Cây
bút, đời người
Vương Trí Nhàn
|
Nghiêm Đa Văn
và rất nhiều dang dở
Hồi
chúng tôi cùng học Đại học Sư phạm, sinh viên gần như là bắt buộc
trăm phần trăm phải ở nội trú, nhưng không hiểu sao Nghiêm Đa Văn
vẫn xin được đặc cách ở ngoài cùng gia đình, hàng ngày dong xe vào
trường. Ở Hà Nội những năm ấy, một chiếc xe đạp còn là rất quý, cả
cuộc đời cán bộ nhà nước nhiều khi rút lại chỉ thấy treo trước mắt
cái ước mơ là được mua cung cấp với giá rẻ một chiếc xe Thống Nhất.
Vậy mà Văn đã sớm xoay đâu được một chiếc xe riêng, tôi không nhớ
của Tiệp hay của Trung Quốc nhưng chỉ biết chắc là loại xe trâu rất
thô. Nhìn Văn ngồi xe thật buồn cười: Không chút mặc cảm rằng mình
đang ngự trên một chiếc xe cà tèng thảm hại, mặt anh thường vẫn cứ
ánh lên một thứ vênh vênh không hề đáng ghét mà là đáng yêu lạ. Và
Văn cười, nét cười còn hơi trẻ con, dường như muốn nói với cả bọn:
“Chúng mày trông tao có oách không?”.
Về sau, gặp lại nhau trong nghề làm văn làm báo, có
khi mỗi tuần ngồi với nhau vài buổi ở căn nhà 330 Khâm Thiên của Văn
hoặc kéo về căn gác trên phố Phan Bội Châu của Lâm Quang Ngọc, cùng
với những Trần Hoàng Bách, Trần Cương, Nguyễn Vĩnh, Nguyễn Lâm tức
Lâm “râu” đôi khi có cả Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ..., cái cảm tưởng nhìn
Văn đi xe đạp hôm trước càng đậm lên trong tôi. Nghĩa là trong văn
chương, Văn cũng có chút vênh vênh đáng yêu như vậy: “Ồ, các con
trời cứ chờ đấy, tao sẽ ra tay!”. Cái câu tuyên bố xanh rờn ấy của
Văn không nhằm răn đe ai, cũng chẳng phải một thứ kiêu ngạo gì,
chẳng qua là một kiểu tự động viên mình. Viết lách là chuyện khó.
Nhưng đừng có hù doạ tôi! Trong nghề này, mỗi người có cái duyên
riêng của mình, không ai thay thế được ai. Vậy thì, cứ chờ đấy, các
anh sẽ được xem tôi lật con bài của tôi, hay dở tôi chịu.
Rút lại,
cái điều Văn muốn nói ghê gớm như thế, mà cũng chỉ là như thế. Trước
con mắt một người sống chỉ biết thu mình lại nặng về e dè sợ sệt như
tôi, cách cư xử của Văn gắt quá, mạnh quá, tôi không đủ sức làm
theo, nhưng trong thâm tâm, thấy thật hấp dẫn: Hãy chủ động làm lấy
số phận văn chương của mình. Ngoài ra mọi sự khiêm tốn vờ vịt chẳng
giúp được ai có tài hơn, do đó, đáng yêu hơn chút nào hết!
Hình như
có lần Nguyễn Khải đã viết đại ý một người đến với nghề văn như thế
nào thì về sau sẽ ở lại với nghề theo kiểu như vậy.
Nhớ
chuyện ngày xưa, Nguyễn Tuân từng đã kể mình từ biệt tỉnh Thanh ra
đi với tâm sự “Rồi đời sẽ xem. Đời sẽ xem chúng tớ húc đầu vào ánh
sáng. Chúng tớ là những cục vàng mười. Chỉ có cái hòn than tây ở
ngoài ấy mới thử được cục vàng mười này thôi”.
Ngoài ấy
nói ở đây là Hà Nội. Ông Nguyễn lúc ấy đang còn trẻ và đầy hiếu
thắng đã “khoái trá vô cùng khi được vứt lại cả cái tỉnh nhỏ ra đằng
sau mông của mình “(Đôi tri kỷ gượng).
Con
đường của Nghiêm Đa Văn và một số những người bạn cùng tuổi chúng
tôi những năm trước chiến tranh thì có khác. Trước tiên phải ra khỏi
Hà Nội đã rồi mới trở về thủ đô sau. Chúng tôi chấp nhận đi đường
vòng.
Lâm
Quang Ngọc kể: Học xong lớp 10 (tương tự như lớp 12 về sau), Văn rủ
Ngọc đi lao động ở Thái Nguyên. Bọn bất tài mới phải vào đại học,
còn tao với mày chúng ta là những ông Gooc-ki rồi chỉ có viết thôi,
Văn không úp mở gì, nói thẳng như vậy.
Vào
những năm cuối thế kỷ XX này, trong hoàn cảnh đất nước lo làm ăn
kinh tế và mở cửa để đón nhận mọi thành tựu khoa học kỹ thuật thì
trước mắt người thanh niên mở ra nhiều con đường lập nghiệp khác
nhau và số người tính chuyện viết văn hình như chẳng là bao; nhưng
vào khoảng những năm sáu mươi bảy mươi thì nghề văn oai vệ và hấp
dẫn lắm. Muốn có một cái tên để cho người đời nhớ mà lại sang trọng
thơm tho, tốt hơn hết có lẽ là cầm lấy cây bút.
Song một
trong những tiêu chuẩn đầu tiên, và chắc chắn tiêu chuẩn quan trọng
nhất của nghề văn lúc này phải là sự từng trải kinh nghiệm sống. Nôm
na mà nói, giá anh không sinh trưởng ở thành phố mà lớn lên từ những
vùng quê xa xôi, không tỏ ra thành thạo sách vở mà thạo cuộc sống
của những người lao động thì dễ được chấp nhận nhất. Lịch sử văn học
nửa sau thế kỷ XX còn ghi lại bao nhiêu trường hợp của những thanh
niên từ nông thôn lên và sau này sẽ làm chủ văn đàn. Họ là những Lê
Lựu, Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật...
Một cách
bản năng, những thanh niên lớn lên ở Hà Nội như Bùi Minh Quốc, Trần
Nhật Lam cũng như Nghiêm Đa Văn, Hoàng Hưng... hiểu ngay cái điều mà
xã hội yêu cầu. Theo lời kêu gọi của báo chí, họ nhập vào những đoàn
quân đi vỡ đất hoang, lên công trường... Và nhanh chóng, Bùi Minh
Quốc được nhiều người biết tiếng với bài Lên miền Tây:
Xe
chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi
Lên
miền Tây vời vợi nghìn trùng
Ơi miền Tây ở dưới xuôi sao nghe nói ngại
ngùng
Mà
lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
Cái
tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì
xa xôi gấp mấy cũng lên đường
Sống
ở thủ đô mà dạ để mười phương
Ngàn
khát vọng chất chồng mơ ước lớn
Đây
miền Tây núi rừng dang tay đón
Những
con người sung sướng nhất trần gian
Là
được lên đây đem sức lực căng tràn
Với
sứ mệnh vinh quang là vỡ đất
Nhưng
rồi Bùi Minh Quốc cũng trở về để học Đại học Tổng hợp. Mà Văn với
Ngọc của tôi thì về học Đại học Sư phạm. Đằng nào thì cũng là một
cách để học thêm một ít kiến thức và chờ ngày nhảy ra viết lách.
“Chỉ thi
chơi thôi không ôn ngày nào, vậy mà cũng đỗ”, sau này Văn vẫn thường
biện hộ cho cách
sống ào ào của mình bằng cách nhắc lại kinh nghiệm như vậy. Và người
ta có thể tin được điều này nếu biết rằng thời ấy trường Đại học Sư
phạm điểm không lấy gì làm cao bởi lúc đầu chỉ học có hai năm để đi
dạy cấp ba, sau hình như thấy chất lượng yếu quá nên mới cho học
thêm một năm nữa.
Cái niên
học 1963-1964 đối với chúng tôi là một thời điểm rất lạ! Chắc chắn
không ai dự đoán nổi rằng ngày 5-8 Mỹ sẽ ném bom miền Bắc và một
giai đoạn lịch sử mới bắt đầu. Nhưng lòng người thì tự nhiên đã có
một chút gì nhộn nhạo. Chúng tôi băn khoăn về nỗi không biết ra
trường chúng tôi sẽ được ném đi đâu. Như thể có một bàn tay của số
mệnh đang dăng ra và chúng tôi thì giãy giụa không chịu. Tôi nhớ
mang máng một câu trong Hoàng Lê nhất thống chí “lòng người
ao ước sự loạn lạc”, và tuy không biết rõ ràng nhưng cứ thầm ước ao
là có một cách nào để mình chưa phải đi dạy học ngay thì tuyệt biết
bao nhiêu. Có lẽ là đồng lương lúc ấy đã quá thấp và trước mặt người
thanh niên mọi con đường kiếm tiền chưa mở ra rộng rãi như bây giờ,
nên chúng tôi không muốn sớm bị bắt vít lại ở một công việc cố định.
Giá kể được đi đây đi đó để vùng vẫy một hồi mà cũng là hiểu biết
thêm thì có tới cùng trời cuối đất chúng tôi cũng không ngại.
Không ai
nói ra miệng nhưng giờ đây nghĩ lại thấy không chừng đấy cũng là một
lý do khiến chúng tôi hào hứng đến với chiến tranh từ những ngày
đầu.
Lệnh động viên, gọi một số đi nghĩa vụ quân sự đến
với cái lớp văn III thật đúng lúc. Một tốp gồm những Phạm Tiến Duật,
Tô Hoàng, Nguyễn Đình Ánh, Vương Trí Nhàn v.v... đội mũ đeo sao lên
trấn thủ Tây Bắc, và không phải ngẫu nhiên trong số này một tỷ lệ
đáng kể sẽ bắt đầu hí hoáy viết văn.
Còn Nghiêm Đa Văn được phân công vào dạy học ở Đức
Thọ, Hà Tĩnh. Cũng đất lửa chứ có phải vừa đâu, so với cánh bộ đội
Tây Bắc chúng tôi, ai khổ hơn ai mà cũng là ai có thực tế hơn ai
thật không dễ dàng phân định, có lẽ vì thế, mà cũng như chúng tôi,
cái cơn cớ để lao đầu vào viết lách ở Văn càng mạnh. Báo Văn Nghệ
bắt đầu có đăng thơ của người thày giáo trẻ. Tuyển tập thơ mang tên
Sức mới ra đời năm 1965, rồi sau đó tuyển Thơ ba năm
chống Mỹ đều lấy bài Đàn trâu Nghệ của Văn. Rồi Văn
viết truyện ngắn Ngã ba đất đỏ. Cho đến khi được gọi về làm
báo Người giáo viên nhân dân thì Nghiêm Đa Văn của chúng tôi
chưa mô phạm lên được bao nhiêu mà vẫn còn nhiều nét của anh sinh
viên văn III hồi nào, chỉ riêng cái mộng văn chương là lại càng cháy
bỏng hơn bao giờ hết.
Nhà văn Vũ Bằng trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo
từng đã định nghĩa một cách đơn giản văn chương chữ nghĩa là một thứ
không trường không thầy. Nguyễn Công Hoan, một trong những tác giả
đặc biệt chú ý mẹo mực khi sáng tác (có nghĩa là một bực thầy về kỹ
thuật) lại càng thích nhấn mạnh rằng không cần học, không có gì phải
lo học. Trong hồi ký Đời viết văn của tôi, ông nhắc đi nhắc
lại một lời khuyên mà ông coi như chân lý ấy là nếu thích viết văn
thì phải mạnh dạn viết, như người muốn biết bơi phải nhảy xuống nước
chứ cứ ở trên bờ mà nghe giảng về bơi (ý nói đọc các loại sách lý
luận) thì cả trăm năm cũng không biết bơi. Vào khoảng thời gian mà
những cây bút trẻ thời chống Mỹ bắt đầu viết, những cuốn hồi ký nói
trên chưa được in ra. Nhưng cái tinh thần vô chiêu ấy là tinh
thần chung mà giới viết văn ở ta vẫn ngầm lưu truyền từ lớp này sang
lớp khác và đến thời chúng tôi bắt tay vào viết thì các bậc đàn anh
càng thích nói ra công khai. Thành thử nó cũng đến với các bạn của
tôi một cách tự nhiên, và quả thật có tạo nên một nguồn cảm hứng
mạnh mẽ có ý nghĩa kích thích.
Lấy ví dụ trường hợp một cây bút cùng tuổi với chúng
tôi, mà lại xuất thân từ hoàn cảnh khác, tức đi một con đường khác,
mãi sau 1975 bọn tôi mới có dịp gặp, đó là nhà văn Thái Vượng.
Ít
lâu sau khi Thái Vượng qua đời, một người bạn cũ là Vũ Đình Minh có
nhắc lại nhiều kỷ niệm về con người này. Trước mắt chúng ta là một
Thái Vượng đến với văn chương cũng từ rất sớm, và phải nói cũng đầy
ảo tưởng:
“Năm 1958, Thái Vượng từ Lập Thạch về học lớp 8
trường cấp II-III Trần Phú, thị trấn Phúc Yên huyện Mê Linh, Vĩnh
Phú (...). Thái Vượng học kém, nhất là các môn khoa học tự nhiên.
Suốt ngày anh cởi trần, hì hục viết lách. Sau đó, tôi thấy anh đưa
xem cuốn vở học trò, dày độ 48 trang mà anh gọi là tiểu thuyết với
nhan đề kẻ vẽ kỹ ở ngoài bìa: Đôi uyên ương. Tôi đọc thấy bi
luỵ, kiểu mức tập tọng của văn chương Tự Lực văn đoàn. Nhưng mãi về
sau, khi tôi giễu cợt cái điều ấy, anh trợn mắt: “Cuốn đó bọn con
gái Lập Thạch xé ra từng trang để đọc rồi học thuộc lòng đấy!” (...)
Học kỳ hai năm lớp 8, anh đột ngột bỏ học, có lẽ vì không thể chịu
đựng nổi môn Toán. Anh ghi vào sổ lưu niệm của tôi: “Hẹn sẽ cùng
nhau sánh bước trên văn đàn Việt Nam” (báo Văn nghệ 14-12-96).
Mẫu người Thái Vượng mà Vũ Đình Minh nói ở đây cũng
là mẫu chung của lớp nhà văn trẻ mà nay một số sách vở vẫn gọi là
lứa chống Mỹ. Có thể bắt gặp cái nét chung đó ở nhiều người khác.
Nếu như những năm ấy, Đỗ Chu hiện ra như một thanh niên vùng quê
Kinh Bắc tài hoa, duyên dáng trong cách nói năng, nếu như Triệu Bôn
cũng nông dân nhưng lại là thứ nông dân gan lỳ chắc thiệt thì một số
bạn bè khác như Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Anh Ngọc... còn nhiều
chất của cánh học sinh Hà Nội chỉn chu, sách vở; riêng Nghiêm Đa Văn
thì lại là hiện thân của thứ nhất quỷ nhì ma bạt mạng: tưởng lông
bông mà không việc gì không thử làm; nhố nhăng mà lại rất tình
nghĩa; chẳng chuyên sâu vào cái gì cả nhưng hình như cái gì cũng
biết và thường xuyên nhởn nhơ cười cợt ngay trong sự tháo vát của
mình.
Mới mon men vào đời và vừa võ vẽ đọc dăm quyển sách
mà dám đến với nghề văn, tức đã là loại điếc không sợ súng, tay
không lao thẳng vào văn đàn rồi - nói chung nhiều người chúng tôi có
ai kém ai về những mơ mộng hão? Song Nghiêm Đa Văn mới thật là tay
tổ trong sự liều lĩnh. Thứ nhất, tuốt tuột mọi nghề từ âm nhạc, sân
khấu, tới điện ảnh, xiếc... không việc gì đối với Văn bị coi là khu
vực cấm. Văn cộng tác với nhạc sĩ Mộng Lân làm nhạc cảnh và nhạc
cảnh này được giải thưởng của Hội Nhạc sĩ. Văn viết cả kịch bản phim
hoạt hình và có vài ba kịch bản phim truyện đã được in ra... Thứ
hai, ngay trong khu vực chữ nghĩa, Văn cũng lăn từ thể loại này sang
thể loại khác. Làm thơ thì là chuyện tự nhiên rồi, nhưng Văn còn
viết truyện ngắn (tập Ngã ba đất đỏ) và hàng loạt tiểu thuyết
như Tầm cao năm tháng, Gió mặn...
Lâm Quang Ngọc, lúc ấy đã đánh tháo được khỏi việc
dạy học ở một trường phổ thông để chuyển sang ngành điện ảnh và cũng
như Văn lúc làm thơ lúc viết truyện, Lâm Quang Ngọc hay ngỏ ý vừa
thắc mắc mà cũng vừa khâm phục: “Tao không hiểu thằng Văn nó viết
vào lúc nào nữa!”. Văn đắc ý, càng cười hì hì, những ngày hè cởi
trần thân hình ngồn ngộn như một phản thịt.
Ngỡ một người như thế sẽ không biết lao tâm khổ tứ
là gì, có hay đâu, với một chiếc máy chữ cọc cạch, Văn có thể lọ mọ
cả đêm viết đủ thứ, và thứ gì cũng in dấu tài hoa.
Nhưng có lẽ không ở đâu, cái võ công “không biết mặc
cảm” ở Văn lại có khả năng giải phóng một sức sáng tạo kỳ lạ như
trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử. Dù không chuyên tâm khảo sát kỹ
lưỡng nhưng ai người quen bắt đầu mọi sự hiểu biết bằng sách vở hẳn
cũng hiểu rằng muốn viết được loại truyện này phải đọc thiên kinh
vạn quyển. Bởi vậy tôi không khỏi ngạc nhiên khi đến nhà Văn chơi
nhìn quanh căn phòng phải nói là rộng rãi chỉ thấy mấy cuốn sách
lịch sử loại đã quá cũ vứt lổng chổng chân giường, góc bàn và hình
như tuy cũng giở ra luôn nhưng chủ nhà chưa đọc cuốn nào đến trang
chót. Đã thế, tôi còn được ngớ người ra khi nghe Văn tuyên bố một
câu xanh rờn: Viết tiểu thuyết lịch sử là dễ nhất vì tha hồ bịa. Văn
đưa ra dẫn chứng: trong khi đi hỏi thêm vài chi tiết có liên quan
đến nhân vật lịch sử nọ (một người cũng mới qua đời khoảng 1930),
Văn được hai địa phương khác nhau cung cấp những dữ kiện hoàn toàn
ngược nhau.
Trở về Văn mừng lắm, trong bụng chắc mẩm rằng bịa đến mấy
cũng không sợ bị ai hạch.
Theo dõi bước đi của bạn, chúng tôi chỉ thầm bảo
nhau: cũng là một cách tồn tại trong văn học.
Nên nhớ là hồi chiến tranh và những năm sau 1975
việc in sách là nằm trong kế hoạch nhà nước, việc sử dụng giấy là
theo quy định chứ không phải ai cũng có quyền bỏ tiền in sách miễn
làm đúng luật định như sau này. Văn của chúng tôi đã bắt trúng một
yêu cầu của đời sống lúc ấy nên sách của Văn mới được in như vậy.
Một lý do nữa khiến bọn tôi dù thích hay không cũng
phải chấp nhận sáng tác của Nghiêm Đa Văn: anh đã viết đúng như anh
đã sống.
Mặc dù đã trải qua những giây phút lịch sử là cái
không khí sôi động của Đại thắng mùa xuân và đất nước thống nhất,
song nhịp sống của Hà Nội những năm sau 1975 đại khái vẫn như những
năm chiến tranh: vẫn những chiếc xe đạp chậm rãi đi về trên những
đường phố yên tĩnh. Sự sôi động có xảy ra với những chuyến nhân dân
cán bộ kéo nhau vào Sài gòn “nhận họ nhận hàng” mà nhà văn Nguyễn
Khải một lần đã nói đùa với tôi là một dịp để cả nước được đi nước
ngoài. Song một vài cái mô-bi-lét cá xanh chưa làm cho đường
phố ồn ào là bao, cũng như tiếng hát Khánh Ly Trịnh Công Sơn chỉ mới
cất lên từ những bộ A-kai cổ lỗ không làm cho những nếp nhà
tường vôi cũ kỹ có được không khí như sau này. Nhìn vào cái sự ăn
uống thì lại càng rõ. Ở trên tôi đã nói là có thời gian tuần nào
chúng tôi cũng vài ba lần tụ tập với nhau ở nhà Văn hay nhà Ngọc. Để
bàn về sự viết lách. Để thông báo với nhau về vài cuốn sách mới đọc,
kể từ những cuốn sách triết học hiện đại đến những bộ chưởng của Kim
Dung, tất cả đều từ Sài gòn mang ra. Câu chuyện thì sang trọng hơn
xưa song cái chất để dẫn chuyện thì vẫn tầm thường lắm, chỉ có ít
rượu ngang đắng ngắt với vài chục ngàn tiền lòng cho đâu bảy tám
mống cả đàn ông lẫn đàn bà. Ấy vậy mà theo tôi nhớ là chuyện rất vui
mà người thấy hể hả nhất phải kể là Nghiêm Đa Văn. Một sự dễ dãi
thường trực nơi Văn, hình như anh ăn thế nào cũng được mà ở thế nào
cũng được. Hơn thế nữa anh có cả một triết lý chỉ đạo cho sự bằng
lòng cuộc sống của mình. Anh vừa cười vừa bảo với tôi:
- Chỉ có những người anh hùng với những thằng điên
mới tính chuyện thay đổi cuộc đời. Chúng mình không phải loại thứ
nhất cũng không phải loại thứ hai, chúng mình hãy cứ sống như mình
đang có!
Còn đây là chuyện lê la trên đường của Nghiêm Đa Văn
do một bạn trẻ hơn là anh Trần Đình Nam (từng có thời gian là học
trò Văn ở trường cấp III Đức Thọ) ghi lại:
“Cái quán bia phố Cổ Tân chiều hôm ấy đông như một
buổi chợ phiên. Nếu không phải dân nhậu thật khó mà hiểu được tại
làm sao hàng trăm con người lại ngồi cắm cọc trên một đoạn vỉa hè
xi-măng nóng hầm hập, mồ hôi mẹ mồ hôi con cứ ô-tô-ma-tích bò
ra ướt sũng cả quần lót áo lót, rồi ướt ra quần dài, áo sơ mi chỉ để
uống vài cốc bia, nhá vài lát ngẩu pín, nói vài câu chuyện
tầm phào. Trên cái bãi người ướt sũng bị cái nắng mùa hạ hầm cho
chín nẫu ra ấy là một đám khói thuốc lá vần vụ như một đám mây. Thầy
Văn mặt đỏ mọng, cười nói oang oang như một anh xích lô chuyên
nghiệp. Thầy là con người của đám đông. Thầy mê mẩn những bãi bia
quán rượu tạm bợ, chật cứng người, những câu chuyện không đầu không
cuối. Hoà vào đám đông, thày như cá gặp nước. Sau này, ngày nào tôi
cũng thấy thầy đạp xe lêu têu ngoài phố như một gã vô công rồi nghề”
(Ba lần uống rượu với thầy Văn, bài đăng trên báo Văn nghệ
Bà Rịa-Vũng Tàu).
Dân dã, tầm thường, ngầu đục bụi bậm, bám sát vào
mặt đất – cái cách ăn uống và nói chung là cách sống của chúng tôi
đã thế thì văn chương của chúng tôi như thế, có gì trái quy luật đâu
mà ngạc nhiên! So với chúng tôi, Nghiêm Đa Văn chỉ trắng trợn hơn tí
chút, bất cần hơn tí chút chứ anh cũng là sản phẩm của hoàn cảnh như
tất cả chúng tôi vậy.
Những chuyện tôi vừa kể trên chủ yếu liên quan đến
những năm chống Mỹ, và kéo dài ra khoảng chục năm sau, tức tới giữa
những năm tám mươi... Rồi sự thay đổi đã tới. Một không khí bình
lặng tưởng như đã bắt rễ vào đời sống và mãi mãi như thế hoá ra cũng
có lúc bị đẩy vào quá khứ. Đời sống hiện đại là gì? Là đường phố lúc
nào cũng rồ lên tiếng xe máy. Là những mặt người sát khí đằng đằng
lao đi kiếm sống. Là những quán ăn đẹp đẽ sang trọng như nơi vui
chơi của các ông hoàng và những cửa hàng sách đủ loại best-seller
dịch vội dịch vàng bản in rất nhiều lỗi chính tả... Cái áp lực đó
của đời sống cố nhiên cũng làm cho giới viết văn của tôi xao động
hẳn lên và một người nhạy cảm như Nghiêm Đa Văn làm sao có thể ngồi
yên. Từ những năm thời chiến theo dõi sáng tác của Văn, tôi sớm nhận
ra một điều: anh làm thơ ít dần, và về sau gần như bỏ hẳn thơ. Nhưng
điều đáng nói là ở chỗ chính anh đã cố ý làm vậy. Một lần nhân có
chuyện gì đó liên quan đến Lưu Quang Vũ, Văn buột ra lời thú nhận:
“Một trong những thằng khiến tao bỏ thơ chính là thằng Vũ”. Như thế
nghĩa là thế nào? Là Văn của tôi chả lơ mơ gì cả. Anh luôn luôn vừa
sống vừa quan sát những người chung quanh. Anh không hề có ảo tưởng
về mình. Và trong cái sự gọi là bèo dạt mây trôi lang chạ kiếm ăn
anh vẫn có những sự tính toán nghiêm chỉnh. Trong khi luôn mồm tuyên
truyền cho sự thích ứng thì anh vẫn âm thầm chuẩn bị cho những thay
đổi mà không cần lớn tiếng ráo trước một lời nào hết. Trong Văn vẫn
có một người anh hùng chưa chịu chết hẳn!
Nhưng đến cái lần anh bỏ luôn cả nghề văn thì đối
với chúng tôi quả là một sự lạ lùng không ai lường trước được.
Trước sự tấn công của kinh tế thị trường, bao nhiêu
giá trị thay đổi huống chi là giới cầm bút? Từ lúc nào không rõ,
trong đám bạn bè chúng tôi, sự khảng tảng bắt đầu xuất hiện, và tới
giữa những năm tám mươi, thì tán loạn mỗi người một phương; thậm chí
có khi vẫn là người ấy, và anh ta vẫn quanh quẩn giữa đám làm nghề,
nhưng đã hoá ra “không phải mình nữa”, tự mình mất hút ngay trong
cái làng văn tưởng rất bé nhỏ này. Người đi viết sử cho các nhà máy
xí nghiệp để lấy mỗi cuốn vài chục triệu. Người đi làm phim viết
kịch với nghĩa làm hàng chiều lòng các ông chủ tỉnh nhỏ. Người
chuyên đi bình thơ nói chuyện theo giá thoả thuận... Lại có cách mất
hút với nghĩa rõ ràng hơn mất hút vào chuyện làm ăn buôn bán. Theo
lời kể của Chu Lai (trong một bài viết in trên Văn nghệ quân đội
12-1996) thì Thái Vượng mà ở trên tôi có nhắc, nhà văn Thái Vượng
trở về sau chiến tranh và tâm huyết đầy mình ấy trước khi mất cũng
đã sớm tính lại cuộc đời “Sách của anh vẫn in truyện ngắn, vẫn cho
ra đều đều nhưng trong con mắt đa cảm của anh đã vắng đi nhiều lắm
cái ánh tự tin và mơ mộng. Có lần trong một bữa rượu, anh đã ngậm
ngùi nói: “Mình thua rồi. Thua cả chất lượng lẫn số lượng rồi”. Thay
vào đó,cuộc mưu sinh lôi cuốn Thái Vượng. “Với sức khoẻ trời cho,
anh lang bạt khắp nơi. Khi một mình chống bè xuôi thác dữ, khi mượn
xe máy của bạn bè lên tận nẻo biên cương, khi lại nhảy tàu hoả vào
tận những nơi thâm sơn cùng cốc”. Về phần mình, Nghiêm Đa Văn cũng
bắt đầu một hành trình dài dặc và rắc rối tương tự. Có hồi nghe bảo
anh đang làm tham mưu, cố vấn gì đó, xách xe chạy suốt ngày để giúp
việc cho một ông trùm bên điện ảnh. Lại có hồi nghe anh chuyển đi
làm kinh tế, các-vi-dít đề rõ là chuyên viên thương mại,
trông nom quyền lợi cho một công ty nào đó tận trong Nam. Tôi được
nghe kể là trong giới âm nhạc có một nhạc sĩ sáng tác cũng giỏi mà
buôn bán bất động sản cũng tài, ông đã tổng kết một cách chí lý rằng
sáng tác thì thanh cao mà việc kiếm tiền thì đầy sức quyến rũ. Song
trong thiên hạ may ra được một vài người văn võ song toàn như người
nhạc sĩ kỳ tài ấy. Còn với số đông các nghệ sĩ, bao gồm cả giới cầm
bút, tôi chỉ thường xuyên chứng kiến một sự nông nổi tưởng mình làm
gì cũng được, và lúc nào cũng tự nhủ giá mà thế nọ, giá mà thế kia,
chứ vào cuộc là ngã ngựa! Nghiêm Đa Văn của chúng tôi cũng không
thoát khỏi ảo tưởng đó. Vốn người thông minh, nên anh nhìn đâu cũng
thấy việc để làm. Khốn nỗi, chỉ giỏi bày mưu cho người khác, chứ
toàn tính nhầm cho mình, tính nết lại nghệ sĩ, hay chạnh lòng, hay
tự ái, hơi cảm thấy bị xúc phạm là vỗ đít đứng lên, nên việc gì rồi
cũng dang dở, tay trắng vẫn hoàn tay trắng, mà loanh quanh mất dăm
bảy năm như chơi. Hết bôn ba ở các tỉnh miền Nam, mấy năm cuối đời,
Văn quay lại các tỉnh miền Bắc, nhưng lang bạt lên tận Lạng Sơn, Cao
Bằng. Thỉnh thoảng gặp lại nhau trên đường Hà Nội, anh hiện ra trước
mắt chúng tôi không còn cái vẻ non tơ hồn nhiên như hồi nào. “Trước
mắt tôi không còn ông hộ pháp nói cười hỉ hả, luôn luôn tràn trề hy
vọng nữa, mà là một thầy Văn khác, khí sắc thất thần, mặt sưng chảy,
bàn tay đặt trên bàn bợt ra như tay người chết với những cái móng
dài tím tái. Con người đăng ký hộ khẩu ngoài đường phố, con người
phải lòng các bãi bia quán rượu tạm bợ ồn ào và những câu chuyện tầm
phào không đầu không cuối, con người ấy đang ngồi đó bơ vơ đơn độc”.
Gương mặt mà đầu những năm chín mươi Trần Đình Nam bắt gặp ở một
quán rượu Hà Nội ấy cũng là gương mặt hiện ra trước mắt bọn tôi,
những Ngọc, Vĩnh, Nghiệp, Hồng... của Văn hồi nào. Có thể dự đoán là
chắc đang có một sự đổ vỡ trong anh thì phải. Thôi thì thời buổi
kinh tế thị trường này, ai muốn làm gì thì làm, miễn dám gánh chịu
lấy kết quả công việc, mà cái ý thức tự trọng ấy ở Văn có thừa, nên
nhìn theo Văn, những người quen cũ chỉ còn biết kính trọng pha chút
ái ngại.
Cuối tháng mười 1996, Văn ngã bệnh. Thận không làm
việc bình thường. Từ một nơi xa,
một người mới quen chở anh thẳng về Bạch Mai, đến lúc tạm đỡ bạn bè
mới biết mà đến thăm. Sau đó, ra viện phải thuê một căn phòng ngay
gần đấy để hàng ngày vào chữa ngoại trú, vẫn cái bệnh thận chết
tiệt. Song tất cả những ngày sau đó, Văn sống trong sự đơn độc,
không muốn ai biết là mình đang sống thế nào. Cho đến rạng sáng
7-6-1997, cái chết ập đến, con người có thời béo tốt bảy tám chục
cân gì đó, giờ héo hon chỉ còn một nửa, ai nhìn cũng xót.
Không chút màu mè hình
thức như nhiều đám ma đương thời, buổi chia tay Văn đơn sơ nhưng cảm
động. Giữa một ngày hè nóng nực chỉ có những người thân và một ít
anh em viết văn hoặc làm nghệ thuật cố kết với Văn từ xưa có mặt để
vĩnh biệt người bạn xấu số.
Lần này thì mới thật là Nghiêm Đa Văn mất hút hẳn!
Trong những ngày cuối cùng sống trên dương gian, đã
có lúc Văn có được một cái nhìn hư vô về cuộc đời mình. Người thầy
giáo ấy tâm sự với học trò cũ nay đã thành một đồng nghiệp: “Thoắt
cái đã ba mươi năm có lẻ. Hồi 64 vào khu Bốn dạy học, gia tài tao
chỉ mỗi cái ba lô đựng vài bộ áo quần, dăm cuốn sách; giờ tao cũng
chỉ có dăm cuốn sách vài bộ áo quần và cái ba lô. Ngày trước chúng
mày gọi tao là thầy. Bây giờ chính tao cũng không biết gọi tao là gì
nữa. Nhà văn, nhà biên kịch, nhà báo, người chào hàng, nhà doanh
nghiệp cố vấn... Loanh quanh một vòng giờ lại quay về nơi xuất
phát”.
Tôi không trực tiếp được nghe những lời bộc bạch ấy của Văn nhưng
tôi tin anh đã nghĩ như thế. Cuộc đời anh có nhàu nát xẹo xọ thật,
nhưng suy cho cùng so với cuộc đời nhiều người chúng tôi chỉ một bên
phô ra tanh bành, một bên đắp điếm che giấu chứ thực ra đâu có khác
gì nhiều. Dẫu sao thì đây cũng là một con người dám nhìn thẳng vào
kiếp sống của mình ngay cả khi biết chắc rằng nó không ra sao. Hơn
thế nữa anh còn tính chuyện thay đổi, anh không muốn nó truồi đi
giống mọi người, cái ý hướng chống chọi lại số phận ấy đáng quý lắm
chứ.
Gia đình phát hiện rằng người quá cố để lại cả mấy
bao tải những bản thảo chưa hoàn thành: Đúng là sự nghiệp văn chương
của Văn rất nhiều dang dở. Nhưng ở một người lúc nào cũng đầy ắp
những ý đồ làm việc thì cái chết nào chẳng là sự dang dở?!
Mấy hôm sau khi Nghiêm Đa Văn qua đời, đôi lúc tôi
cứ nghĩ vớ vẩn: giá kể... Vâng, giá kể Văn cứ yên tâm
viết lách nhì nhằng như bọn tôi thì có kém ai! Khai thác cho hết cái
oai của nghề làm báo, chạy rông ở hành lang các cuộc họp, cùng nữa
đến xí nghiệp nọ công ty kia vỗ vai mấy ông giám đốc nửa ngửa tay
xin nửa bắt buộc người ta phải cho..., những việc ấy có gì là khó
với Văn và đâu phải là chuyện Văn chưa từng làm. Sau mấy chục năm
lập nghiệp vất vả giờ đến kỳ thu hoạch, cứ trì một chút là
được! Rồi biết đâu chả có lúc thiên hạ lại đồn ầm lên là cái anh
chàng Văn bát nháo ấy cũng đang xây nhà rồi, ồ, có thể thế lắm chứ,
với Văn điều gì chả có thể xảy ra!
Song hình như tất cả những giá kể ấy là ngược
với tính cách của người đã khuất. Trong sự thường xuyên thích ứng
với đời, trong Văn vẫn đau đáu một niềm tin:
tất cả có thể làm khác,
và văn chương nếu rất thích hợp với tuổi trẻ thì cuối cùng vẫn không
phải là cái lối thoát duy nhất của một người có tâm huyết.
Lại nhớ có lần Văn đã kể với tôi một cách nghiêm
chỉnh:
- Chính
ra các cụ đặt tên cho tao là Nghiêm Văn Đa. Nhưng tao không thích,
đến lúc đi học phải làm khai sinh, mới đảo ngược lại là Nghiêm Đa
Văn. Chả phải mê văn chương gì đâu, mà chỉ đảo ngược cho vui. Mày
xem, có chết ai đâu?
Thế thì còn giá kể cái quái gì nữa, Văn nhỉ!
Trở về Mục Lục |