã có một con người khác xuất hiện để
theo dõi và kiểm tra con người hàng ngày của anh, khiến anh trở nên
có chút gì như là nghiệt ngã nữa. Có điều, dù phức tạp đến đâu, thì
tất cả những chuyện ấy chỉ là chuyện nổi lên trên bề mặt. Ở phần sâu
sắc của tâm hồn, có thể nhận ra một Nguyễn Thành Long giản dị hơn.
Anh hơi ngơ ngác, không hiểu sao mọi việc lại diễn ra như thế! Nhất
là anh cảm thấy đơn độc vô hạn. Mang tâm thế “kinh cung chi điểu”,
có những vụ việc do người khác gây ra tội vạ đổ lên đầu ai ai kia,
song chính anh cứ vận vào mình, cứ ngấm ngầm đau đớn xót xa hộ. Và
cứ mang máng cảm thấy rồi lại “cháy thành vạ lây” không biết chừng!
Mặc cảm chăng? Nhạy cảm quá chăng? Nói thế nào cũng được, chỉ biết
là những lúc ấy, không nên hỏi Nguyễn Thành Long mà nên để anh một
mình với mình. Từ nhà riêng bên phố Dã Tượng, sang cơ quan của Hội
bên đường Nguyễn Du, Nguyễn Thành Long thường đi bộ qua một quãng
vắng đường Trần Bình Trọng, phía cạnh cung Văn hoá Việt-Xô. Mùa hè
một áo sơ mi cộc tay, mùa đông một cái áo bông tầu cũ kỹ - sau là
một cái áo vỏ ngoài bằng ni lông màu tím than - Nguyễn Thành Long
gần như một mình trên đường, đầu cúi xuống, bước thật chậm như chìm
đắm vào những suy tưởng riêng tư. Thường nhìn thấy anh trên đoạn
đường ấy, đang đi xe đạp, tôi vội phóng qua thật nhanh, không phải
chỉ vì không muốn phá đi dòng suy tưởng của anh, mà là một tình cảm
lẫn lộn, vừa sợ hãi vừa kính phục chợt đến với tôi – sợ vì thấy cái
nghề của mình nặng nề quá, và kính phục vì trong nghề đã có những
ngòi bút như Nguyễn Thành Long những người đang căng đôi vai ra để
chịu đựng, và vẫn hăm hở đi tiếp. Hoá ra, trước mắt tôi, vẫn là một
nhà văn do tâm huyết mà thành đau khổ. Lại nhớ một câu của Ehrenburg
khi nói về mình (đại ý): “Bề ngoài, tôi trông u ám, nhưng bên trong,
thật ra là một người nông nổi, nhẹ dạ”. Trong số những người rất
khớp với mẫu hình kiểu ấy, ắt hẳn có Nguyễn Thành Long!
VII
Thông
thường, tôi không thuộc diện được Nguyễn Thành Long tặng sách khi có
sách mới in. Nhưng đến cuối 1985, cùng lúc anh cho tôi hai cuốn
Giữa trong xanh và Sớm mai nào xế chiều nào. Cuốn thứ hai
tôi không để ý lắm vì là sách mới viết. Nhưng cuốn thứ nhất thì
khác: đây là một tập hợp những thành quả tự Nguyễn Thành Long coi là
đắc ý nhất trong đời viết của mình, một thứ tuyển tập “bốn mươi
năm”, như anh lưu ý trong lời đề tặng tôi. Qua trao đổi chuyện trò,
tuy tác giả không nói ra trực tiếp, nhưng dễ dàng đọc được cái ý anh
muốn tôi viết về nó. Tôi chấp nhận sự thách thức này, mặc dù biết đó
là một việc khó.
Ít lâu
sau, tôi mang tới Nguyễn Thành Long một bài viết, ở đó bên cạnh
những lời ca ngợi tài năng nghị lực của anh trong việc thực hiện
những yêu cầu cách mạng đặt ra đối với văn học, không quên lưu ý
nhiều khi ngòi bút Nguyễn Thành Long gò gẫm thiếu tự nhiên. Thậm chí
ở một đoạn tôi còn viết: “Mặc dù mở rộng lòng đón lấy mọi diễn biến
của đời sống, song rút cuộc tác giả vẫn không tránh khỏi trở đi trở
lại với những ý tưởng đã thành khuôn khổ, và sự chăm chú đều đều tới
công việc lại dẫn tới một tình trạng đơn điệu”. Tháng 8-1986, khi
bài báo được in ra trên một số báo Văn nghệ, đọc lại cả bài,
tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi không biết với một cuốn sách mang
tính cách tuyển tập, mình viết vậy, có làm anh Long buồn không.
Nhưng tôi vẫn nhớ là lúc cầm bản viết tay của tôi, tác giả Giữa
trong xanh có một thái độ khá bình thản. Anh chỉ bảo sau cái ý “trở
đi trở lại với những ý tưởng đã thành khuôn khổ”, nên
thêm vào một ý nhỏ, “dù là khuôn khổ của anh”. Chỉ có thế!
Chúng tôi chia tay nhau lặng lẽ, mỗi người không khỏi có chút tiếc
xót rằng đáng lẽ có thể làm cho người kia vui hơn, mà không làm
được.
Vốn đã
âm thầm buồn bã, cuộc đời riêng của Nguyễn Thành Long từ sau 1986,
nghĩa là từ sau khi anh về hưu, lại càng quạnh hiu, trống trải. Về
sau cháu Hồng, con gái thứ hai của anh có kể lại, mấy năm ấy anh
buồn lắm vì Sớm mai nào xế chiều nào là quyển anh viết kỹ và
rất hy vọng là có dư luận, song, vẫn rơi vào im lặng, nên anh không
muốn viết truyện nữa. Nghe nói Nguyễn Thành Long loay hoay làm ít
trang hồi ký hoặc xoay vào việc gì nữa, nhưng đều dang dở. Một cuộc
đời vất vả như thế, hậm hụi như thế, nhận thức lại được, viết lại
được cho thanh thoát đâu có phải dễ! Nhà văn ý Moravia từng đặt cho
một tập truyện ngắn của mình cái tựa Một cuộc đời khác, ý
muốn nói là thường mỗi chúng ta đều luôn luôn bị ám ảnh bởi cái ý
nghĩ lẽ ra, chúng ta phải sống khác mà sao không thể sống nổi. Tôi
nhớ là khi nghe tôi nói điều ấy, Nguyễn Thành Long có một thoáng như
hơi sững ra! Đang cầm chén nước, cánh tay gày guộc với lớp da rất
nhiều vết mồi của anh chợt run run thêm, cặp mắt sáng lên phút chốc,
nhưng rồi lại cụp xuống tăm tối. Một niềm thất vọng nào đó đang dâng
lên trong anh? Hay một sự nuối tiếc? Hay một nỗi xót xa, xót cho
mình là không làm được hết những điều muốn làm, nói chung là bây giờ
đã muộn rồi, không thể có một cuộc đời khác? Tôi không rõ cảm giác
nào là chính. Nhưng tôi nghĩ rằng trong những ngày cuối đời Nguyễn
Thành Long đã sống với tất cả những cảm giác đó.
Bởi vậy,
ít lâu sau trên báo Lao động tôi mạnh dạn nói rõ thêm:
“Trong cuộc đời này thiếu chi người mong thành nhà văn mà không
thành. May mắn hơn họ – hay là rủi ro hơn họ, nói thế cho công bằng
– có một số người suốt đời ăn chịu với nghề, sống là nhà văn và chết
với tư cách nhà văn. Nhưng có bao giờ một ngòi bút chân chính thực
sự yên lòng với mình? Ngoài những trang đã viết ra, cái di chúc lớn
khác mà một nhà văn chân chính để lại thường là nỗi khắc khoải vì
biết rằng còn bao công việc đáng lẽ phải làm, nhất là đáng lẽ mình
phải viết khác kia mà tự khác đi làm sao nổi. Nguyễn Thành Long là
một nhà văn chân chính với
nghĩa
ấy”.
Ấy
là những dòng tôi viết, để vĩnh biệt anh.
Không
biết có chủ quan không, nhưng tôi nghĩ lần này, tôi đã nói hộ được
một phần ý nghĩ của chính Nguyễn Thành Long.
Trở về Mục Lục |