Ba Chị Em Brontë Xứ Huế Xưa
Trương Quang Đệ
Thuở xa xưa ấy, tôi đọc say mê các tác phẩm của ba chị em Brontȅ
nước Anh : Jane Eyre của Charlotte Brontȅ, Đồi gió hú (Wuthering
Heights) của Emily Brontȅ và Agnes Grey – Gia sư của Anne Brontȅ. Những
tác phẩm ấy nói về thân phận của những người phụ nữ, hai người đầy kiên
nghị trong Jane Eyre và Agnes Grey, một người có vẻ cá biệt trong Đồi
gió hú. Ba chị em Brontȅ không phải là những nhà văn bậc nhất nhưng nếu
sau này tôi không còn trí nhớ tốt nữa, tôi sẽ quên Dickens,Thackeray hay
Maugham mà chỉ còn hình ảnh ba chị em đó thôi.
Tuần trước một học trò cũ ở Hà Nội gửi tặng tôi cuốn sách vừa mới được
Hội Nhà Văn xuất bản: cuốn “Lời thì thầm của ba người con gái Huế xưa”.
Cầm cuốn sách trên tay, chưa đọc trang nào,
tự dưng tôi nghĩ đến ba chị em Brontȅ và linh tính báo cho tôi
rằng ý nghĩ đó không thể hoàn toàn vô cớ. Vì thế tôi bắt đầu đọc cuốn
sách với một nỗi lo lắng khó tả đồng thời một niềm ước vọng sâu kín:
khám phá ba chị em Brontȅ xứ Huế xưa. Sách do ba người con gái của ba
chị em xứ Huế tuyển chọn, Ba người con gái này kẻ thì ở California, kẻ
thì ở Paris, kẻ thì ở Hà Nội. Sách mở đầu với lời giới thiệu của ba
người con đó rồi đến ba tác phẩm của ba chị em và cuối cùng là Điếu văn
do nhà văn Ngô Thảo đọc trong tang lễ bà Băng
Thanh. Tác phẩm đầu của bà
Minh Đức Hoài Trinh (tên thật: Võ thị Hoài Trinh) có nhan đề “Hai
gốc cây”. Tác phẩm tiếp theo của bà Linh Bảo (tên thật: Võ thị Diệu
Viên) có nhan đề “Những đêm mưa”. Cuối cùng là những ghi chép của bà
Băng Thanh (tên đầy đủ: Võ Tá Băng Thanh) được ghi là “Những mẫu chuyện
một cuộc đời”
Ba chị em xứ Huế xưa ra đời ở Huế, trong gia đình ông Võ Chuẩn, một đại
quan triều Nguyễn, từng giữ chức Tổng đốc nhiều tỉnh lớn. Ông nội của ba
chị em là Thượng Thư bộ Lễ. Cụ Thượng thư cũng như ông Tổng đốc đều có
học thức cao, vừa Tây học vừa Nho học, tính tình phóng khoáng, cáp tiến.
Mấy chị em xứ Huế xưa hưởng thụ được nền giáo dục đa dạng đó và những gì
họ viết ra thể hiện một sự thấm nhuần sâu sắc văn hóa phương Tây cũng
như văn hóa truyền thống
phương Đông. Ba chị em viết theo phong cách hiện đại nhưng từ ngữ để mô
tả cuộc sống của giới quyền quí ngày xưa rất phù hợp tinh thần nho giáo.
Bên cạnh đó trong các tác phẩm của ba người ta tìm thấy rất nhiều thành
ngữ, tục ngữ Việt Nam, một số lượng đáng kể các câu trích dẫn nho học và
không thể không kể đến những cách nói hiện đại như “sức mạnh của thời
gian” vv.
“Hai gốc cây” của Minh Đức Hoài Trinh thuật lại chi tiết diễn biến cuộc
sống gia đình Tổng đốc Võ Chuẩn và một vài khía cạnh liên quan đến cụ
Thương Thư Võ Liêm và cụ bà.
Cuộc sống của đại gia đình được mô tả bắt đầu dưới thời Pháp
thuộc và kết thúc khi Pháp tái chiếm Huế năm 1947. Đọc chuyện này ta
thấy phảng phất chút ít không khí “Hồng Lâu Mộng” với một loạt công tử
tiểu thư khuê các. Đồng thời ta cũng thấty phảng phất khung cảnh “Les
grandes familles” (Những
gia đình bề thế) của Maurice Druon. Đậm nét là một người phụ nữ, bà Ngọc
vợ ông Chuẩn, tân tiến trong tình yêu, hòa nhã trong lễ nghi và kiên
nghị với đời.
“Những đêm mưa” của Linh Bảo cũng thuật lại chuyện gia đình nhưng dưới
góc độ khác, góc độ một phụ nữ học thức đối phó với những tình huống éo
le cho mình và cho người khác. Có nguồn tin cho biết khi tác phẩm xuất
hiện ở Miền Nam vào năm 1961, một số nhà văn kỳ cựu đã đánh giá rất cao
cách viét của Linh Bảo, Họ thán phục cách phân tích tâm lí nhân vật sắc
sảo ít thấy trong văn chương nước nhà. Thực vậy, đọc những trang viết
của Linh Bảo ai cũng thấy như đang đọc Stendhal (Đỏ và Đen) hay Flaubert
(Bà Bovary).
Ngòi
bút của Băng Thanh, trong mấy trang ghi chép về cuộc đời, sắc sảo không
kém gì người chị Linh Bảo và người em Hoài Trinh. Nhưng nếu hai chị em ở
Miền Nam có điều kiện sáng tác phong phú và xuất bản dễ dàng thì Băng
Thanh ở Miền Bắc không có thời gian để đam mê văn học. Bà trải qua một
cuộc sống gian lao vất vả chưa từng thấy. Vào những năm đầu cuộc chiến
tranh chống Pháp, bà kết hôn vói nhà thơ Phan Khắc Khoan rồi về ở nhà
chồng tại một vùng quê heo hút ở Nghệ An. Từ một tiểu thư khuê các có
học vấn cao, bà trở thàng một gái nhà quê gánh nước, nuôi heo, bổ củi,
làm ruộng, chăm sóc bố mẹ chồng già yếu và mở lớp dạy cho trẻ em trong
làng. Rồi cơn bão Cải Cách Ruộng Đất đưa bố mẹ chồng ra đấu tố, bỏ mặc
ngoài đồng đói khát cho đến chết. Vợ chồng bà cùng con cái tìm cách lánh
ra sống ở Hà Nội. Chưa được mấy năm sống yên ổn thì đến lượt chồng bà,
nhà thơ Phan Khắc Khoan, bị bắt và đi tù tám năm vì một lí do ý thức hệ
mơ hồ nào đó. Trong tám năm đằng đẳng ấy, cứ vài ba tháng bà đi hết trại
giam này đến trại giam khác ở các vùng heo hút để thăm chồng. Muốn đi
phải sắp hàng thâu đêm để mua vé xe sáng sớm mai. Muốn vê phải ngồi bên
vệ đường ba bốn ngày để đợi xe đi ngang qua. Nếu không may ngủ quên thì
phải chờ thêm vài ba ngày nữa. Một nhà nước nhân văn đúng nghĩa lẽ ra
phải tôn vinh những người như vậy. Trong hoàn cảnh bần cùng bi đát đó bà
đã nuôi dạy con cháu nên người, truyền thụ cho chúng hiểu biết bao la
của bà về văn chương, sinh ngữ, nghệ thuật.
Ba chị em có chung một điểm về nhân cách: nhờ học vấn cao nên nhìn đời
một cách phê phán, không cuồng tín, không định kiến, đầy tính khoan
dung. Ngay quan hệ trong gia đình cũng vậy, biết bao cảnh các bà mẹ ghẻ
xảo quyệt, độc ác, nhưng rồi các chị em đều tha thứ cho họ. Các tác phẩm
của hai chị em ở Miền Nam chỉ nói về cuộc sống gia đình nhưng hậu cảnh
thấp thoáng những sự kiện thời cuộc: thuộc địa, thực dân, chiến tranh,
đảo chính, cách mạng. Bà Băng Thanh ở Miền Bắc ghi lại vài nét về các sự
kiện bi thảm như cải cách ruộng đất, những oan khiên của con người như
trường hợp chồng bà, trường hợp con hùm xám đường số 4 (Đặng Văn Việt)
và các chuyện đời éo le khác.
Tôi tin rằng cuốn sách của ba chị em xứ Huế xưa sẽ mang lại cho ngườii
đọc một cảm xúc mạnh về những tấm gương phụ nữ kiên nghị tràn đầy nhân
ái. Tin tức trên các mạng xã hội cho biết Trung Tâm Văn Hóa Pháp
L’espace ở Hà Nội đã tổ chức hội thảo về cuốn sách trong tháng 9 vừa
qua. Báo CAND trong một Phụ bản Văn nghệ ngày 28/9/2019 có bài của Vũ
Quỳnh Trang ("Lắng
nghe lời thì thầm của ba người con gái Huế xưa") giới thiệu
căn kẽ gia thế sự nghiệp của ba cô gái Huế xưa.
Để kết thúc bài này tôi bày tỏ sự ngưỡng mộ chân thành đến các người
cháu gái của ba chị em xứ Huế xưa, nhờ họ mà ta được dịp may biết đến
các nữ sĩ tài năng đó. Tôi cũng ngưỡng mộ hậu duệ của nhà văn Nguyễn
Triệu Luật, học giả Nguyễn Văn Vĩnh, nhờ họ mà ta được tiếp xúc lại với
các tác giả quan trọng đó trong nền văn học nước nhà. Giá như các cơ
quan chức năng về văn học cũng tâm huyết như hậu duệ các nhà văn đó thì
hay biết bao nhiêu!
|