Hình
Bóng Quê Nhà – Dalat Dấu Yêu
Trần Quí Phiệt
Theo
chương trình hoạt động mùa hè năm 1960
của
Đại học Huế, các sinh viên tốt nghiệp được cho đi Dalat tham dự sinh
hoạt và hội thảo tại Đại học Dalat. Tôi rất vui mừng có dịp thăm viếng
thành phố nơi tôi sinh ra lần đầu
tiên sau khi theo cha tôi
về
Quảng Bình năm 1947. Cha tôi cũng muốn tôi thăm cô
Hoa, em gái kết nghĩa của cha. Tôi chỉ thấy cô
Hoa một lẩn vào lúc tôi khoảng bảy, tám tuổi. Cô đến nhà chúng tôi ở
Dalat thăm cha tôi lúc cha đau nặng rồi sau đó không bao giờ thấy lại cô
nữa. Cha tôi không bao giờ kể tôi nghe về bản chất sự liên hệ giữa cha
với cô
Hoa nhưng thỉnh thoảng cha nhắc tên cô bằng một giọng rất thân ái, do đó
tôi đoán cha tôi phải gặp cô
Hoa trước khi kết hôn với mẹ tôi. Dường như sau khi lấy mẹ tôi và về
Quảng Bình cha tôi không còn liên lạc với cô
Hoa nữa. May thay, cha tôi có địa chỉ của bác Gia, bạn của cha tôi lúc ở
Dalat, biết nhà cô
Hoa. Vì cha tôi khuyến khích tôi tìm thăm cô
Hoa và vì tò mò muốn biết chuyện gì xảy ra giữa cha tôi và cô
Hoa, tôi quyết định tìm thăm hai người bạn cũ của cha tôi. Cảm thấy như
chàng lãng tử trở về nhà sau một thời gian dài phiêu bạt, tôi nóng lòng
muốn tìm hiểu
“quá khứ” của cha tôi, mơ hồ cảm thấy
rằng mặc dù tôi còn trẻ tuổi quá khứ của tôi không tách rời quá khứ của
cha tôi.
Mười ngày ở Dalat là một trong những thời kỳ
đáng nhớ nhất trong đời tôi. Tôi bỏ qua hầu hết các sinh hoạt để thăm
viếng lại nơi tôi sinh ra và thành phố xưa của tôi trước chiến tranh
Đông dương. Hai Bác Gia đón tiếp tôi rất nhiệt tình. Mấy người con của
hai bác, kể cả đứa con gái năm tuổi sinh ra sau khi tôi rời Dalat, không
những biết tôi rất nhiều mà còn đối xử tôi như là tôi gần gũi với chúng
hơn bất cứ ai trong gia đình. Bé Hiếu đặc biệt rất quyến luyến tôi.
Thoạt đầu con bé không cho tôi ôm nó nhưng chỉ sau một hai hôm là không
rời tôi. Bác Gia gái nấu nhưng món ngon nhất cho tôi ăn. Bác Gia trai
luôn dồn dập hỏi tôi về cha tôi, mấy em tôi ở Huế và tên mới của tôi.
“Kìa, kìa,” Bác trêu tôi. “Đó không
phải
là
tên con. Tên con là Ty Anh. Con chỉ là một cậu bé con khi hai bác đến
thăm nhà ba má con ở đây.” Bác Gia trai rất hãnh diện về tôi, khen ngợi
tôi mãi về chuyện tôi mới ngoài hai mươi mà đã thành giáo sư trung học!
Mấy em con bác thay phiên đưa tôi đi xem hàng xóm của chúng lúc trước
cũng là hàng xóm của tôi. Chúng tôi nói chuyện liên miên và tôi sửng sốt
khi thấy rằng giọng Dalat của tôi trở lại thật nhanh chóng. Người tôi
run lên một niềm vui được về nhà. Chỉ có con cái của những gia đình tan
vỡ mới cảm nhận được cái diễm phúc ấy. Sống trong may mắn, chắc chắn con
cái bác
Gia không hiểu được những giọt nước mắt của tôi khi tôi bước vào nhà
chúng.
Đêm
đầu tiên ngủ tại nhà bác
Gia thật hạnh phúc đối với tôi. Tôi cuộn mình trong chăn, cố xua đuổi
cơn buồn ngủ để tận hưởng khoảnh khắc êm đềm còn lưu lại của buổi chiều
và chỉ ngủ thiếp lúc quá nửa đêm. Nằm trên chiếc giường ấm áp trong căn
phòng tuyệt đối im lặng, tôi sống lại thời thơ ấu ngay tại chỗ này,
trong thành phố này. Khi giấc ngủ từ từ đến và hữu thức ngừng lại, những
giọt mưa rơi trên mái nhà và tiếng kêu của côn trùng bên ngoài bỗng trở
nên quen thuộc với tôi đến độ tôi cảm thấy bàng hoàng. Tôi đã nghe những
âm thanh này ngày xưa và đêm nay tôi nghe chúng trở lại. Nhưng trong lúc
tôi hoàn toàn không chú ý gì những tiếng động này trong quá khứ, bây giờ
nghe lại làm tôi tràn ngập niềm vui bao la dường như những âm thanh này
không bao giờ mất nhưng nằm ở đâu đó và bây giờ bùng dậy cho tôi thưởng
thức và nhận biết được sự quan trọng của quá khứ.
Tôi thức dậy trong sự chói lọi của một buổi sáng đầy nắng trong. Ngoài
kia
một dãy núi đồi xa bao bọc trong đám
sương lam. Dưới kia là đồn đìền của bác
Gia với những vườn rau xanh mướt. Tôi mở cửa sổ để “cảm” thấy được thành
phố tuổi thơ sau bao năm xa cách. Mưa đã tạnh nhưng trời vẫn còn ướt và
lạnh. Bỗng nhiên lòng tôi se lại. Tôi thấy những cái này trước đây rồi.
Gia đình chúng tôi lúc trước sở hữu ngôi nhà hai tầng và những khoảnh
đất như thế này. Mỗi buổi sáng khi thức dậy tôi cũng thấy những đỉnh đồi
sương lam bao phủ như thế này. Chị Ngành, hơn tôi vài tuổi, thường ghé
nhà tôi và chúng tôi cùng đi đến trường. Ký ức của tôi về trường lúc tôi
học lớp năm (lớp một bây giờ) rất mơ hồ: có thể mẹ tôi dắc tôi đến
trường. Nhưng bắt đầu lớp tư (lớp hai bây giờ) vì phi cơ đồng minh oanh
tạc thường xuyên mẹ tôi nhờ Ngành lo cho tôi ở trường.
Những lúc có còi báo động phi cơ đồng minh sắp
oanh tạc Ngành đến dắc tôi chạy vào hầm trú ẩn trong bàn tay ấm áp của
nàng.
Khi
không đi học, tôi thường suốt ngày đọc sách và mơ mộng với các nhân vật
của tôi hay đi lang thang trong rừng gần nhà. Những ngọn núi Lâm Viên
huyền bí lúc nào trông lúc nào cũng như mơ ngủ đã làm cho tôi trầm tư và
lãng mạn quá sớm trong tuổi thơ. Cá tính này của tôi ngày nay vẫn còn và
là lý do tại sao tôi thích sống ở đồng quê hay gần núi rừng. Nếp sống
thành phố ồn ào náo nhiệt không thích hợp con người tôi.
Nhìn
qua cửa sổ cảnh vật trãi dài trước mắt, lòng tôi bỗng dâng lên một sự
say đắm pha lẫn buồn rầu. Quá khứ của tôi sống lại với những hồn ma được
tái sinh: chị Ngành, em gái tôi Như Cẩm, con rùa huyền bí
tại chùa Linh Sơn thường xuất hiện mỗi khi có
húy kị của hòa thượng quá cố,
vị sư già lượm hạt cơm tôi làm rớt bỏ
vào chén của ngài,
tôi và bọn trẻ con cùng lớp tham dự vào việc đuổi đánh bọn Tây con ở
trường tiểu học Dalat, người anh cùng mẹ khác cha của tôi trong bộ đồng
phục Vệ Quốc Quân, và vô số sự việc và biến cố khác, tất cả đều tranh
nhau hiện ra từ mọi ngõ ngách của ký ức tôi. Bởi vì những hồn ma của quá
khứ xuất hiện và tan biến đi rất nhanh (toàn thể quá khứ của tôi được cô
đọng lại thành vài giờ đồng hồ) và ký ức của tôi quá yếu ớt, những sự
kiện quá khứ được tạo dựng lại, những vật và người nhanh chóng biến vào
khoảng trống không. Bởi vì mọi vật vĩnh viễn tách rời khỏi tôi, tôi
không còn nắm bắt được chúng như lúc tôi còn thơ ấu, không thể tạo dựng
chúng và giữ lại trong trí tôi hoàn toàn. Thiên đường tôi đang tìm cách
nắm bắt luôn vụt khỏi tầm tay của tôi bởi vì sự can thiệp của của ý thức
và bởi vì ký ức của tôi yếu kém, thất thường, không đáng tin cậy.
Tôi
thăm viếng hai nơi nữa của thời thơ ấu trước khi chào từ giã gia đình
hai bác
Gia. Bác Gia gái đưa tôi đi thăm nhà cũ của chúng tôi lúc trước. Biết
rằng tôi cần yên tĩnh một mình để sống lại kỷ niệm xưa, Bác trở về nhà.
Tôi không tin nỗi thời thơ ấu tôi đã sống ở đây. Ngôi nhà hai tầng rộng
lớn của chúng tôi nay chỉ là
một cái trại nhỏ bé tồi tàn. Cỏ dại mọc
khắp nơi chỗ ngày trước là đồn điền xanh tươi. Bác Gia nói rằng mẹ tôi
bán tài sản gia đình cho một người đàn bà giàu có ở Saigon ít khi về đây
thăm cơ sở mới của bà. Sau xúc động ban đầu, tôi nhận biết được toàn
cảnh nơi tôi sinh ra. Gần sát cái trại nhỏ là một hàng thông cao vút tôi
thường thấy trước mặt nhà tôi. Xa hơn về phía trái nơi tôi đang đứng là
con suối uốn khúc nơi tôi và em tôi chơi thả thuyền giấy. Bên kia hàng
rào và hướng về ngọn đồi thoai thoải là con đường vòng bỏ hoang nơi đây
thỉnh thoảng tôi thấy một đoàn đồng bào thượng lưng mang gùi yên lặng đi
xuống chợ Dalat mua bán đổi chác với người thành phố. Bên kia ngọn đồi
thứ hai trước mặt tôi là nghĩa địa thành phố, những mộ bia lấp lánh
trong nắng xế chiều. Em gái nhỏ của tôi nằm ở đây. Hai mươi năm trôi qua
nhưng tôi vẫn còn nhớ thương Như Cẩm. Lần đầu tiên trong đời tôi chứng
kiến cái chết của một người thân trong gia đình và biết đau khổ như thế
nào. Tôi cảm thấy hình như một cái gì trong thân thể tôi bị mất đi (cha
tôi thường so sánh anh em như thể tay chân của mình) và từ đó tôi luôn
cảm thấy nhu cầu phải có hình bóng một người em gái trong tôi. Đó có thể
là lý do tại sao tôi quyến luyến Trang và xem nàng không những là người
yêu, một người bạn thuở ấu thời và là một người em gái nữa.
Khác với khoảng thời gian ngắn ngũi nhưng đầy hạnh phúc tôi trãi qua đêm
trước, những hình bóng quá khứ tôi tìm cách khêu gợi bây giờ làm tôi cảm
thấy đau đớn. Cảnh vật không thay đổi, nhưng những người liên quan mật
thiết với tôi và đã sống cùng tôi đã đi cả rồi và tôi cảm thấy cô đơn
hơn bao giờ hết. Trong quá khứ
tôi chưa bao giờ phải dùng đến ký ức vì
những người này là bản thể của tôi và tôi không cần phải nhớ họ. Tôi
được lòng yêu thương, niềm vui thú và hạnh phúc che chở mà không hay
biết, làm sao tôi có thể tỏ lòng biết ơn họ được? Bây giờ chính vì tôi
đã đánh mất ngây thơ tôi mới ý thức được sự cần thiết của người thân và
nỗi đau buồn khi họ không còn nữa. Bây giờ họ là những hồn ma nhưng tôi
vẫn cảm thấy nhu cầu tìm đến họ để được tiếp tục nuôi dưỡng. Họ không
cần phải là thành phần gia đình tôi hoàn toàn. Những người đồng bào
thượng trên đường đi đến chợ Dalat không phải bà con với tôi, nhưng họ
đã tham dự vào tiến trình lớn lên trong hạnh phúc và vô tư lự của tôi.
Họ là một phần không thể thiếu của thời kỳ tôi chỉ hiểu được ý nghĩa của
nó sau khi bị bứng gốc ra khỏi nơi tôi sinh ra vì chiến tranh và sự tan
vỡ của gia đình.
Trở về
nơi tôi sinh ra đời khiến tôi có thể chiêu hồn quá khứ thần tiên trong
giây lát. Thân thể tôi như chiếc phong linh chỉ một làn gió thoảng cũng
rung động. Nhưng tôi cảm thấy buồn rầu
khi
nhận ra điều này: những “khoảng thời gian hạnh phúc” (privileged
moments), tôi mượn câu này của Marcel
Proust,
không những ngắn ngũi mà thực chất cũng không
thuần túy hạnh phúc. Chưa vui mừng đủ tìm được thiên đường đã mất tôi đã
mơ hồ cảm thấy buồn bã và bất an. Tôi có thể tìm được quá khứ êm đềm này
lần sau trở lại không?
Khoảng thời gian quí báu này có phải
chỉ có một lần trong đời không? Tôi có cơ hội trở về tìm lại thiên đường
khi đời sống tôi mọc rễ nơi khác sau cuộc thăm viếng này hay tôi sẽ quên
Dalat và tôi không cần đi tìm quá khứ nữa?
Ý nghĩ trên của tôi như sự tiên tri của định
mệnh. Sau hơn bốn mươi năm lưu lạc năm 2000 khi về quê hương giảng dạy
trong chương trình Fulbright tôi mới có cơ hội trở lại Dalat tìm thiên
đường tuổi thơ của tôi. Lợi dụng thời gian nhàn rỗi sau giảng khóa cho
sinh viên Đại học Dalat tôi tản bộ trên khuôn viên của trường. Lúc dẫm
chân lên những phiến đá của con đường nhỏ tôi có thể đã dẫm chân bốn
mươi năm trước, cả một khoảnh khắc quá khứ thần tiên bừng sống dậy trong
tôi. Để rồi tan biến rất nhanh và không sao hồi phục được. Anh chàng
Marcel, nhân vật chính của văn hào Proust trong
Đi tìm thiên đường đã mất,
bỗng nhiên tìm lại được thiên đường khi cắn miếng bánh
madeleine và
nhấp một ngụm trà. Để rồi cũng như tôi chìm vào buồn bã mênh mông khi
ánh thiên đường vụt tắt.
|