10
Người thầy y tế chiến trường
Nam Bộ Đoàn
cán bộ vào Nam theo hướng dẫn của giao liên Khu 5, qua Khu 6, rồi chạm
đích cuối cùng là vùng đất miền Đông Nam Bộ, họ được bàn giao chuyển
tiếp sang cho các trạm giao liên Khu 7 phụ trách. Ở đây đoàn được nghỉ
một ngày lấy lại sức, rồi đi tiếp để về “R”ngày đó chưa gọi là “Miền”.
Chặng đường mới hoàn toàn khác với đường Trường Sơn, rừng sâu, núi cao,
đây là vùng đất bằng phẳng nhưng có nhiều sông, kênh rạch, những cánh
đồng lúa bao la trống trải “chó ngáp” về mùa hè. Có những cung đường
phải đi vào ban đêm, cũng có cung đường đi bằng xuồng, tệ hơn có đoạn
lội sình lầy tới gối. Phải mất hai tuần từ rừng miền Đông sang đất miền
Tây Nam Bộ, nhưng so với cuốc bộ trên đường Trường Sơn còn sướng như
tiên, trời đất thoáng đãng, ban đêm còn ngắm được cả sao trời, cơm có cá
tươi ngon do các trạm giao liên cải thiện đặt lờ, móc câu mà có. Ngày
cuối cùng đặt chiếc ba lô xuống đất căn cứ Ủy ban kháng chiến Nam Bộ ở
Đồng Tháp Mười, bên dòng kinh Dương Vương thấy sướng vô cùng. Bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp đứng thẳng lưng lên, hai tay dang rộng, ngửa mặt nhìn
cây rồi nói lớn: “Tới rồi. Tới đích rồi!”. Còn bác sĩ Nguyễn Thiện Thành
cũng không kềm được cảm xúc, cũng hô lên “Về rồi, đến rồi!”. Chỉ có hai
ông Bộ trưởng Ngô Tấn Nhơn, Ca Văn Thỉnh tuổi lớn hơn trầm tĩnh hơn
chút, tuy không bộc lộ “bùng nổ” kiểu pháo Tết như Trần Hữu Nghiệp và
Nguyễn Thiện Thành, nhưng trong ánh mắt hình như họ cũng rưng rưng. Đúng
là không sung sướng, không vui mừng mới lạ. Sau gần năm tháng ròng rã
vượt đèo, lội suối, cơm vắt, ngủ rừng, sốt rét có lúc tưởng bỏ mạng vì
những trận mưa rừng xối xả. Ai cũng thực sự hãnh diện, chinh phục được
cuộc “trường chinh” có một không hai này. Đối với bác sĩ Trần Hữu Nghiệp
và Ca Văn Thỉnh còn hơn thế, họ không chỉ chiến thắng vượt qua một con
đường mà hai con đường. Họ là những chiến binh thực thụ, vượt qua con
đường đầu tiên bằng thuyền ra miền Bắc năm 1946, và lần này là vượt
Trường Sơn trở vào Nam Bộ chỉ mới hơn một năm trước. Mãi
hít hà không khí đất trời quê hương, bỗng giật thót khi nghe tiếng người
hỏi từ trong vườn cây bên trong vọng ra:
-
Chúc mừng đoàn
kết thúc thành công chuyến đi lịch sử.
Tất cả quay sang nhìn
người vừa nói, nhưng không nhận ra đó là ai. Biết vậy, sợ mọi người khó
xử nên người đó nói tiếp:
-
Tôi Nguyễn Văn
Hưởng (Ba Hưởng) đây.
Trần Hữu Nghiệp, Nguyễn
Thiện Thành nghe tên đã lâu, lại biết bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng cũng là
cựu sinh viên Đại Học Y khoa Đông Dương, nhưng khóa trước khóa sau mà
chưa gặp bao giờ. Trần Hữu Nghiệp bấy giờ mới reo lên:
-
Anh Ba Hưởng
phải không?
-
Tôi đây, Ba
Hưởng đây! Nghe
Nguyễn Văn Hưởng nói, tất cả đều reo lên.
–
Té ra mình người cùng nhà cả. Bộ trưởng Ngô Tấn Nhơn,
hỏi:
-
Thế anh Ba ra
đón tụi này à? Nguyễn Văn Hưởng đáp:
-
Đúng rồi, còn
ai nữa! Thôi vào nhà nào, vào đó các anh trong Ủy ban kháng chiến gặp,
rồi đưa các anh về nơi ở làm việc. Riêng anh Nhơn, anh Thỉnh chắc cũng
còn hơi xa chút. Trần Hữu Nghiệp và Nguyễn Thiện Thành nơi ở, nơi làm
việc ở ngay đây.
Đúng
như bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng nói, Bộ trưởng Ngô Tấn Nhơn là đặc phái viên
Chính phủ cử vào, Bộ trưởng Giáo dục Ca Văn Thỉnh cũng thế, ở căn cứ
Đồng Tháp Mười mỗi cơ quan đều có một chỗ ở riêng biệt, cách nhau cũng
vài cây số, xa chút nhưng tránh “họa” bom pháo địch nhỡ không may chỗ
anh nào “dính” chỗ anh khác vẫn còn. Đồng
Tháp Mười là cơ quan kháng chiến, ta cũng mới bắt đầu triển khai xây
dựng vào giữa năm 1946, khi Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 bị người Pháp
phản bội. Quân Pháp dưới sự hậu thuẫn của người Anh, người Mỹ, phía Bắc
là quân Tưởng chấp nhận mặc cả rút lui đổi lấy đảo Đài Loan ly khai đại
lục Trung Quốc. Phía Nam là quân Pháp tràn vào đánh chiếm Nam Bộ, buộc
các cơ quan kháng chiến phải rút ra khỏi thành phố, thị trấn về bưng
biền lập khu bí mật chống lại quân Pháp, như lời kêu gọi của Bác Hồ
“Toàn dân kháng chiến”. Ở Hà Nội các cơ quan Chính phủ của ta do Bác Hồ,
Trung ương âm thầm tổ chức một lực lượng lên xây dựng chiến khu kháng
chiến Định Hóa, Thái Nguyên ngay từ đầu tháng 6 năm 1946. Tháng 12 năm
đó, sau khi đoàn cán bộ cấp cao có bác sĩ Trần Hữu Nghiệp lên đường vào
Nam, ngoài Bắc Chính phủ ta cũng bí mật rút lên “An Toàn Khu” chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài. Gặp
bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng mới biết, anh được Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc
Thạch thông báo qua điện mật từ Việt Bắc, có đoàn cán bộ đi Nam trong đó
có hai bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và bác sĩ Nguyễn Thiện Thành. Từ khi nghe
tin mấy tháng nay Nguyễn Văn Hưởng luôn thấp thỏm chờ đợi. Ông mong chờ
vì cơ quan y tế đang rất thiếu người, cần người, đặc biệt những trí thức
tên tuổi như Trần Hữu Nghiệp và Nguyễn Thiện Thành, họ là những người
cùng nghề, cùng ra lò từ Đại học Y khoa Đông Dương. Nguyễn Văn Hưởng còn
vận động được bác sĩ Hồ Thiệu Ngạn tức Hồ Công Nghĩa (Hai Nghĩa) bỏ
Thành phố tham gia kháng chiến, nhưng như vậy so với yêu cầu vẫn là chưa
đủ.
Nguyễn Văn Hưởng sinh năm 1906, hơn Trần Hữu Nghiệp năm tuổi, quê Chợ
Mới, tỉnh Long Xuyên. Ông thừa nhận mình tham gia cách mạng qua ảnh
hưởng của nhóm Hà Huy Giáp hay đến nhà mình “chơi”, bàn chuyện về thời
cuộc và tin tức Khu. Nguyễn Văn Hưởng cùng cụ Lưu Văn Lang, Đặng Minh
Trứ và nhiều anh em trí thức Sài Gòn khác đăng lên báo La Dépêche của De
La Chevrotière, bản tuyên ngôn của 200 nhà tri thức ủng hộ Chính phủ
kháng chiến chống Pháp và kêu gọi Chính phủ Pháp, phải điều đình với
chính phủ kháng chiến Việt Nam để cho nhân dân hai nước chấm dứt đổ máu.
Lúc Bollaert mới từ Pháp sang làm cao ủy Pháp, ba đại biểu trí thức Lưu
Văn Lang, Đặng Minh Trứ và Nguyễn Văn Hưởng đến trực tiếp gặp y, nhấn
mạnh tới Chính phủ kháng chiến mới thực sự đại diện cho ý chí nguyện
vọng nhân dân Việt Nam, nhưng hắn vẫn láo xược chối từ và chỉ công nhận
Lê Văn Hoạch là Thủ tướng Nam Kỳ Quốc.
Chính sau cuộc gặp với Bollaert không thành công, mà cũng không thành
công thật vì mình đánh giá thấp sự ngoan cố của hắn, nên bác sĩ Nguyễn
Văn Hưởng quyết định ra khu kháng chiến. Ra vùng kháng chiến khi đó đóng
ở Kinh Dương Vương, gặp ông Trần Bửu Kiếm, Phạm Thiều, cho Nguyễn Văn
Hưởng biết Trung ương điện vào cần bổ sung một người vào Chánh phủ và đề
nghị ông làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Nhưng bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng từ chối,
rồi nói lại mình là bác sĩ Y khoa 5 năm làm ở bệnh viện Pasteur, sáu năm
làm thuốc có kinh nghiệm về vi sinh, hiện nay nhiều tỉnh Nam Bộ đang có
bệnh dịch tả và trái trời (đậu mùa), xin cho được làm nghề để giải quyết
nạn dịch cứu dân. Ý kiến tâm huyết của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, được các
đồng chí ở Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ điện báo về Việt Bắc,
rồi thời gian sau ông nhận được quyết định có chữ ký của Hồ Chủ Tịch, bổ
nhiệm làm Ủy viên hành chính kháng chiến Nam Bộ, kiêm giám đốc Sở Y tế
Nam Bộ từ đó.
* Cơ
quan Sở Y tế Nam Bộ nằm trên một giồng đất có nhiều cây tràm, cây đước.
Nói cơ quan, nhưng cả Sở làm việc chung trong một ngôi nhà lá. Nhà dựng
kiểu mái dài ngăn thành nhiều phòng, cột kèo đều bằng cây tràm, loại cây
thẳng ít cành, thân không to chỉ bằng bắp đùi người mạnh, cao tới hơn
chục thước nhưng rất chắc, lại chịu nước tốt, mọc tự nhiên có rất nhiều
ở vùng Đồng Tháp Mười ẩm thấp. Cây tràm còn dùng làm bàn ghế ngồi, bàn
làm việc, trút hết lớp vỏ ngoài nhẵn bóng ghép lại với nhau trông khá
bảnh và lịch sự. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nhớ, hôm Nguyễn Văn Hưởng đón
mình và bác sĩ Nguyễn Thiện Thành đi trên chiếc cầu khỉ bắc qua một con
rạch nhỏ, chảy ra kinh Dương Vương hai bên bờ có nhiều cây dừa nước,
dưới rạch tiếng cá quẫy đớp mồi kêu tành tạch bụp bõm. Bữa trưa đó, bác
sĩ Nguyễn Văn Hưởng chiêu đãi “lính mới” Trần Hữu Nghiệp và Nguyễn Thiện
Thành món cá lóc nướng trui và nồi lẫu cá linh nấu với bông súng, rau
đắng, bông điên điển và quả thơm. Hương vị quen thuộc quê hương hơn một
năm xa cách, đặc trưng Nam Bộ được thưởng thức ngon hết sẩy. Cá lóc
nướng trui thơm mùi rơm cháy, vị ngọt thịt cá trắng tinh săn chắc. Nồi
lẫu nghi ngút khói đậm đà hương vị đồng quê, vừa ăn vừa thổi phà phà
sướng tê đầu lưỡi, ngon không thể tả xiết. Bữa cơm thật vui đón các đồng
nghiệp mới từ Bắc vào nên phá lệ chút sang đầu giờ chiều mới xong, họ
ngồi uống nước nghe tiếng gió reo bên ngoài con rạch dạt dào mát rượi,
rồi cũng chẳng câu nệ, quan cách, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng quay sang Trần
Hữu Nghiệp nói:
-
Chín Nghiệp và
Nguyễn Thiện Thành mới từ Bắc vào, trên đường đi có thể chưa nắm hết
được thông tin, ngoài đó Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương,
sau khi các ông đi được ít ngày cũng rút lên Việt Bắc lập khu kháng
chiến rồi. Ở Nam Bộ, các cơ quan, tổ chức cách mạng cũng bỏ hết thành
phố, thành thị, lên Đồng Tháp Mười. Chúng mình về đây cũng được gần một
năm, hiện tại còn nhiều khó khăn, thiếu cơ sở vật chất, nhất là thuốc
chữa bệnh. Trong dân ở các tỉnh bệnh tả, bệnh đậu mùa khá phổ biến,
trong khi lực lượng Y tế ta còn thiếu nhiều lắm. Các ông về đây, mình
thật sự rất mừng. Nghe
bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng nói, Trần Hữu Nghiệp chợt nhớ lại trước ngày
vượt biển ra miền Bắc, khi đó đang trực tiếp phụ trách huấn luyện đào
tạo một lớp y tá ở cù lao An Hóa, Mỹ Tho, nhưng giữa chừng gặp quân Pháp
tấn công nhiều học viên sợ hãi bỏ chạy hết gần một nửa. Nhưng dù sao vẫn
là thắng lợi, một nửa còn lại đó sau này trở thành cốt cán cho địa
phương. Bây giờ tình hình xem ra cũng chẳng khác trước bao nhiêu, chỉ
cần có tư duy khác, cách làm khác, quyết tâm cao nhất định về lâu dài sẽ
có một đội ngũ y tế phục vụ tốt cho nhiệm vụ kháng chiến! Nghĩ vậy, rồi
nói với bác sĩ giám đốc Sở Nguyễn Văn Hưởng:
-
Tôi nghĩ, việc
bây giờ quan trọng nhất là mở thêm nhiều lớp đào tạo nhân lực y tế mới
đáp ứng được anh Ba? Bác
sĩ Nguyễn Thiện Thành, cũng có quan điểm giống Trần Hữu Nghiệp, rồi góp
lời thêm:
-
Tôi cũng đồng
ý, với ý kiến của anh Chín Nghiệp.
Nghe
cả hai “quân sư” nói, Nguyễn Văn Hưởng hứng khởi bất ngờ vỗ tay kêu cái
rốp, miệng nở nụ cười sung sướng, rồi nói:
-
Các anh nói
thật đúng, với ý kiến của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ. Trên họ
cũng biết được đoàn các anh vào rồi, còn tôi khỏi nói mong chờ các
anh vào đến mức độ nào đâu?
Bác
sĩ Hưởng nói xong, mở chiếc túi lấy ra một tờ giấy kẹp trong cuốn vở đưa
cho bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, nói tiếp: Chín
đọc đi, lãnh đạo “R” cử tôi làm Giám đốc Sở Y tế. – Nói đến đó Nguyễn
Văn Hưởng dừng một lát, rồi rút tiếp ra bản quyết định thứ hai, đưa cho
Trần Hữu Nghiệp:
-
Đây là của anh.
Trên cũng quyết định anh làm Phó giám đốc Sở. – Nói xong quay sang
Nguyễn Thiện Thành nói tiếp: - Còn anh giữ chức, Vụ trưởng Quân Y Khu 9.
Cuộc
đón các “chiến hữu” mới, vô tình lại trở thành buổi giao ban làm việc
rất tự nhiên, giữa bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng giám đốc Sở Y tế, với bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp Phó giám đốc và bác sĩ Nguyễn Thiện Thành nhận Vụ trưởng
Quân Y Khu 9.
Tiếp
theo họ thống nhứt phân công, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp phụ trách phần công
tác tổ chức đào tạo, tiếp tục triển khai khẩn trương mở các lớp đào tạo
Cán bộ Y tế từ sơ cấp đến Trung cấp. Nghiên cứu kế hoạch, từng bước
triển khai đào tạo lên trình độ Bác sĩ.
Trong lần gặp này bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn nhớ, họ đã bàn sâu tới tình
hình dịch tả, dịch đậu mùa, đang lây lan mạnh ở các tỉnh miền Tây Nam
Bộ, nhưng hiện trạng đang thiếu vắc xin trầm trọng. Để khắc phục khó
khăn ấy, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đề nghị phải chủ động tự bào chế vắc
xin, đây là con đường thiết thực hiệu quả nhất. Nguyễn Văn Hưởng cũng
nói, nhiệm vụ này trực tiếp ông tham gia phụ trách, vì đây chính là lĩnh
vực chuyên ngành của mình. Từ tư tưởng “tự chủ”, sau đó bác sĩ Nguyễn
Văn Hưởng viết thư gởi vào thành Sài Gòn, mời thêm được nhiều bác sĩ có
chuyên môn ở lĩnh vực này ra vùng kháng chiến. Ông còn móc nối được
những bác sĩ thân quen, bạn bè đang làm việc ở Viện Pasteur ủng hộ mua
sắm được cả trang thiết bị nghiên cứu, chuyển ra căn cứ Đồng Tháp Mười
giúp sản xuất vắc xin sau đó.
* Ở
Đồng Tháp Mười được ba tháng, Sở Y tế Nam Bộ chế xong được một mẻ thuốc
trái thì có lệnh di chuyển về Khu 9. Thời kháng chiến việc di chuyển nơi
ở vẫn xảy ra thường xuyên, do yếu tố giữ bí mật an toàn là chính, nhưng
mỗi lần đi là vô cùng vất vả. Theo phân công của giám đốc sở Nguyễn Văn
Hưởng, anh Hoàng Mai đi tiền trạm gặp anh Phan Trọng Tuệ và anh Trịnh
Khánh Vàng, hai đồng chí này làm việc tại Khu 9 thông thạo thổ địa, nhờ
họ chỉ giùm địa điểm an toàn ở Thới Bình bên bờ sông Trẹm. Điểm bố trí
nằm tại Kinh 5, phòng dược khoa ở xóm mới vàm Cái Sắn. Việc đầu tiên là
làm nhà, phân công người khỏe đi đốn tràm làm kèo cột, lội rạch lấy lá
dừa nước làm mái, một nhóm khác đi đốn tre làm vách và bàn làm việc. Nhờ
rạch, vườn nhiều cây nên chỉ một tuần nhà làm xong, nhưng lại gặp ngay
dịch trái trời đang lan rộng ở tỉnh Bạc Liêu, chính quyền và nhân dân
dưới đó hoang mang lo sợ. Để chống dịch, Sở lại bắt tay ngay vào sản
xuất vắc xin trái giống gởi đi Bạc Liêu và các tỉnh. Thế nhưng, số cán
bộ ở Sở không đủ, Phó giám đốc sở Trần Hữu Nghiệp phải huy động nguồn bổ
sung từ các ông lương y, các bà đỡ, các em thanh niên tham gia, hướng
dẫn dân chúng cách rửa tay khử trùng bằng cồn, cách sát trùng chỗ da
cánh tay của người trồng trái và cách trồng trái bằng ngòi viết đã hấp
tiệt trùng. Bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp còn yêu cầu các địa phương đón chặn tất cả các ghe
xuồng qua lại dưới sông, kinh rạch, đi đâu, làm gì cũng phải dừng lại
bắt buộc trồng trái, dù ghe xuồng đó ở vùng giải phóng hay vùng địch tạm
chiếm. Kết quả thật mĩ mãn, chỉ sau một tuần phát động bệnh dịch rạp
xuống, không có bệnh nhân mới nào phát bệnh nữa. Thắng lợi này cũng nhờ
phong trào vận động quần chúng giữ gìn vệ sinh chung, không làm cầu tiêu
trên sông và phát động phong trào ba diệt: diệt ruồi, diệt muỗi và diệt
chí rận.
* Cuối
năm 1947, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp trên đường về Khu 8 bấy giờ đang đóng ở
Bến Tre, được sự đồng ý của giám đốc Nguyễn Văn Hưởng có ghé qua nhà ở
Tân Thủy, huyện Ba Tri, bấy giờ vẫn còn là vùng ta làm chủ. Nếu tính từ
khi vượt biển ra miền Bắc năm 1946, đến lúc đó là hai năm Trần Hữu
Nghiệp chưa về thăm nhà. Bà Phạm Thị Phường rất bất ngờ, khi đang ngồi
trên chiếc ghế trước nhà nghe tiếng Trần Hữu Nghiệp gọi “má”. Bà bối rối
lẫn xúc động ngước nhìn về tiếng con gọi, vì mắt bà không còn nhìn được
nữa, nhưng lệ vẫn ứa trào ra, rồi hỏi:
-
Nhuần về đó à
con?- Bà Phạm Thị Phường vẫn thích gọi cái tên thời Chín Nghiệp đầu chừa
chỏm, nghe yêu thương ấm áp. Chín Nghiệp xúc động chạy tới ôm chầm lấy
má, nước mắt rưng rưng, nói:
-
Má con đây. Còn
má có khỏe không? Thực
ra hỏi là hỏi vậy, dưới con mắt nghề thầy thuốc của Trần Hữu Nghiệp biết
má mình có gì đó không vui, không ổn. Đúng thế, sau đó bà kể về vợ con
của Chín Nghiệp. Người vợ xinh đẹp đã đi lấy chồng Tây, và các con vẫn ở
bên nhà ngoại. Ở
nhà với má được một ngày một đêm, nghe tin Chín Nghiệp về người thân anh
chị em trong gia đình kéo đến thăm rất đông. Đặc biệt mấy cậu nhóc choai
choai, nhìn Chín Nghiệp với ánh mắt đầy ngưỡng mộ. Nhìn lũ nhỏ, Chín
Nghiệp hỏi:
-
Tụi bay có đứa
nào đi với tao không? Bọn
trẻ nhìn nhau một lát, rồi có hai đứa giơ tay quá đầu đáp:
-
Đi. Hai
đứa trẻ “liều mạng” xin theo là Trần Văn Lễ, con của ông Trần Văn Đính
(Tư Đính), người anh thứ ba gọi Chín Nghiệp là chú ruột. Đứa thứ hai là
Tô Văn Dẫn con ông Tô Văn Chuyển, lấy chị gái thứ tám của Chín Nghiệp
gọi mình bằng cậu.
-
Được, về nói
với ba má tụi bay mai đi sớm nghen.
Hai
đứa nhỏ thích lắm, rồi theo lời dặn của Chín Nghiệp sáng mai sáu giờ
sáng Sáu Lễ cùng Tô Văn Dẫn đã sang nhà. Nhưng trước khi xuất phát nhìn
chúng hăm hở, Chín Nghiệp nói với hai nhỏ:
-
Sáu Lễ từ rày
theo tao làm công vụ nghen. Còn thằng Hai Dẫn, tao sẽ gởi sang làm việc
bên Sở Y tế, rồi có lớp cho mày đi học nghề. Ngày
hôm sau, chiều tối ba cậu cháu về tới cơ quan Y tế đóng cứ ở Mỏ Cày.
Trong ký ức của Sáu Lễ, về nhiệm vụ của mình trong những ngày đầu tiên
và về người chú ruột bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đến nay vẫn nhớ như in: “Ở
Mỏ Cày không lâu, chú Chín Nghiệp cho tôi đi học một khóa huấn luyện tân
binh 3 tháng, trường đóng ở Minh Đức, huyện Mỏ Cày, bấy giờ thuộc Khu 8.
Tôi học rất chăm chỉ, tích cực, nhờ vậy những kiến thức căn bản về quân
sự, chánh trị nắm rất chắc. Nhưng rồi, khi thời gian vẫn chưa kết thúc
chú Chín Nghiệp bất ngờ sang trường xin rút tôi về làm công vụ tiếp. Về
làm công vụ cho chú Chín Nghiệp, khi ở cơ quan hay lúc đi công tác đến
đâu Chú cháu cùng ở chung một nhà, mới biết chú Chín rất được người dân
quí trọng”. Tình cảm đó có lẽ bắt nguồn từ ngày Trần Hữu Nghiệp chưa
tham gia kháng chiến, nhà có phòng mạch bên thành phố Mỹ Tho chữa bệnh
cho nhiều người khắp mọi nơi, trong đó có cả người dân ở Bến Tre và đa
số bệnh nhân đến khám đều là những gia đình giàu có, khá giả. Giờ Trần
Hữu Nghiệp đi làm cách mạng, gặp lại họ ai cũng quí, rồi muốn mời ông về
ngủ nghỉ ăn ở trong nhà mình chân thành vô tư. Cũng theo Sáu Lễ, ngày đó
kháng chiến cách mạng đâu có gì, đi công tác cũng nhờ dân nuôi, dân cho
ở, là như vậy và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng không ngoại lệ như mọi cán
bộ chiến sĩ khác. Nhưng chỉ có một sự ưu tiên nho nhỏ dù không nói ra,
nhưng ai cũng biết do công việc mà mỗi khi đóng quân ở đâu anh em đều có
ý tốt, bố trí cho bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vào trong những nhà khá giả,
cao ráo, để ông vừa ở vừa làm việc giấy tờ cho thuận lợi, và những gia
đình như vậy thường là nhà mái ngói.
Một
chuyện khác, về cây súng ngắn của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Sáu Lễ cũng
kể: “Chú Chín có một cây súng ngắn 6,35 ly Browning, loại súng mà tụi
này thời đó gọi vui là “súng bắn ruồi” do người Anh sản xuất, hay là sản
phẩm hợp tác của mấy nước bên Tây, Anh, Pháp, Mỹ làm ra. Nhưng có súng,
lại ít khi thấy chú Chín Nghiệp đem ra đeo mà giữ kín trong ba lô, kể cả
những lần thầy trò đi công tác, nên cũng không mấy người biết”. Ở
Khu 8, công việc của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp rất bận rộn, bắt đầu chuẩn
bị cho kế hoạch mở lớp đào tạo y tá. Trên địa bàn còn có Trung đoàn 99
hay còn gọi (Chi đội 19), Trung đoàn trưởng là ông Đồng Văn Cống. Trung
đoàn có một bệnh viện, Sở Y tế “R” còn giao thêm nhiệm vụ cho bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp làm cố vấn chuyên môn khi cần thiết. Do vậy, việc mở
trường lớp hai bên cùng phối hợp giúp đỡ lẫn nhau. Nhiệm vụ tiếp theo,
bác sĩ Trần Hữu Nghiệp khẩn trương xây dựng bộ khung nhà trường, rồi tổ
chức tuyển học viên Khóa I gọi là Pasteur. Học viên tới từ nhiều nơi
trong Khu 8, nơi ở vẫn nhờ vào nhà dân là chính, riêng lớp học thầy trò
cùng nhau đốn cây tràm về dựng lớp, bàn ghế làm bằng tre, mái xin lá dừa
của dân đan thành tấm lợp. Ở hướng Khu 9, Sở Y tế cũng chuẩn bị mở một
lớp như vậy, mang tên Phạm Hữu Chí. Thế nhưng, việc đào tạo vẫn còn có
những bất cập, như giáo án cần có sự thống nhất trong toàn sở. Để khắc
phục nhược điểm đó, cuối năm 1947 Sở Y tế Nam Bộ tổ chức một cuộc họp
tại Cái Tàu, tỉnh Cà Mau, Khu 9. Nội dung tập trung thảo luận, đi đến
thống nhất các danh từ y học, phục vụ cho công tác giảng dạy. Chủ trì là
giám đốc Sở bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Tham gia còn có bác sĩ Nguyễn Thiện
Thành, bác sĩ Trương Công Trung, Trương Tấn Lập. Phó giám đốc sở, bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp kiêm phụ trách quân dân y Khu 8. Bác sĩ Hồ Văn Huê, bác
sĩ Trần Nam Hưng công tác tại Khu 7 Đông Nam Bộ cũng về dự. Sau hai ngày
thảo luận sôi nổi, hào hứng hội nghị thống nhất được các danh từ Y học,
mà chủ yếu từ kiến thức chuyên môn của các bác sĩ dự họp cung cấp.
* Kết
quả hội nghị giáo án được điều chỉnh hoàn thiện, ta mở nhiều lớp học như
lớp Y tá Khóa I của Khu 9, có tên là Khóa Phạm Hữu Chí. Khóa II tên là
Mai Sĩ Đoàn. Khóa III tên Joliot Curie, do bác sĩ Nguyễn Thiện Thành và
Trương Công Trung phụ trách, mở tại Quân Y viện I, Khu 9.
Tháng 10 năm 1947, sau một thời gian chuẩn bị, Phó giám đốc Sở bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp khai giảng lớp y tá đầu tiên có tên là Pasteur, tại ấp
Cổ Cò, xã Hương Mỹ, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Khóa này Trần Văn Lễ
người cháu ruột của Chín Nghiệp, theo lời khuyên của ông cũng thi vào
học như bao học viên khác và trúng tuyển. Thời chiến học tập gặp bao
nhiêu khó khăn, nhưng ai cũng say mê học tập, rèn luyện, ngày bế giảng
Sáu Lễ vẫn nhớ trường tổ chức triển lãm tuyên truyền về công tác vệ sinh
phòng bệnh, tại đình làng xã An Định, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, ngoài
học viên nhân dân còn đến dự và xem rất đông.
Từ
khóa II mang tên “Lê Văn Bờ”, Khóa III tên “Nguyễn Văn Vịnh”, đều tổ
chức mở lớp tại Ấp I, An Thới cũng huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Ấp I chỉ
có vài chục mái nhà lại ở rất xa nhau, nguồn sống chủ yếu của người dân
ở đây là cây dừa, cây ăn trái và một phần đất trồng lúa không đáng kể.
Dừa nhiều đến mức miên man như rừng, cảm giác không một loài cây nào
khác có thể cạnh tranh sống nổi với dừa! Ấp I nơi trường mở lớp nằm bên
một con rạch nhỏ, chảy ngoằn ngoèo qua nhiều ấp khác An Thới, rồi đổ ra
sông Hàm Luông. An Thới, Mỏ Cày sau cách mạng tháng Tám vẫn là vùng ta
làm chủ, vì vậy nhân dân có cảm tình với cách mạng. Trường Y tá cũng ở
rất gần bệnh viện Trung đoàn 99, Khu 8. Trung đoàn trưởng Đồng Văn Cống
là một người chỉ huy gan dạ, nổi tiếng. Phó giám đốc Sở bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp ngoài là hiệu trưởng, còn trực tiếp tham gia giảng dạy, kiêm cố
vấn cho bệnh viện Trung đoàn 99. Theo hiệp đồng mỗi khi bệnh viện có
thương binh, bệnh binh nhiều hay gặp những ca phức tạp, đều mời bác sĩ
xuống tham gia hội chẩn xử lý. Đây là giai đoạn bác sĩ Trần Hữu Hữu
Nghiệp hoạt động không biết mệt mỏi, được tín nhiệm cao trong quần chúng
và trong đồng nghiệp. Làm công vụ cho bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, Sáu Lễ
hiểu sâu sắc: “Tính chú Chín Nghiệp bình dân, dễ chịu, nhưng cũng rất
nghiêm túc. Công việc nhiều có khi ông gọi đi bất tử. Chú Chín thích
viết văn, làm thơ, khi rảnh thời gian là viết. Công việc hàng ngày sáng
đi bệnh viện trung đoàn 99, về là ông nằm võng nghỉ chút, có khi viết
tại võng. Nhiều khi ông mỏi mệt lại gọi: - Lễ lại đây tao đọc cho viết.
Có từ khó, gặp tên một thằng Tây na nô chi đó, tôi hỏi viết sao?”. Vậy
đó, sau này Sáu Lễ tiết lộ. Cuốn “Hồ Chủ Tịch trong lòng dân tộc”, ra
đời theo kiểu Trần Hữu Nghiệp nằm võng, rồi đọc cho Sáu Lễ viết giùm.
Năm
1948, trường Y tá Khu 8 mở lớp khóa II (Lê Văn Bờ), trong đó có cựu học
sinh sau này là bác sĩ Đoàn Hồng Hoa (Đoàn Thúy Ba), nguyên Thứ trưởng
Bộ Y tế, Anh hùng lao động, kể: “Tôi tham cách mạng hồi còn rất trẻ, rồi
vào công tác ở cơ quan huyện ủy, lúc đầu làm toàn những việc linh tinh
như nấu cơm, chẻ củi, có khi được phân công đi đưa đón cán bộ, nhưng
việc gì tôi cũng thấy vui vẻ. Thời gian sau tôi được huyện giới thiệu đi
thi vào học lớp Y tá Khu 8, ở xã An Thới, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
Hiệu trưởng trường bấy giờ là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, người cao, có
giọng nói rất vang, giảng bài dí dỏm, học sinh chúng tôi nghe rất dễ
hiểu”. Bác sĩ Đoàn Hồng Hoa còn nói: “thời kháng chiến ở bưng biền khó
khăn chồng chất, nhất là tài liệu giảng dạy, nhưng bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp phải tự làm giáo án, tự tìm tư liệu, để truyền đạt kiến thức cho
học sinh. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cũng có tấm lòng nhân hậu, không ngại
hy sanh gian khổ, dù ngày hay đêm có bệnh nhân gọi là đi ngay”. Thời
gian học ở trường nhiều học sinh, vẫn nhớ như in một câu chuyện về tinh
thần phục vụ của thầy Trần Hữu Nghiệp thật cảm động: “Nửa đêm thầy trò
chúng tôi được thông báo có một ca sanh khó, vậy là gọi nhau đốt đuốc lá
dừa, vai choàng túi cứu thương theo chân thầy vượt qua đêm tối, mấy lần
suýt ngã bùm xuống rạch khi bước trên cây cầu khỉ chênh vênh, và đến nơi
mới biết một ca nhau tiền đạo”. Trong hoàn cảnh khó khăn của kháng
chiến, gặp tình huống trên hỏi sao không lạnh xương sống? Nhưng nhìn nét
mặt bác sĩ Trần Hữu Nghiệp vẫn bình tĩnh, đám học trò đi cùng cũng tự
tin hơn, nhất là khi ông đưa được đứa bé ra khỏi bụng mẹ. Tuy nhiên,
niềm vui thật ngắn, nỗi lo khác lại ập đến bất ngờ máu trong người mẹ
tuôn ra xối xả. Để cầm máu, tay bác sĩ Trần Hữu Nghiệp giữ chặt động
mạch bụng của sản phụ, rồi quay sang nói với cô trò cưng:
-
Hồng Hoa máu thầy là nhóm B, em
xem sản phụ là máu gì? Học
trò Hồng Hoa làm theo lời Trần Hữu Nghiệp, rồi mắt ông sáng lên khi nghe
được thông báo, giọng phấn khích nói:
-
Cùng nhóm máu
hả? Hồng
Hoa đáp: -
Dạ, vâng. -
Được, vậy lấy máu thầy chích thẳng vào tĩnh mạch của sản phụ. Nhanh lên. Bằng
cách ấy, thầy trò Trần Hữu Nghiệp cứu được sản phụ. Bác
sĩ Đoàn Hồng Hoa còn nhớ và kể lại một trường hợp khác mà chính bà cũng
được chứng kiến, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp xử lý cứu chữa thành công một
thương binh rất nặng, để rồi kính phục tài năng y đức của thầy. Một hôm,
bệnh viện bất ngờ tiếp nhận một ca chiến sĩ ta bị thương nặng, do đạn
địch bắn trong trận chống càn vào căn cứ gãy nát chi chuyển lên. Bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp được báo cáo, rồi lập tức xuống ngay. Sau khi kiểm tra
bác sĩ Trần Hữu Nghiệp kết luận, vết thương đã hoại tử phải cưa cắt bỏ
chi! Nghe vậy, những ai có mặt lúc đó cũng giật mình choáng váng. Choáng
váng vì, muốn thực hiện ca phẩu thuật này nhất định phải cần thuốc tê,
nhưng bấy giờ bệnh viện không có. Vậy làm sao? Một câu hỏi quá khó đang
lâm vào ngõ cụt, nếu không nhanh cứu người chiến sĩ sẽ chết! Rồi một
thoáng ý nghĩ táo bạo, bật ra trong đầu bác sĩ Trần Hữu Nghiệp “chỉ còn
một cách liệu pháp, đó là tinh thần!”. Nghĩ vậy và ông nhẹ nhàng nói với
người chiến sĩ: “Sẽ rất đau, em cố chịu đựng nghen”. Hình như đây là lần
đầu, trong đời bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thực hiện một ca cắt chi chưa từng
có tiền lệ, và dù cố kềm cảm xúc giọng ông vẫn trầm lặng xuống. Hình như
người thương binh cũng nhận ra chuyện gì sắp xảy ra với mình, rồi nói:
“Xin cho tôi một phút”. Một phút đó thật vô cùng căng thẳng với bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp, cùng nhiều người khác có mặt hôm đó trong bệnh viện,
rồi bỗng người chiến sĩ trẻ cất lên tiếng hát, bài Tiến quân ca:
“Đoàn quân Việt Nam đi/chung lòng
cứu quốc…/… tiến lên cùng tiến lên/… ”. Lặng đi vài giây, nhưng giật
mình sực tỉnh, Trần Hữu Nghiệp nhớ người bác sĩ không được phép để cảm
xúc chi phối tinh thần, khi trên tay cầm con dao mổ. Hãy quên đi, ngay
cả tiếng hát kia của người chiến sĩ đã vang lên. Trước mắt bác sĩ Trần
Hữu Nghiêp, bây giờ là vết thương của người thương binh đang rất nguy
kịch. Mổ, mổ càng nhanh càng tốt! Và thật tuyệt vời, khi bài hát vừa kết
thúc, cũng là lúc bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thực hiện thành công ca phẩu
thuật. Đưa con dao mổ đỏ loang màu máu cho trò Đoàn Hồng Hoa, bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp thở phào nhẹ nhõm, rồi nói:
-
Các em biết
không. Người chiến sĩ trẻ này đã động viên tôi và tất cả chúng ta đấy! Trải
qua mấy chục năm sau ngày đất nước thống nhất, mỗi khi có dịp gặp lại
bác sĩ Trần Hữu Nghiệp người thầy thần tượng của mình, nguyên Thứ trưởng
Bộ Y tế, Anh hùng lao động bác sĩ Đoàn Hồng Hoa (Đoàn Thúy Ba) lại nhớ
tới ca mổ đặc biệt năm xưa ở vùng căn cứ kháng chiến, bệnh viện Trung
đoàn 99, Khu 8, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
|