Cây
bút, đời người
Vương Trí Nhàn
|
Nguyễn Khải
và nỗi hào hứng viết
để chinh phục bạn đọc
Về già Nguyễn Khải có gầy đi đôi chút chứ trong trí
nhớ của tôi những năm chiến tranh, đó là một người vóc vạc cao lớn,
chuyên cưỡi chiếc xe đạp Diamant loại vành 680 mà chỉ những
ai trên thước bảy mới chuộng. Cách ăn mặc của ông không thể nói là
sang trọng, chắc chắn đấy không phải là một người ưa làm đỏm, nhưng
ngay trong bộ
quân phục thời chiến giản dị ông vẫn biết gợi cho người
chung quanh cảm tưởng rằng mình là một người đàng hoàng không làm
cái gì lúi xùi qua quýt. Có lần, đi họp ở bên Tiệp (nay thường hay
gọi là nước Séc), Nguyễn Khải trở về kể với tôi là không may phải
chuyến đi đúng mùa lạnh, bao nhiêu tiền sinh hoạt phí được nhận dồn
cả vào chiếc áo khoác loại hàng cao cấp bên nước bạn cũng loại thật
giàu mới dám mua. Tôi không thích bọn Tây nó nhìn mình xo rụi trong
chiếc áo vét tài chính cà khổ, nên mặc dù thừa biết rằng về
Hà Nội chả có dịp nào để xỏ tay nữa cũng cứ phải sắm bằng được,
Nguyễn Khải giải thích thêm như vậy.
Cái sự thích rành mạch rõ ràng và nếu như đàng hoàng
được thì càng tốt nói trên không chỉ là phong cách ăn mặc mà cũng là
phong cách sống, phong cách viết của Nguyễn Khải nữa. Ở đây tôi xin
phép không nói kỹ về thứ văn ông vẫn viết, mà chỉ muốn lưu ý một
điều: nếu như ai đó mạnh ở những ý tưởng thấp thoáng run rẩy thì ở
Nguyễn Khải các ý tưởng chỉ được phép xuất hiện trên mặt giấy khi nó
đã thật chín và không để cho bạn đọc hiểu sai được cái ngụ ý mà tác
giả gửi gắm. Cho đến chữ viết của ông cũng rõ ràng và dù hơi thô
nhưng lại có nét đẹp riêng ngay trong cái vẻ thô đó.
Hồi ấy trong cơ quan tôi có hoạ sĩ T. không được may
mắn lắm về đường tình ái, nói nôm na là tán cô nào cũng hỏng, cuối
cùng nhiều phen tình yêu nơi anh trở thành tình yêu một phía nghĩa
là chỉ anh tự hiểu với anh, ngoài ra anh có kể cho ai thì bạn bè
biết thôi, chứ không sao gây được bất kỳ chút xúc động nào nơi đối
tượng. Biết thóp được sự tình đó, Nguyễn Khải thú lắm, thường hình
dung ra những màn kịch:
“A, bây giờ ngồi một mình chắc là cu cậu đang nói to
lên rằng nàng ơi, kẻ hèn mọn này sẵn sàng làm tôi mọi cho nàng, sẵn
sàng quỳ dưới chân nàng!”.
“Thôi chết hôm nay trông ngao ngán lắm, chắc là
không gặp được quay trở về tức tối, thề rằng từ nay không bao giờ
thèm gặp gỡ người đẹp nữa”.
“Khốn nạn, cả khi yêu cũng như khi căm giận, nó có
hay biết gì đâu mà chỉ mình biết với mình, hài hước là ở chỗ đó!”.
Khi diễn lại tấn kịch này, không phải Nguyễn Khải có
bụng ghét bỏ gì hoạ sĩ T. Chẳng qua ông muốn qua đây rút ra một bài
học nghề nghiệp: với người viết văn, cái đáng sợ nhất là nghèo ý
tưởng; nhưng có một điều cũng dơ dáng không kém là anh không truyền
đạt được ý tưởng của mình tới người đọc, mà nguyên nhân là vì anh
suy nghĩ không kỹ, không hoàn toàn hiểu rõ ý mình hoặc đôi khi chỉ
đơn giản vì anh tự ti nhát sợ. Lúc ấy thật ta có khác chi anh chàng
vô duyên nọ!
Trong cái việc một nhà văn xuất hiện trước các bạn
đồng nghiệp, đối với Nguyễn Khải, sự đàng hoàng càng được xem trọng.
Cũng như một số bạn bè khác khi còn trong độ tuổi
gọi là nhà văn trẻ, tôi không tránh khỏi cái thói xấu thường tình là
đi họp chỉ ngồi góc vắng, có ai hỏi gì thì lí nha lí nhí nói chẳng
thành lời, đến lúc ra ngoài lại tiếc rẻ. Một vài lần Nguyễn Khải
cũng tham gia điều khiển những cuộc họp ấy, thế là trở về, gặp ông
trong cơ quan, tôi được nghe ông mát mẻ:
- Gớm trông các ông các bà điệu bộ mà sốt cả ruột.
Hồi bằng tuổi các ông các bà bây giờ ấy à, đi họp là tôi ngồi ngay
hàng đầu, có ý kiến gì thì nói chẻ hoe ra hết. Nếu như được dự một
buổi họp quan trọng mà thấy cần phát biểu là tôi còn viết ra nữa cho
nó được mạch lạc. Tôn trọng mọi người bằng cách đào sâu suy nghĩ vấn
đề định nói chứ không phải lối rụt rè khiêm tốn hão mà các ông vẫn
quen bộc lộ.
Sự đàng hoàng rành mạch còn liên quan đến cả sự tồn
tại của Nguyễn Khải trong lòng đồng nghiệp.
Trên cái sân rộng trước nhà hoặc trong những căn
phòng sàn gỗ bóng loáng của ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, những năm chiến
tranh anh em ở tạp chí Văn nghệ Quân đội thường có lối quây
quần tán phét, tạm gọi là “giao ban”. Đời sống văn chương nhiều điều
đã bộc lộ hết cả trên mặt báo nhưng lại có những điều mà mọi người
chỉ có thể nói miệng với nhau. Anh này vừa đi thực tế về, anh kia có
ông hàng xóm vừa ở chiến trường ra họp, kể tình hình trong ấy ra sao
- có muôn vàn câu chuyện mà chúng tôi cần nói cho nhau nghe, bởi đối
với những người viết văn, mỗi lần nói coi như một lần được nháp thử
những ý nghĩ của mình, nữa đây lại được nói trước một cử toạ chọn
lọc như anh em đồng nghiệp, mỗi buổi gặp gỡ quả là cả một sân khấu
để người này có dịp thi thố tài nghệ, người kia tha hồ quan sát. Sau
một buổi trò chuyện, nói như bây giờ là đầy ắp thông tin, và được
lăn ra mà cười, một anh nào đó hình như là Nguyễn Minh Châu đã nói
đùa:
- Ngày nào cũng gặp nhau mà vẫn cứ mê nhau như
thường!
Trong những buổi trò chuyện đầy hào hứng và mỗi
người có dịp thể hiện một tính cách ấy, thú thực từ sự tò mò của một
dân ngoại đạo mới nhập nghề, có một người mà tôi hằng mong mỏi được
nghe, người đó là Nguyễn Khải. Đến với đám đông, Nguyễn Khải như cá
gặp nước. Hàng loạt tài năng của ông lúc này có dịp bộc lộ: khả năng
đánh hơi nghe ngóng nắm bắt được cái gọi là tinh thần chung của cả
đám; tài hoà nhập với mọi người, nói to lên hộ mọi người cái điều họ
mới chỉ cảm thấy mà chưa kịp nói thành lời; khả năng mang lại ý
nghĩa cho những chuyện tưởng như không đâu vào đâu và ngược lại làm
cho những điều cao xa trở nên dễ hiểu.
Có thể bảo những cuộc
túm tụm chuyện trò này với Nguyễn Khải chính là một thứ cảnh diễn, ở
dó ông luôn luôn biết tìm cho mình những vai diễn thích
hợp.
Đại khái là một kịch bản như sau:
Đầu tiên ông chỉ nhũn nhặn đóng vai một người nghe
chuyện thông minh, đoán biết được ý đồ của người khác và thỉnh
thoảng thêm vào một vài lời bình luận giống như một thứ tiếng đế
trong chèo để giúp đương sự thêm hào hứng nói.
Nhưng rồi đến một lúc nào đó, ông nhảy vào cuộc thâu
tóm câu chuyện, giải thích mọi sự theo cách nhìn riêng.
Và rồi chung quanh chợt nhận ra rằng người đang trò
chuyện với mình hình như có một chút ma mị đủ sức lôi mọi người đi
theo.
Chẳng những là diễn viên chính mà ông còn đảm nhận
luôn vai đạo diễn nữa.
Nhiều nhà nghiên cứu từng gặp nhau ở nhận xét:
Nguyễn Khải là loại nhà văn mà qua các trang viết, yếu tố chủ quan
bộc lộ hết sức mạnh mẽ; trong các vai truyện mà ông dựng nên người
ta thấy ông hiện ra quá rõ. Ông lấn át nhân vật và hồn nhiên dùng họ
làm cái loa của mình.
Thành thử để hình dung ra con người Nguyễn Khải
trong những cuộc trò chuyện, người ta có thể dựa ngay vào những đoạn
văn nằm rải rác trong những tác phẩm khác nhau mà ông đã viết.
Về tài ăn nói: “Hễ anh ta
xuất hiện ở chỗ nào là chỗ đó nhộn nhịp hẳn lên vì những câu đùa hết
sức thông minh và tài kể chuyện quyến rũ khó ai sánh kịp” -nhân vật
Hoè trong Hãy đi xa hơn nữa.
Về sự đa dạng của giọng điệu và ngôn từ :
“Trong ban quản trị chỉ có Tuy Kiền là biết cách nói chuyện với dân
thợ làm nghề tự do. Ông ta vừa có vẻ chân thật lại vừa thớ lợ tí
chút, hết sức tin cẩn rộng rãi nhưng vẫn chặt chẽ đòi hỏi; ngay
những câu nói mà Tuy Kiền dùng với họ cũng rất đặc sắc: có cả sự lễ
phép lẫn cái lõi đời, ngọt ngào lẫn sừng sỏ, bóng gió xa xôi lẫn
trắng trợn, thô kệch. Đủ vẻ!” - nhân vật Tuy Kiền trong Tầm nhìn
xa.
Về cái giọng riêng
nó là dấu hiệu thấy rõ nhất của một con người:
“Cách ăn nói của Mơ bao giờ cũng táo tợn thẳng thắn nếu cần phải nói
hết lời cũng cứ nói”. “Ăn nói rất sỗ rất thô mà nghe được ấy là cái
tài riêng, cái duyên lạ của chị từ ngày còn bé” - các nhân vật Mơ
trong Chủ tịch huyện, và Hoàng trong Gặp gỡ cuối năm.
Có một kỷ nịêm nhỏ trong mối giao thiệp của tôi với
Nguyễn Khải có liên quan đến ham muốn được trình bày được thuyết
phục của nhà văn này. Sau nhiều phen trò chuyện thân mật, cũng có
lúc chúng tôi cãi nhau. Mà khi đã cãi nhau thì ai chả muốn được!
Nguyễn Khải trị tôi thẳng cánh bằng cách nói tuột vào mặt:
- Mày thì chỉ được cái ngồi đây nghe tao nói rồi
hóng hớt chứ biết gì.
Tôi phải tìm cách tự vệ:
- Anh đừng lên mặt ban ơn cho tôi như vậy. Nếu nói
với tôi anh không thấy thú vị hơn nói với người khác và nói chung là
hoàn toàn vô lợi lộc, thì một người ích kỷ như anh sẽ không bao giờ
chịu nói.
(Ở chỗ này tôi nhớ tới lời tự thú của nhân vật Nam
trong Hãy đi xa hơn nữa: “Thỉnh thoảng vớ được một người chịu
nghe mình thực sự thì tôi có thể nói suốt đêm được”).
Khái quát lên một chút, có thể bảo con người trong
Nguyễn Khải là con người nói năng và đây là nhân tố làm nên
tính chất hiện đại của họ.
Thậm chí có lúc cái sự nói ít hay nói nhiều của nhân
vật cũng là một dấu hiệu chứng tỏ thời thế thay đổi: “Xưa kia bố nói
rất ít, mỗi chúng ta đều nói rất ít. Bây giờ tất cả mọi người đều
nói quá nhiều. Con sợ phải giáp mặt mọi người, những mặt người dễ sợ
những câu nói dễ sợ” (lời nhân vật Phượng trong vở kịch Cách mạng).
Trong đời sống văn
chương hàng ngày, số người biết uốn ba tấc lưỡi nói như rồng leo
số đó không phải là ít. Nói và viết là hai phương diện khác nhau của
cùng một quá trình: quá trình con người lên tiếng trước đời sống, và
bằng cách đó mỗi người tự khẳng định.
Tuy nhiên cái việc ham nói, đặc biệt là thích nói
trước đám đông của Nguyễn Khải, đối với việc sáng tác của ông, hình
như còn có chút ý nghĩa gì hơn thế.
Ở mỗi chúng ta, sự phân cách giữa mình và người chỉ
là tương đối: Mỗi cuộc đối thoại thật ra là một dịp để ta tự thuyết
phục. Khi viết cho mình cũng là ta đang viết cho người. V.
Hugo từng
nói đại ý: khờ khạo thay nếu anh tưởng rằng tôi viết cho tôi mà
không phải viết cho anh.
Có điều nếu tìm vào cái hích ban đầu, cái phía nặng
đồng cân hơn giữa hai yếu tố chủ quan và khách quan thì phải công
nhận ở phần đông nhà văn, nhu cầu tự biểu hiện là nhân tố chủ yếu.
Viết để tự lý giải cho mình những thắc mắc, tự giải thoát khỏi những
dằn vặt. Từ mình rồi mới đi đến với người.
Trong khi đó, với Nguyễn Khải mọi chuyện có khác một
chút: Thế hệ các ông lớn lên trong hoàn cảnh cả xã hội cuốn vào một
cuộc rung chuyển lớn lao mà chỉ có thể tóm tắt bằng hai chữ Cách
mạng. Dù quan trọng đến đâu thì những số phận cá nhân cũng không
có quyền được xem như vấn đề hàng đầu của đời sống. Thay vào đó, cái
đích của mọi sự suy nghĩ là sự vận động của cả xã hội, là cách tác
động để đẩy tới sự vận động đó. Con người mà xã hội cần nhất lúc này
là những con người có lòng tin mạnh mẽ:
“Với anh mọi sự ở đời chả có gì là bí mật khó hiểu,
nếu dược phân tích một cách khoa học thì có thể thay đổi được cả thế
giới”.
Và biết cách lên tiếng trước mọi người, biết quyến
rũ và thuyết phục rồi lôi cuốn họ cùng hành động - ít ra thì cũng
được như một nhân vật của Đường trong mây:
“Mọi ý kiến của anh đều rõ ràng và sáng sủa và dứt
khoát. Ngay những cách nói bông lơn của Suý cũng hết sức ý nhị và
thông minh; sự cáu giận của anh vừa độ lượng vừa đúng lúc, cả cái
ương bướng của anh để bảo vệ một ý kiến nào đó cũng dễ được mọi
người đồng tình một cách vui vẻ”.
Khi những nhân vật cán bộ này cầm lấy bút sáng tác
thì mọi chuyện sớm được định hướng một cách rõ ràng: viết văn là một
cách chinh phục mọi người, buộc họ phải thấy mình đúng, thấy mình có
lý và tin theo những điều mình muốn họ cũng tin như mình.
Những quan niệm nói trên cố nhiên không phải chỉ
riêng thấy ở Nguyễn Khải. Do yêu cầu của hoàn cảnh, nhiều người cầm
bút nửa cuối thế kỷ XX này cũng đã tập sống như vậy và trước lạ sau
quen, dần dần cũng biến những ý tưởng ấy thành những tín điều tự
nguyện. Có điều chỉ với Nguyễn Khải nó mới trở nên mềm mại uyển
chuyển, bởi nó như được rút ra từ chính cuộc sống của ông, nó là cái
bản tính tự nhiên mà ông vốn có.
Vào những năm còn trẻ ông không thích ai gọi mình là
nhà văn, chẳng những thế còn muốn như là lẫn đi giữa mọi người, và
khiến cho chung quanh có cảm tưởng rằng “họ có thể sống chung với
tôi hàng năm mà không tìm thấy một cái gì quá khác biệt giữa tôi với
họ” (Con đường dẫn tôi tới nghề văn).
Có một loại nghệ sĩ mà ông rất ghét ấy là những kẻ
bản năng, tự phát, luôn luôn khoe rằng mình ngu ngơ ngây dại chẳng
qua ngứa cổ hát chơi. Với ông, trong điều kiện của xã hội hiện đại,
khi mà những cuộc đấu tranh tư tưởng trở nên căng thẳng hơn bao giờ
hết, thì loại nghệ sĩ như vậy không có chỗ đứng.
Ngay cả khi cái phần gọi là riêng tư lặt vặt ấy được
một nhà văn như Nam Cao viết ra hồi trước Cách mạng và được nhiều
người coi là cả một phát hiện nghệ thuật thì đối với Nguyễn Khải nó
cũng không vì thế mà được ông quan tâm. Một mặt rất kính trọng cái
sự hết lòng vì nghề nghiệp trong Nam Cao, mặt khác, trong một ít lần
nói chuyện riêng với tôi, Nguyễn Khải vẫn tỏ ý không thích Sống
mòn, và các truyện có cùng một giọng điệu, bởi theo ông, các tác
phẩm ấy đi vào những mặt quá tủn mủn trong con người
(!)
Lao động viết văn ở Nguyễn Khải như vậy là một chuỗi
công việc cực nhọc. Có một câu nói trong Kinh Thánh ông thường thích
nhắc lại đại ý nói mi là muối mà mi không mặn thì làm sao muối được
những thứ khác: đối với ông đã bắt tay cầm bút mà viết không hay thì
còn ra cái thể thống gì nữa? Đọc những tác phẩm có tư tưởng khác
mình ông chỉ đau đớn vì chưa biết làm sao để viết hay như họ. Một
điều ao ước thường trực trong lòng ông: Làm sao để trở nên một ngòi
bút lợi hại?
Đọc sách để mở rộng thêm hiểu biết về nghề, đó là
công việc ông ít khi nói to lên nhưng lại âm thầm theo đuổi.
Trước khi bắt tay viết, đúng hơn đồng thời với việc
viết, ông để khá nhiều tâm huyết vào những cuộc trò chuyện với các
đồng nghiệp và cả những người bình thường. Để làm gì? Để hiểu thêm
về họ và nhất là có cơ sở để tác động tới họ. Điều kiện quan trọng
nhất để thành công trong nghề nghiệp là bắt trúng được cái tinh thần
của cuộc sống chung quanh. Bởi theo ông khi đã nắm được cái tinh
thần ấy rồi thì dù viết về cái gì, về đề tài nào ông cũng tha hồ lui
tới bay lượn, thậm chí như ông nói, đôi khi cả cái việc giỡn mặt độc
giả một chút cũng có cái thú vị kỳ lạ.
Hãy tưởng tượng không khí của thành phố Sài Gòn thời
gian sau 30-4-1975. Trước khi bắt tay viết những Gặp gỡ cuối
năm,Cách mạng... Nguyễn Khải đã sống những ngày thật sự náo nức:
nào được đối mặt với những người thân trong gia đình, nào được sống
giữa một thực tế vừa xa lạ vừa gần gũi, nào thử đo tính cơ may chống
chọi của những người từ rừng về trước sự cám dỗ của thành phố, nào
đưa ra cách lý giải khác nhau đối với quá khứ và những cuộc tính
toán cho tương lai. Trong hệ thống buôn bán cũ ở Sài Gòn bao giờ các
cửa hàng lớn cũng có một người đi lấy giá chợ để điều chỉnh giá cả
bán ra hàng ngày cho hợp với mặt bằng chung. Nơi người ta gặp gỡ để
biết giá chung đó là chợ Hàm Nghi. Và một trong những người bạn lâu
năm của Nguyễn Khải, một người hiểu Nguyễn Khải đến tận chân tơ kẽ
tóc là Xuân Sách, đã có lần nói đùa về sự thèm khát muốn nắm bắt cái
tinh thần của đời sống chung quanh thường trực ở Nguyễn Khải:
- Chắc là dân hàng ngày đi lấy giá ở chợ Hàm Nghi
cũng chỉ háo hức đến như vậy.
Trước đó vào những năm 57-60, mảnh đất Điện Biên mới
ra khỏi chiến tranh còn hoang vắng sở dĩ sinh động hẳn lên trong một
bức tranh nhiều màu sắc (Mùa lạc), hay vùng Công giáo Nghĩa
Hưng Nam Định có thể hiện ra với những cuộc tranh chấp quyết liệt (Xung
đột) thì cũng là vì Nguyễn Khải không dừng lại ở cái khung cảnh
riêng từng vùng mà biết đặt nó trên một toàn cảnh rộng lớn. Sau cái
lần ngồi lì để làm cuốn Chiến sĩ, Nguyễn Khải hé ra với tôi
một chút gọi là những đặc điểm riêng trong cách viết mà cũng là quan
niệm viết của ông:
- Nói chung trong mối quan hệ giữa nhà văn và bạn
đọc, cái đáng lo nhất chỉ là xem xem mình có hiểu bạn đọc, cách nghĩ
của mình có ăn khớp với cách nghĩ của họ hay không. Nếu có sự ăn
khớp ấy tức ta còn viết được.
Ông không biết chứ những lần đi công tác tôi nghe kể
thì ít mà nói thì rất nhiều. Làm sao mà mình lại có thể bắt một
người chiến sĩ tự trình bày một cách sáng rõ những ý nghĩ của họ lúc
này lúc nọ? Phải lấy mình mà suy ra chứ. Nói nhiều là một cách để
tôi dò xem điều mình nói ra có được mọi người chấp nhận hay không.
Nếu như mặc dầu anh mới gặp họ lần đầu mà đã có thể đùa bỡn được,
bông phèng được như thế tức là hai bên có sự thông cảm với nhau rồi.
Bấy giờ chỉ có việc giở sổ ra mà ghi chi tiết, cái này thì khó gì,
ghi một lúc là xong, và về cứ thế mà viết thôi. Lý do làm cho tôi
viết nhanh được cũng là ở đấy.
Có thể nói vớí Nguyễn Khải cái nhu cầu có được cảm
giác chính xác về thực tế là yêu cầu số một của sáng tác, nó làm cho
ông có thể tự tin ở ý nghĩa của công việc, do đó làm cho con người
ông trở nên mau mắn sinh động hẳn lên.
Sau khi đã có cái hích ban đầu này thì bộ máy sáng
tạo ở ông bắt đầu hoạt động với tốc độ mà nhiều người ở ngoài nhìn
thấy chóng mặt:
“Anh
khao khát được đương đầu với những bí mật, được tìm tới những khám
phá và khi đã thông thạo rồi lại được đứng trước những bí mật mới.
Từ bao nhiêu chuyện chiến đấu Cảo được nghe, anh liền nhào nặn lại,
tô vẽ lại để có bố cục chặt chẽ hơn, tình huống hiểm nghèo hơn,
thắng lợi rực rỡ hơn”.
Đoạn văn trên chỉ có liên quan đến một nhân vật phụ
trong tiểu thuyết Đường trong mây, nhưng lại có vẻ
giống như một đoạn tự mô tả của Nguyễn Khải trong công việc. Khi
biết rằng mình có thể đóng góp, cống hiến, vừa làm tròn nghĩa vụ
công dân vừa có danh hơn người, nổi trội hơn người, được kính trọng
hơn người, thì cũng là lúc ông tìm thấy niềm say mê để dồn tụ mọi
sức lực cho sự sáng tạo.
Thậm chí cả đến những thói quen của Nguyễn Khải cũng
được thay đổi, được từ bỏ hay được hình thành, cho phù hợp với yêu
cầu của nghề nghiệp.
Những ai có phen tạm gọi là thân mật với Nguyễn Khải
hẳn đều biết một quy tắc ứng xử của nhà văn này: bạn bè là để trò
chuyện, trao đổi suy nghĩ nhận xét. Và nếu được nói thẳng thắn mà
không sợ mang tiếng là thực dụng, thì đấy là chỗ giúp ta có thêm
thông tin để hiểu thêm về cuộc đời, cũng như để khi chưa viết được
thì ta đến tán chuyện; với những người lịch lãm những cuộc chuyện
trò này không bao giờ vô bổ hoàn toàn mà trong khi đối thoại, đầu óc
ta tự nhiên sắc bén, rất nhiều ý tưởng chợt loé lên một cách ngẫu
nhiên, và quay trở về ta chợt thấy mình giàu có hẳn lên. Chứ cái lối
tìm ở bạn bè một người đồng cảm, để rồi nếu như trong đời riêng có
gì day dứt đau khổ thì an ủi động viên nhau, cái kiểu cư xử đó cũ
lắm rồi, thời buổi này còn có mấy ai tự nhận là theo được
(!). (Hẳn
mọi người đều biết là tôi không mang chuyện gia đình tôi ra than thở
với các anh, khi có gì đau đớn thì tôi chịu lấy một mình chứ không
hề hé răng kêu rên để tìm ở các anh một lời an ủi. Vậy thì xin các
anh cũng đừng chờ đợi ở tôi những sự cảm thông chia sẻ và nếu như có
vì thế mà mang tiếng là nhẫn tâm ích kỷ thì tôi cũng xin chịu. Còn
bao nhiêu việc lớn lao hơn chờ đợi, tôi tự thấy là tôi không bao giờ
xao nhãng, chẳng nhẽ như thế chưa đủ hay sao?)
Ngoài sáng tác, có thể nói thẳng rằng ông không muốn
chịu trách nhiêm về bất cứ vấn đề gì và càng không muốn chịu trách
nhiệm về ai cả. Tự lượng sức mình chăng? Không muốn mất thì giờ vào
những công việc mình không thành thạo? Hay là ích kỷ ngại khó và
trong chừng mực nào đó kiêu ngạo đặt mình cao hơn mọi người? Từng ấy
động cơ có cả và nó là điều nhiều phen Nguyễn Khải đã công khai thừa
nhận. Song cũng chớ nên quên rằng trong đời sống
hàng ngày, đấy lại là một người
có cái vẻ xởi lởi lạ lùng, vui vẻ trò chuyện với bất cứ ai ngẫu
nhiên gặp, hậm chí nói như nhà thơ Xuân Quỳnh lúc còn sống, đi với
ai cũng như là thân mật từ lâu và sẵn sàng sẻ cửa sẻ nhà giúp đỡ họ.
Vậy chẳng phải là mâu thuẫn sao?
Thưa không: nói chuyện với ai xong, về nhà là Nguyễn
Khải quên ngay, hoặc như có nhớ tới những chuyện đó thì ông cũng chỉ
coi nó như tài liệu sáng tác, thế thôi. Người khác trông vào khó
chịu, ông biết, nhưng tự trong thâm tâm ông thấy thoải mái và có vẻ
hài lòng vì đã tìm ra cách sống thích hợp.
Cái lối vui đâu chầu đấy, ở bầu thì tròn ở ống thì
dài này được Nguyễn Khải vận dụng một cách thành thục trong đời sống
hàng ngày bởi nó liên quan tới một triết lý sống của ông và cũng là
cái trục tính cách của nhiều nhân vật mà ông đã bỏ công miêu tả: sự
thích ứng. Thành thử cũng là điều dễ hiểu khi nó được mang vào cả
trong sự viết lách. Cùng sống với nhau trong nghề, những người cầm
bút có thói quen là để ý đến nhau, nghe ngóng bước đi và cách làm
việc của nhau và thường thích thú được nghe người này đánh giá về
người khác. Với những nhà văn nhà thơ nổi tiếng, những đòi hỏi ấy
càng gắt gao hơn: người ta muốn anh tham gia suy nghĩ và đánh giá
trước mọi tình hình, cùng chịu trách nhiệm về mọi sự kiện đang diễn
ra chung quanh và nếu như anh có được cả cái phẩm chất tiên tri thì
lại càng tuyệt vời. Nhưng làm sao mà buộc Nguyễn Khải cũng giống mọi
người cho được? Trung thành với thói quen vốn có,
Nguyễn Khải thường
chỉ nói điều gì mà ông đoán là người ta chờ đợi ở mình: với một cây
bút đang được dư luận khen ngợi thì ông cũng thêm vào vài lời khen,
rồi nay mai ông cũng sẵn sàng chê nếu biết rằng chung quanh không
còn kỳ vọng ở con người mà hôm qua họ phát hiện.
Cũng đã lắm phen, Nguyễn Khải
lĩnh đủ về sự tùy tiện gặp đâu hay đấy: người ta coi ông tiền hậu
bất nhất. Nhưng điều đó với ông chả có ý nghĩa gì cả. Cái chính là
ông không có bụng định làm hại ai thế là được rồi. Còn như xong việc
là thôi, chứ hơi đâu mà luẩn quẩn mãi với những chuyện lặt vặt hàng
ngày.
Nói chung, ân hận xót xa tiếc nuối là những ý niệm
không có ở Nguyễn Khải, ít nhất là khi ông đang còn trẻ. Ngược lại
có thể nói ông sống đơn giản nhẹ nhõm. Nếu cần nêu một tinh thần chủ
yếu có sức ám ảnh với ông, thì đó là sự sùng bái hiệu quả, bởi có
một điều không bao giờ ông nghi ngờ, ấy là nếu ông viết tốt với
nghĩa cụ thể là ông được nhiều người đọc, và một khi đã cầm đến sách
của ông người ta không thể dửng dưng, thì bao nhiêu thói xấu hàng
ngày của ông, bao nhiêu cái sự gọi là ích kỷ vô trách nhiệm, hoặc
chả coi ai ra gì... ở ông đều được tha bổng.
Ông thường khuyên tôi, không được tham bát
mà bỏ cả mâm là với nghĩa ấy.
Ngoài cái chuyện bản tính không thể thay đổi, có một
lý do nữa khiến cho Nguyễn Khải - theo sự nhìn nhận của cánh cùng cơ
quan như bọn tôi - dám sống ích kỷ như trên còn là ở một quan niệm
khổ hạnh nó chi phối sinh hoạt hàng ngày và cũng được ông thực thi
một cách thuần thục.
Như nhiều người đã biết, trong những năm từ 1980 trở
về trước, Nguyễn Khải và gia đình chỉ sống trong một căn phòng hẹp
tổng cộng 14 mét vuông ngoài bãi Phúc Xá. Là người đã có ít lần lui
tới nhà ông ngay từ hồi ấy, ở đây tôi phải nói thêm: ngay so với đờì
sống của dân Hà Nội những năm chiến tranh thì căn phòng đó cũng quá
đạm bạc. Đồ đạc sơ sài. Về ánh sáng mà nói, cả phòng chỉ có một ngọn
đèn 75 oát, rồi con cái thì học bài mà ông bố ngồi cạnh đọc sách chứ
không có được những ngọn đèn bàn xinh xắn như các nhà khác.
Kể ra cũng có một đôi lần nhà văn liệp thiệp thế nào
cũng xong này bị ngôi nhà ngoài bãi làm khổ. Ấy là những năm nước
sông Hồng lên to, bãi Phúc Xá bị ngập. Cố nhiên loại người chỉ biết
có văn chương và chỉ khôn ngoan trong viết lách như Nguyễn Khải
không dám tính chuyện gác tre lên sát mái để cố thủ với nước. Có lần
ông còn đành bỏ phí cả một chiếc radio sang trọng trong tủ
không kịp chạy (hồi đang chiến tranh, radio là một thứ của
hiếm ở Hà Nội, còn quý hơn cả TV thời nay). Nhưng qua cơn nước rồi
là Nguyễn Khải lại đưa gia đình về bãi sống thoải mái.
Trong đời sống hàng ngày, có thể nói đây là một
người hay la cà, lúc rỗi sẵn sàng ngồi ở một quán nước vỉa hè bắt
chuyện với một người qua đường và ngay cả trong những ngày viết bận
nhất, vẫn dành thì giờ lên phố ghé lại một toà soạn báo nào đó tán
gẫu mấy câu để lấy không khí. Thế nhưng kéo được Nguyễn Khải vào một
đám lai rai suốt ngày thì xưa nay chưa ai làm nổi. Đi ra với đời là
để có lúc trở về với trang giấy, và chỉ có viết là công việc duy
nhất có ý nghĩa - đấy là điều mà theo ông, người viết nào cũng nên
tuân thủ. Khoảng 1966-1967, thấy Đỗ Chu đang viết lên tay với tập
Phù sa, và đang chuẩn bị viết Ráng đỏ, Nguyễn Khải thường
bảo: “Lúc ngòi bút đang đà thế này, có khi cả chuyện tình yêu cũng
nên gạt sang một bên mà lo viết cái đã”.
Luôn luôn Nguyễn Khải quan niệm mình sinh ra chỉ để
viết, toàn bộ cuộc sống phải dồn theo cái định hướng đã chọn.
Nghe ra có vẻ lạ tai nhưng quả thật chính vì có một
mục đích rõ ràng mà cuộc sống với ông trở nên nhẹ nhõm. Ông thường
đến với mọi người với vẻ thoải mái như không có chuyện gì phải lo
nghĩ hết.
“Lúc nào cũng nhăn nhở như con đĩ đánh bồng” - đã có
người nửa đùa nửa thật ví von như vậy.
- Ô, việc gì mà tôi không vui nào! Tôi thích viết,
viết ra có người đọc. Lương với nhuận bút cộng lại cũng đủ sống, sức
khoẻ tạm ổn, thế thì còn ước ao gì hơn.
Ngừng lại một lúc và hạ giọng xuống một chút, Nguyễn
Khải từ tốn bổ sung thêm:
- Đã có mấy người ra nhà tôi ở bãi Phúc Xá, về sau
thú thực rằng không ngờ một nhà văn lại ngồi viết ở cái căn phòng
tồi tàn đến vậy, những nghĩ đã sợ. Họ có biết đâu lắm lúc mình lại
linh cảm rằng nếu sống cho sướng hơn sẽ không viết được.
- Có thật là ở anh không còn cần gì nữa không?
- Thú thực là cũng còn thèm nhiều thứ chứ. Nhưng
tính tôi hay sốt ruột, làm việc gì mất nhiều công sức đều thấy ngại.
Chờ đợi mong mỏi van vỉ, chạy đôn chạy đáo hết cửa này đến cửa khác,
thấy việc mọi người làm đều có lý, nhưng đến lúc chính mình phải làm
thì ngại và đành chuồn ngay đầu nước.
Cũng phải nói ngay ở đây rằng sự dễ dàng trong cách
sống của Nguyễn Khải không phải là sự cẩu thả. Trang sách được ông
chăm sóc kỹ lưỡng. Mà trong gia đình ông cũng là một người chủ có
trách nhiệm. Có lần tình cờ được đọc ít bản thảo Nguyễn Khải viết
những năm 59-60, tôi ngạc nhiên nhận ra ở nhiều mép trang những con
số chỉ nhiệt độ, thì ra lúc ấy, có một đứa con trong nhà bị sốt và
ông cứ vừa víết vừa nghĩ đến con.
- Tại sao anh quá tỉ mỉ như vậy?
- Chẳng qua tính tôi vốn nhát, lúc nào cũng ghê sợ
có chuyện gì đó phiền phức đang rình rập.
Để cho liên tưởng đi xa một chút, có thể mạnh dạn
nhận xét rằng cách sống khổ hạnh của Nguyễn Khải nói ở đây có nhuốm
một chút mầu sắc tôn giáo. Cá nhân mỗi chúng ta hôm nay là một cái
hố trũng, trăm nghìn ảnh hưởng dồn về nên bảo rằng một con người
hiện đại như Nguyễn Khải có chất tôn giáo thoạt nghe có vẻ kỳ quặc,
song sự thực là vậy: Thờ phụng cuộc sống, tuyệt đối hoá cuộc sống
đó; xem đây là dịp duy nhất mình được thi thố tài năng nên khổ sở
thế nào cũng chịu, vất vả thế nào cũng cam; cho rằng không chỉ cái
vui trần thế ăn ngon mặc đẹp là đáng tự hào, mà quan trọng hơn là
những niềm vui tinh thần như được lên tiếng trước mọi người, được
nói để mọi người lắng nghe... Những cách nghĩ đó là gì nếu không
phải là một thoáng tôn giáo nó lẩn quất trong tâm trí Nguyễn Khải và
bởi nó giúp ông giải phóng sức lực và làm cho ông đi thẳng tới cái
đích đã vạch, nên ông đã tự nguỵện để nó thấm vào cuộc sống của mình
từ lúc nào không biết.
Cũng không nên quên rằng Nguyễn Khải là người sớm
thâm nhập và viết về những người công giáo như trong Xung đột,
và về sau, ông còn là tác giả của Cha và con và..., Thời gian của
người, Điều tra về một cái chết.
Trong các tác phẩm nói trên, nhân vật của ông dù là
làm gì và tin ở tôn giáo nào, thì cũng đều có chỗ giống ông là xem
trọng đời sống tinh thần và say mê đắm đuối theo đuổi cái mục đích
mà họ đã tự nguyện gắn bó.
Có lẽ không phải là quá suy diễn nếu bảo rằng Nguyễn
Khải đã lấy bản thân ra để viết.
Tuy nhiên chỉ trong nửa sau cuộc đời viết văn của
nhà văn này thì việc khai thác bản thân mới được làm một cách có ý
thức.
Có một thực tế là các yếu tố tự truyện không thấy
thật rõ trong tác phẩm của Nguyễn Khải từ 1975 về trước. Mãi sau khi
đất nước thống nhất, ông mới ít nhiều hé mở cho thấy gia cảnh nhà
ông ra sao và nhất từ 1986 mới có những trang truyện ở đó ông trực
tiếp nói về mình hoặc tự nhìn nhận về cái hay cái dở của con người
mình.
Mọi chuyện đã diễn ra như thế nào?
Hồi trẻ ông không viết về bản thân vì cái tinh thần
khắc kỷ mà thời đại yêu cầu và chính ông thích thú.
Nhưng hầu như tất cả những người viết văn đều biết
rằng không ai thoát được bản thân và muốn hay không muốn, cái chủ
quan của người viết đều tìm cách có mặt trong các trang sách, và một
người lịch lãm trong nghề như Nguyễn Khải không thể không biết điều
đó.
Rồi cái nguyên cớ cụ thể đã tới: Khi lựa chọn tài
liệu để viết, người nghệ sĩ trong Nguyễn Khải những năm sau 1975
thầm mách bảo với ông rằng lúc này không gì có hiệu quả hơn chính
những chuyện trong gia đình ông và họ hàng gần gũi với ông.
Thế là để được viết, để mong có dịp tung hoành ngòi
bút ở một khu vực mới mẻ, để gây được những hiệu quả có thể nói là
bất ngờ với mọi người, Nguyễn Khải xăm xăm băng lối vườn khuya
một mình - dám làm cả những việc trước đây ông nghĩ rằng mình
không bao giờ làm.
Nguyễn Khải là cả một
mớ mâu thuẫn. Là giấu mình đi
thật kín và khai thác mình đến cùng. Là chỉ muốn yên thân và sẵn
sàng lao vào những cuộc phiêu lưu hào hứng. Là sống chan hoà với mọi
người và cực kỳ cô đơn. Là mơ tưởng những điều cao xa và cũng tha
thiết với những điều trần tục như bất cứ ai. Là nhạy cảm và cũng là
lỳ lợm bất chấp dư luận. Là ích kỷ và là khổ hạnh... Tất cả đều có
thể có ở Nguyễn Khải miễn là hoàn cảnh đòi hỏi, cụ thể hơn miễn đó
là để cần cho sự sáng tác,
cho cái sự ông được mọi người biết tên biết mặt.
Vào khoảng mấy năm 1976-77, có một bộ sách mà anh em
viết văn ở tạp chí Văn nghệ quân đội truyền tay nhau đọc: Bộ
chưởng Lục mạch thần kiếm của Kim Dung. Trong sách có nhân
vật mang tên Mộ Dung Phục. Đó là kẻ cả đời theo đuổi đến cùng một
mục đích, gần như quên mình vì mục đích và nếu như phải dùng bất cứ
phương tiện nào đạt đến mục đích đã đặt ra thì cũng sẵn sàng.
Không nhớ có phải Nguyễn Khải đã tự nhận hay là có
ai đó phát hiện ra, chỉ biết rằng tự nhiên nhiều người cảm thấy là
giữa Nguyễn Khải và Mộ Dung Phục có nhiều phần giống nhau: chỗ nồng
nhiệt hơn người của nhà văn này, chỗ làm nên sức mạnh, sự quyến rũ
và cả những bi kịch của ngòi bút ông cũng chính là ở cái ám ảnh muốn
được lên tiếng, khao khát được viết. Ở chỗ không ai viết được
mình cũng có thể viết và lại viết hay viết giỏi hơn người - mọi
người cầm bút đều có thể có lúc nghĩ vậy, nhưng đến Nguyễn Khải thì
phải nói ông đã sống với tư tưởng đó thật mãnh liệt, nó là lẽ sống
của ông, là nỗi đau thiêng liêng và cũng là niềm vui trần thế nơi
ông.
Cái câu ngày nào ông dùng để phác hoạ bản chất nhân
vật Tuy Kiền “Một con người tuy tinh khôn nhưng cũng rất đỗi thơ
ngây, tính toán chi li nhưng trong quan hệ bạn bè lại hồ hởi rộng
rãi và ông ta có thể dám làm tất cả mọi việc miễn sao hoàn thành
được chức trách của mình” - không gì khác cũng mang tính cách tự
thuật.
Nhiều lần Nguyễn Khải nói với tôi thoáng qua một
chút tự hào:
- Ông xem trước sau tôi vẫn là tôi chẳng có gì thay
đổi cả.
Nhưng cũng không biết
bao lần, nhất là sau khi cho in
một cuốn sách mới và được nhiều người xôn xao bàn tán, ông nhìn tôi
với vẻ ngấm ngầm thách thức:
- Đã thấy chưa, không gì có thể ràng buộc được tôi.
Cần ngả mặt hàng gì tôi cũng làm được. Cần múa trên một khoảng hẹp
bằng độ bàn tay như thế này tôi cũng múa được.
Thông thường ở nhiều người ý niệm tự do được hiểu
với nghĩa ta muốn làm gì thì làm. Còn Nguyễn Khải, ông cảm thấy rất
rõ hoàn cảnh là cụ thể. Với ông, tự do bao giờ cũng có giới hạn và
tài năng của mỗi ngòi bút là ở chỗ vẫn tìm được đầy đủ hào hứng sống
và viết trong những giới hạn được phép. Đôi khi có cảm tưởng riêng
cái việc gây cho mọi người ngạc nhiên, họ tưởng mình là thế này mà
mình hoá ra thế khác, tưởng mình bó tay bất lực song mình vẫn tung
tẩy thoải mái như thường... riêng cái việc đó đã khiến Nguyễn Khải
náo nức kỳ lạ.
Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề
bộn,bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen đầy rẫy những biến động
những bất ngờ - đấy mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút
thả sức khai vỡ.
Hãy ném mình vào những hoàn cảnh rắc rối nhất mình
vẫn tìm được lối thoát rất hiệu nghiệm.
Thành ra còn làm việc thì còn mới, hết làm việc ngày
trước ngày sau đã cũ mèm...
Những khái quát kiểu đó rất tiêu biểu cho Nguyễn
Khải: ở ông có cái lối sùng bái hành động thường thấy ở con người
hiện đại, lại có lối phù thịnh một cách rất tự nhiên và nếu suy cho
cùng ông chính là người đã tuân theo những quan niệm hiện sinh với
nghĩa sơ giản nhất của hai chữ hiện sinh, theo đó tính độc đáo tuyệt
đối của tồn tại con người được đặt lên hàng đầu.
Đã đành là nhìn cho kỹ thì mỗi chúng ta đều mang
những đặc điểm của hoàn cảnh xã hội hôm nay. Tuy nhiên bao giờ cũng
vậy, cũng có những người mà ở họ tính hội tụ cao hơn, khả năng đại
diện rõ rệt hơn.
Tôi ước ao rằng qua mấy nét phác hoạ ở đây, bạn đọc
có thể chia sẻ với tôi cái ấn tượng cuối cùng ở tôi về con người
Nguyễn Khải: nhà văn này mang khá rõ những đặc điểm của con người Việt
Nam
từ sau 1945. Niềm vui hồn nhiên trước cái hạnh phúc bé nhỏ vừa giành
được; khao khát làm nên những kỳ tích lớn lao; thiên hướng gạt bớt
đi những gì phức tạp trong suy nghĩ để còn tập trung cho các công
việc chung cấp bách hơn... Rồi cả cái lối hay lý sự hay khái quát,
sự thường xuyên quan tâm tới nhau và khi cần thì nói tuột vào mặt
nhau, dí điện nhau lột mặt nhau, cốt để thúc đẩy nhau trong công
việc, nỗi niềm rưng rưng cảm động cùng những ao ước khôn nguôi về
một ngày mai tốt đẹp hơn - có bao nhiêu đặc điểm
trong cách sống cách nghĩ của con người đã được các nhà văn tiếp nhận và
trình bày không chỉ bằng tác phẩm mà còn bằng chính con người của họ
và chính vì thế sự suy nghĩ về mỗi số phận văn học hàm chứa rất
nhiều thú vị.
Thời gian làm cho mọi người thay đổi và Nguyễn Khải
cũng không ra khỏi quy luật chung. Từ thuở Hội nhà văn VN thành lập
1957 đến nay, hơn bốn chục năm đã trôi qua, và mới đây (2001), có
dịp đọc lại một bài phát biểu trong Hội nghị thành lập Hội, tôi
không khỏi ngạc nhiên vì cách ăn nói của thời ấy:
- Còn về phần chúng ta thì chúng ta nên bớt nói, bớt
tuyên bố (...). Vì nếu chỉ bằng cái mồm thì không ai tin được ai cả.
Hiện giờ có một số đồng chí rất chú ý tìm tòi, sáng tạo trong phạm
vi nghệ thuật. Riêng tôi rất mừng vì những đồng chí đó không những
có chí mà còn có tài nữa (...). Còn một số rất ít các đồng chí khác
cũng đã nói nhiều lắm rồi, phê phán nhiều rồi thì tôi cũng xin các
đồng chí đó nên viết đi (...). Nhưng nếu một năm nay, cả năm tới,
hay cả năm sau nữa mà ta cũng chưa viết được cái gì nốt (...) thì ta
chớ có trách, quần chúng họ sẽ không nể nang gì mà hạ một câu: “Các
ông chỉ tài tán róc”.
Trước đó, ở một đoạn trên, còn có cái câu chua ngoa
mà rất thực:
- Nghĩa là làm được nhà văn cũng dễ hóc lắm, chứ
không phải muốn là được đâu. Nếu quá dễ dàng thì chúng ta cũng thất
nghiệp từ lâu rồi.
Điều đáng ngạc nhiên hơn là những lời lẽ đó lại là
của Nguyễn Khải, người gần đây sẵn sàng nói đi nói lại rằng mình
thật ra bất tài chỉ nhờ gặp thời mà trở thành nhà văn.
Cố nhiên
vấn đề không phải là phân tích xem khi nào Nguyễn Khải nói sai khi
nào nói đúng. Dẫn lại lời xưa và so sánh với lời nay, tôi chỉ muốn
nói nhà văn này đã có một cuộc tồn tại dài dài trong văn chương, ông
đã dập dềnh thay đổi theo thời cuộc và sự thay đổi của ông chẳng qua
phản ánh sự thay đổi trong tâm thế các nhà văn cũng như sự thay đổi
trong khí hậu tinh thần của xã hội nói chung. Có phần của mỗi chúng
ta trong những trang sách mà ông đã viết.
Trở về Mục Lục |