Chữ Quốc Ngữ Ơi, Ta Chào Mi !
Trương Quang Đệ
Mấy hôm nay thấy buồn, thấy cô đơn. Kẻ láng giềng Phương Bắc cho tàu
thuyền liên tục khiêu khích ở Bãi Tư Chính, dự án cao tốc Bắc Nam có cơ
rơi vào tay kẻ thầu cùng một duộc với Cát Linh – Hà Đông, hướng dẫn viên
du lịch Trung Quốc ở trong nước họ cũng như ở Việt Nam luôn lên giọng
rằng Việt Nam trước đây là một tỉnh của Trung Quốc….Trước tình hình đó
dân lành buồn vì không thấy các vị chính khách nói gì, chỉ có người phát
ngôn Bộ Ngoại giao phản đối lấy lệ vài câu. Lác đác có vài bài báo trên
các tờ báo địa phương lên tiếng, nhưng ảnh hưởng mờ nhạt không đi đến
đâu.
Thấy buồn đành lang thang ra phố tản bộ một vòng. Bỗng dưng lòng phấn
chấn hẳn lên khi thấy đập vào mắt vô khối biển hiẹu bằng chữ quốc ngữ :
Khách sạn ABC, Xăng dầu Petrolimex, Hớt tóc Long, Rửa xe X, Quán Ba
Miền, Bún chả Hà Nội vv.
Những chữ cái thay nhau nhảy múa dưới ánh đèn Led như nhắc nhở kẻ cô
đơn: “Dân Nam ơi, đừng buồn, chúng tôi còn thì các bạn còn!” Kẻ cô đơn
bỗng nhận ra rằng các chữ cái kia có một sức mạnh tiềm ẩn ít ai để ý
tới.
Người Âu Mỹ bình thường (không phải trí thức hay nhà báo thạo nghề)
thường hình dung các nươc châu Á láng giềng với Trung Quốc nói tiếng Hoa
và viết chữ Hán. Đến Việt Nam họ ngạc nhiên thấy khắp nơi dùng chữ cái
mà họ quen thuộc và họ có thể đánh vần được. Hóa ra Việt Nam khác với
Trung Quốc. Còn du khách Trung Quốc, bất kỳ ai cũng phải xem lại đinh
kiến mà họ quen thuộc. Rõ ràng Việt Nam, với một môi trường chữ nghĩa
như thế, không thể là một tỉnh của Trung Quốc trước đây được.
Các chữ cái la tinh, ngoài việc phân biệt ta với kẻ láng giềng Phương
Bắc, còn cho ta nhiều thứ quí giá khác. Trước hết khi ta chuyển từ chữ
Hán-Nôm sang chữ quốc ngữ, ta chuyển từ tư duy tổng hợp sang tư duy phân
tích, một tư duy làm cơ sở cho hiểu biết và sáng tạo khoa học. Lấy một
thí dụ trong lĩnh vực ngôn ngữ để minh họa điều đó.
Chữ Hán, cơ sở tạo ra chữ
Nôm, là chữ tượng ý. Thứ chữ này cho ta nghĩa đồng thời kèm theo ý tưởng
mà các thánh nhân sáng tạo ra chữ viết áp đặt vào đầu ta.
Học giả Franḉois Cheng, người Pháp gốc Hoa, trong cuốn “Ngôn ngữ
thơ Trung Hoa” – đã được Nguyễn Khắc Phi dịch ra tiếng Việt, NXB Giáo
Dục, 2018 – cho ta biết một số trường hợp tạo chữ như sau:
Chữ Tâm (quả tim) ghép với
chữ Thu (mùa thu) thành chữ Sầu (buồn)
Chữ Nhân (người) ghép với chữ Mộc (cây) thành chữ Hưu ( nghỉ ngơi)
Chữ Nhân (người) ghép với chữ Ngôn (lời nói) thành chữ Tín (tin cậy,
trung thực)
Các cách tạo chữ trên cho ta thấy khái niệm tín hiệu võ đoán của F. de
Saussure (vê tín hiệu chữ viết, không phải tín hiệu âm) bị phá vỡ. Hệ
quả là chữ Hán mang nghĩa chính kèm một nghĩa áp đặt chủ quan. Trong chữ
Sầu có chữ Tâm và chữ Thu, ý rằng mùa thu gợi buồn. Cách cảm nhận này
đâu phải đúng cho mọi người trên thế giới? Hay “nghỉ ngơi” có nghĩa là
ngồi ở gốc cây, đâu phải nơi nào cũng vậy. Theo F. Cheng, cái lợi của
chữ tượng ý gây cảm hứng cho thơ ca và nghệ thuật nói chung. Thấy chữ
Hưu (nghỉ ngơi), ta liên tưởng đến một bức tranh cổ Trung Hoa vẽ một đạo
sỹ ngồi dựa gốc cây thiu thỉu ngủ hay một bức họa của Van Gogh thể hiện
hai người thợ gặt ngủ dưới gốc cây cạnh một đống rơm. Chính cái tính có
lí do (không võ đoán) của tín hiệu ngôn ngữ tạo nên chức năng thơ ca,
tức là gán cho âm hay chữ viết một ý nghĩa nào đó. Nguyễn Du trong câu
Kiều
“Chữ Tài liền với chữ Tai một vần” dùng vần “ai” để tạo nên ràng buộc
giữa Tài năng và Tai họa. Cũng như câu thơ Pháp “Partir c’est mourir un
peu” ((Đi là chết (ở trong lòng) một ít)) thi sĩ dùng vần “ir” để nối
liền cái ra đi và cái chết (trong lòng).
Đặc thù này về tính thơ ca của chữ Hán khiến một học giả tên tuổi của ta
từng phàn nan rằng bỏ chữ Hán dùng chữ quốc ngữ là lựa chọn có hại. Đa
số người Việt nghe phàn nàn như vậy thì rợn tóc gáy, chê trách học giả
“chập mạch”. Bỏ chuyện học ba tháng là đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ,
trong khi đèn sách mười năm mới biết khoảng một ngàn chữ Nho để đi thi
tú tài thật quả cực kỳ
phiêu lưu . Nhưng nghĩ cho kỹ vị học giả đó, đứng về phía cảm nhận nghệ
thuật, phàn nàn việc bỏ các tín hiệu đậm nét thơ ca để dùng các tín hiệu
trung tính thì có thể thông cảm với ông.
Khi học chữ quốc ngữ dân ta tiếp thu một tư duy phân tích Hy La với hai
bậc phân triết ngôn ngữ theo A. Martinet. Cho một câu nói, thí dụ câu
của Trịnh Công Sơn "Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà” trongbài “Một
cõi đi về”. Bước 1 là việc phân tích câu thành các hính vị, tức là các
đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Trong câu trên các từ “biết”, “nơi”, “chốn”,
“quê”, “nhà” mang nghĩa từ vựng còn “nao”, “chẳng”, “là” có nghĩa ngữ
pháp. Bước 2 là việc phân tích từng chữ thành các âm vị (nguyên âm, phụ
âm, bán nguyên âm và thanh – yếu tố siêu đoạn tính). Chẳng hạn trong chữ
“nao” ta có phụ âm “n”, nguyên âm “a” và bán nguyên âm “w” được ghi bằng
chữ “o”. Trong chữ “nhà” ta có phụ âm “nh”, nguyên âm “a” và thanh
huyền. Các chữ cái được tạo ra một cách võ đoán, tức là không có gì liên
quan đến ngĩha mà chúng thể
hiện. Trong chữ “Nam” (chỉ phía Nam), các phụ âm “n”, “m” và nguyên âm
“a” không có gì gợi lên phía Nam cả. Tuy vậy, lâu ngày trong quá trình
sử dụng, có âm hay tổ hợp âm nào đó gợi lên một cảm xúc mơ hồ. Chẳng hạn
người ta thây âm “d” (dờ) ít nhiều gây cảm giác của cái gì đó không trọn
vẹn, dở dang (dở dang, dai dẳng, dở dở ương ương,, dớ dẫn, dài đặc, dàn
trải vv ), tổ hợp âm “up” nói lên hình thù trên nhỏ dưới to (cụp, túp,
lụp xụp, búp, úp, lúp xúp vv), âm “v” chỉ các hành động bằng tay (vá,
và, vất, vặt, viết, vịn, vẽ, vo, vun, vít, vục, vuốt vv), tổ hợp “oe”
gợi lên hình thù trên to dưới thắt lại (loe, chóe, khoe, lóe, xòe, xun
xoe, ngo ngoe, vàng hoe vv). Dầu sao chữ viết la tinh cho ta ý thức
khách quan, đánh giá sự trung tính của sự vật. Cách phân tích ngôn ngữ
bằng cách đi tìm đơn vị nhỏ nhất (hình vị, âm vị, nét khu biệt…) giúp ta
có đầu óc phân tích đến cùng, từ vật chất có hình dáng nhất định đến
phân tử, nguyên tử, các hạt cơ bản. Ta không dừng lại ở các khái niệm
khái quát âm, dương, kim , mộc, thủy hỏa, thổ như cha ông ta ngày xưa.
Một lợi thế nữa của chữ quốc ngữ là có những chữ không có nghĩa nhưng ta
vẫn đọc được, phát âm được. Chính vì thế kho tàng các chữ tiềm năng dư
trữ rất lớn, giúp ta tạo chữ dễ dàng khi cần phiên âm tiếng nước ngoài
hay tạo khái niệm mới. Với các chữ cái đ, e, n, theo thú tự đó ta có các
chữ đen, đén, đèn, đẹn, đẻn, đẽn, trong đó chỉ có chữ đen và chữ đèn là
có nghĩa, các chữ khác không có nghĩa nhưng ta vẫn phát âm được. Khi
cần, một nhà văn nhà thơ có thể cho chữ “đén” một nghĩa nào đó. Biết đâu
có ngày ta sẽ gặp câu :”Anh ấy đén lắm à?”
|