3
Lên Sài
Gòn học trường Huỳnh Khương Ninh Trần
Hữu Nghiệp sau này ít viết hoặc có viết, nhưng cũng không nói nhiều về
vụ “quậy” rồi bị đuổi học ở trường công tỉnh Bến Tre, song chắc chắn gia
đình nhất là ba mình ông Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa, và má bà Phạm Thị
Phường rất buồn. Đó là chuyện “động trời” về thời đó, ông Trần Văn Nghĩa
rất lo, rồi đánh xe ngựa lên tỉnh đón Trần Hữu Nghiệp về. Suốt chặng
đường dài trên ba chục cây số từ tỉnh lỵ Bến Tre về quê Tân Thủy, không
khí ngồi trên xe buồn lặng thật lâu không ai nói câu nào, chỉ có tiếng
cọt kẹt, tiếng lóc cóc, của đôi bánh xe cũ mèm không có lớp cao su bó
bên ngoài là nghe rõ. Nhìn trời, nhìn mây cũng thấy u ám, Đại Hương Cả
Trần Văn Nghĩa tay giữ chặt dây cương ngựa, nhưng đầu óc đang váng vất
bao nhiêu câu hỏi, đại loại “làm sao đây?”, “cho nó nghỉ học, hay ở nhà
trồng dưa, chăn trâu cho mình?”. Nhưng ngay sau đó, ông lại dứt khoát
“không thể được! Nó học giỏi, là thằng con ngoan”. Thêm một ý tứ mang
tính sĩ diện, “nó nghỉ học mặt mũi đâu mà nhìn thiên hạ?”. “Có thể người
ta khi biết chuyện, tuy không nói ra, nhưng nhìn ánh mắt, cái nhếch môi
cười cũng đủ biết họ đang nói - con một Đại Hương Cả, giàu có, mà bị
đuổi học vì chống lại nước cha Đại Pháp”. “Không được! Thằng Chín phải
tiếp tục đi học! Hôm nay về cứ xem là nó được nghỉ phép”. Mãi nghĩ xe
chạy về đến cổng nhà lúc nào không hay. Ký ức chuyến xe cuối cùng học
trường công tỉnh, ba đưa Trần Hữu Nghiệp về nhà là như thế. Suốt cả
chặng đường dài ngồi im bặt không nói lời nào, mà có nói khi ông Đại
Hương Cả đang buồn, đang giận, biết đâu rách việc thêm. Thôi im là tốt
nhất.
Nhưng
đêm ấy là đêm “khủng khiếp” nhất với Trần Hữu Nghiệp, nhìn ba im lặng
muốn giấu đi tất cả. Những anh chị lớn có gia đình riêng ở nhà cách đó
vài ba trăm mét. Hai đứa em út còn nhỏ, học xong bài đã đi ngủ sớm. Ông
Đại Hương Cả dù cẩn trọng không muốn ồn ào chuyện thằng Chín bị đuổi
học, nên cũng chưa vội nói với vợ bà Phạm Thị Phường, nếu biết có thể
còn là “thảm họa” hơn. Nhưng linh tính mách bảo người má lại khác, bà
thấy nôn nao, sốt ruột, ngồi kéo tơ mà sao cứ rối bời bời đứt dây liên
tục. Thấy vậy, bà chán bỏ luôn, rồi bất thần đứng dậy nhìn Chín Nghiệp
mặt nó hồi hộp ngơ ngác, hỏi:
-
Hôm nay đâu
phải chủ nhật, sao con lại về hả Nhuần? – Cái tên Nhuần là tên gọi thân
thiết khi ở nhà với Chín Nghiệp, cũng là cái tên đôi khi bà Phường bắt
thóp nhận ra đứa con yêu đang cố giấu điều gì đó mà bà muốn biết.
-
Thưa má… . À…
nhà trường các thầy cô bận họp chi đó, nên cho học trò nghỉ. Thôi má
nghỉ đi, con cũng vào ngủ đây. Trần
Hữu Nghiệp trả lời má, nhưng khi vừa định bước đi, bị bà Phường gọi
giật.
-
Ngồi xuống đó.
Trả lời má đi. Có phải con giấu má điều chi phải không?
-
Hì hì … có gì
đâu má. – Trần Hữu Nghiệp đáp cứng. Nhưng xem ra càng cố thản nhiên, thì
ánh mắt của Trần Hữu Nghiệp lại lấp láy rưng rưng như lời thú tội.
-
Con đừng giấu
má, nghe Nhuần. Lời
má nói như bắt trúng tim Trần Hữu Nghiệp đang đau nhói. Cảm giác thương,
tội lỗi với má vô cùng. Má là cánh chim lớn, bao bọc chở che cho con. Má
đã vất vả dồn hết tình yêu cho mình, nỡ nào mình giấu má, dù điều mình
muốn giấu cũng không phải xấu xa gì? Chỉ là mình không muốn má buồn
thôi. Rồi khi vừa muốn nói thật với má, thì ông Trần Văn Nghĩa xuất hiện
từ trên nhà lớn bước qua nhà cầu xuống, nói với bà Phường bằng giọng dịu
dàng ấm áp ít khi thấy:
-
Tôi cũng muốn
nói với bà đây. Nó nghỉ học ở trên tỉnh rồi, chuyện đó cũng thường thôi
bà.
-
Ông nói chi hả?
Tự dưng nghỉ học mà cũng thường thôi à? – Bà Phường thảng thốt nhìn
chồng, rồi không để ông Đại Hương Cả, Trần Văn Nghĩa đáp. Bà Phường nói
tiếp:
-
Cha con ông,
nói rõ tôi nghe. Tại sao thằng Nhuần phải nghỉ học? Khi năm học còn chưa
kết thúc? Đại
Hương Cả Trần Văn Nghĩa là người có uy tín với đất Giồng Bông, tiếp xúc
với bao nhiêu loại người có trên có dưới, kinh nghiệm đầy mình với những
tình huống bất ngờ rối rắm trong thiên hạ. Đưa hai tay vỗ nhẹ vào bờ vai
vợ, ông nói tiếp giọng ấm áp, nhưng thuyết phục:
-
Tôi mới gặp
được người quen trên Sài Gòn, đưa nó lên học trên đó, trường tốt hơn,
thầy giỏi hơn. Thế bà không ưng à? Ông
Trần Văn Nghĩa nói điều đó. Trần Hữu Nghiệp và cả má mình đều trố mắt
tròn vo nhìn chồng, nhìn ba. Trần Hữu Nghiệp quá ngạc nhiên, rằng ba
mình đang cố “bịa” ra hay thay một lời giải thích, trong khi bị má truy
vấn chăng? Cũng có thể trên quảng đường dài từ tỉnh về, ông đã nghĩ ra
“chiêu” gì đó, mà cơ sở có thật? Dù chức Đại Hương Cả đứng đầu trong Ban
hội tề xã, nhưng đức tính rộng lượng, hiền lành, lòng tốt của ông biết
đâu có quí nhân phù trợ? Tuy nhiên, cảm giác của Trần Hữu Nghiệp rằng ba
mình đang tự dối bằng những lời lẽ “ngọt ngào”, để đánh lừa hạ nhiệt cơn
giận dỗi của má, kéo dài thời gian qua đêm rồi tính tiếp? Cái
đêm đó Trần Hữu Nghiệp gần như không ngủ, ngoài trời đã canh ba có tiếng
gió lùa vào khóm tre nghe xào xạt, rồi lắc rắc vài giọt mưa rơi, tiếng
côn trùng kêu ran ran nghe buồn não ruột. Trần Hữu Nghiệp nghĩ mung lung
về số phận mình, rồi gần sáng mệt quá thiếp đi lúc nào không biết.
-
Dậy, dậy…
Có
tiếng ai đó vừa lay vừa gọi Trần Hữu Nghiệp. Mở mắt lồm cồm ngồi dậy,
thấy ba đứng ngay bên giường và lạ nhất ông bận bộ cánh chỉnh chu, chiếc
áo dài mỏng thưa như vải mùng màu tím, đầu quấn khăn xếp màu đen, cổ
quàng chiếc khăn dài kiểu mốt cung đình triều Nguyễn ngày đó rất thịnh
hành ở nông thôn Nam Bộ. Đó là bộ cánh Trần Hữu Nghiệp cũng từng thấy,
mỗi khi ông đi gặp quan tổng Bảo Trị trên Phú Lễ, Bình An Đông mà thôi.
Bà Phường cũng thức dậy từ lâu, chắc chắn lúc Chín Nghiệp ngủ thiếp đi,
hai người họ đã nói hết với nhau chuyện mình vì sao bị đuổi học rồi.
“Đúng là ông đưa lên Sài Gòn thiệt, đâu có đùa như mình nghĩ tối qua?”.
Hoàn toàn chánh xác! Để tranh thủ thời gian, má dậy thật sớm nấu một nồi
xôi đậu phộng tỏa mùi thơm phức, một gói nhộng tằm rang mắm, món mà Chín
Nghiệp rất ghiền. Tất cả được chuẩn bị sẵn, để trong cái túi đan bằng
thân cây lục bình phơi khô cho hai cha con ăn dọc đường lên thành phố.
-
Đi thôi Chín. Dù
đã nghĩ đúng, ba sẽ đưa mình lên Sài Gòn, nhưng Chín Nghiệp vẫn hỏi:
-
Đi đâu đó ba? Ông
Trần Văn Nghĩa đáp ngắn gọn như ra lệnh:
-
Lên Sài Gòn! Chín
Nghiệp bật khỏi giường, chạy xuống nhà dưới đưa hai tay vục nước rửa
mặt, rồi theo ông Trần Văn Nghĩa bước lên xe ngựa. Không biết ba gọi anh
Tư Đính lúc nào, lúc ra đã thấy anh đứng đợi, ông nói “đi cho tiện ra
bến thuyền rồi giao cho anh đưa xe về”. Chiếc xe ngựa xuất phát khi
người Giồng Bông chưa mấy ai dậy đi làm đồng buổi sáng, rồi đi thẳng qua
sông Ba Lai xuống thuyền lên Sài Gòn cập bến Tàu Hủ, lúc mặt trời cũng
vừa nhô lên ngoài bãi biển Ngao Châu.
* Sài
Gòn cuối những năm hai mươi thế kỷ trước là thiên đường sầm uất. Lần đầu
tiên đến Sài Gòn, Trần Hữu Nghiệp bị choáng ngợp trước sự phồn thịnh xa
hoa lộng lẫy, nhìn cái gì cũng lạ khác xa với vùng đất Tân Thủy, Ba Tri,
người dân lam lũ, nghèo khó, đêm ngày nghe tiếng âm vang duy nhất và
nhiều nhất chính là tiếng gió rì rào sóng nước từ biển xa thổi vào. Sài
Gòn nhiều con đường thẳng tắp, mặt đường nhẵn bóng, hai bên có cột đèn
trên đó treo những chiếc bóng to bằng quả dưa. Ông Trần Văn Nghĩa thuê
một chiếc xe kéo, rồi hai ba con ngồi lên. Ông nói với người kéo xe đi
thẳng về hướng tây Bắc, mà sau này Trần Hữu Nghiệp mới biết đó là vùng
Chợ Lớn, có nhiều người Hoa sanh sống. Bất chợt Trần Hữu Nghiệp nhớ tới
chú Hía người Hoa ở Giồng Bông quê hương mình. Chú Hía người Triều Châu,
không hiểu sao chỉ có mình chú dạt vào Tân Thủy sống rồi mở tiệm hàng
xén. Chú Hía lấy vợ người Việt, chú bán các thứ đồ linh tinh như dầu lửa
thắp đèn, hột tiêu kho cá, tương tàu, chao hộp cho những người ăn chay,
cho đến nhu cầu lễ lạt cho người đã khuất như nhang, đèn cầy, giấy tiền
vàng bạc âm phủ. Chú Hía quen biết tất cả bà con trong vùng, tính tình
hề hề hà hà rất dễ chịu. Chú Hía bán hàng ai chưa có tiền trả ngay chú
thím đều cho trả chịu, ghi sổ chờ đến lúc bán heo, bán lúa mới thanh
toán. Điều Trần Hữu Nghiệp thấy tấm lòng chú Hía thật tốt, chưa bao giờ
than phiền ai dù cũng có người “xù” nợ. Nhưng bài học cho người đó mất
đi chữ tín, và chắc chắn lần sau có muốn làm cũng thấy xấu hổ, hoặc đi
tìm mua nơi khác. Sài Gòn, người Hoa hình như có tính cộng đồng cao,
buôn bán qui cũ, nền nếp, mỗi dãy phố một loại hàng như hàng đồng, hàng
sắt, hàng trống, có chỗ bày bán đầu lân, đèn lồng, nhưng nhiều nhất là
phố kinh doanh thuốc Bắc và hàng vải. Ông Trần Văn Nghĩa thấy con chăm
chú nhìn phố mãi mê, nên nói:
-
Đây là Chợ Lớn,
chủ yếu người Hoa sanh sống và buôn bán.
-
Người giống Chú
Hía ở quê mình phải không ba? – Trần Hữu Nghiệp lại nghĩ về chú Hía. Ông
Trần Văn Nghĩa đáp:
-
Ừ, Chú Hía là
người Hoa như họ. Ông
Trần Văn Nghĩa dù chỉ làm quan ở cấp xã, nhưng quan hệ rộng, nhờ cái
chức Đại Hương Cả nên kết giao quen biết nhiều người trên tổng, rồi
người trên tổng giới thiệu với người trên tỉnh cao hơn. Ông cũng từng đi
Sài Gòn nhiều lần, mua vài ba thứ đồ phụ tùng xe ngựa, dụng cụ làm
ruộng, có khi đến phố Lãn Ông cắt vài thang thuốc Bắc đem về biếu má. Ba
vợ của Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa là người giỏi chữ nho, ham đọc sách
Tàu, cũng có mối tâm giao với cụ Nguyễn Đình Chiểu, nên hiểu khá rành
đất Sài Gòn và cư dân người Hoa giỏi nghề buôn bán. Nhưng chuyện ấy,
chưa bao giờ ông Trần Văn Nghĩa kể cho Trần Hữu Nghiệp nghe. Lần đi này
vô tình hiểu thêm về ba, những điều ba mình biết chính là tiếp thu được
từ người ba vợ, ông ngoại của mình. Lịch
sử chép vào thế kỷ XVII, bấy giờ bên Trung Hoa nhà Thanh cướp ngôi nhà
Minh, một bộ phận người dân không phục bỏ xứ ra biển xuống phương Nam,
rồi ra Thuận Hóa xin chúa Nguyễn cho được làm lưu dân nước Việt, Chúa
sau đó cho vào cư trú ở vùng đất Nam Bộ. Về sau phần lớn những lưu dân
này, di chuyển tới cư trú quanh khu vực Sài Gòn. Theo
“Gia Định Thành Thông Chí”
của Trịnh Hoài Đức, Sài Gòn là tên của Chợ Lớn hiện nay, còn Sài Gòn
hiện nay xưa gọi là Bến Nghé. Người Hoa đến Sài Gòn ngày càng đông, rồi
lập phố thị (Chợ Lớn) buôn bán, dần dần trở thành một địa điểm thuận lợi
sinh hoạt kinh tế. Thời gian trôi đi, mối quan hệ xã hội đan xen với
những người Việt, nhiều lưu dân người Hoa lấy vợ Việt và ngược lại cũng
có đàn ông người Việt lấy vợ người Hoa nhưng ít, nên chúa Nguyễn cho lập
làng Minh Hương từ đó. Người Minh Hương sinh sống bằng nghề thủ công,
buôn bán, chuyên chở, về sau khi các loại nông sản trong đó chủ yếu là
lúa gạo trở thành hàng hóa, thì phố phường mọc lên ngày càng sầm uất. Từ
cuối thế kỷ thứ XVIII trở về sau, khu vực Sài Gòn nói chung trong đó có
Chợ Lớn là đầu mối giao lưu thuận lợi cho toàn vùng Nam Kỳ lục tỉnh, tỏa
lan ra cả nước và quốc tế. Năm 1858, khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam
các khu phố - chợ - bến ở Chợ Lớn càng nảy nở, lan tỏa cùng với sự mở
rộng mạng lưới giao thông thủy, bộ, khuếch trương nghề kinh doanh lúa
gạo. Tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt phát triển trong giai đoạn này và
tập trung nhiều nhất vào vùng trung tâm Chợ Lớn.
-
Thưa Cụ về đâu
ạ? Mãi
nói chuyện với con trai, Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa quên nói với người
kéo xe điểm mình sẽ đến.
-
Anh cho tôi về
trường Huỳnh Khương Ninh.
-
Dạ, có phải
trường Trung học tư thục của thầy Huỳnh Khương Ninh, trên đại lộ Beylie
không thư cụ?
-
Ồ, anh biết
thầy Huỳnh Khương Ninh à?
-
Dạ, thưa cụ. Cả
thành phố Chợ Lớn này ai cũng biết, đó là người thầy có tâm với trò lắm.
Anh
xe kéo không ngờ lại có hiểu biết đến thế. Trần Hữu Nghiệp nhớ lại. Mình
đi từ ngạc nhiên này, sang ngạc nhiên khác. Ngạc nhiên kiến thức của ông
Trần Văn Nghĩa về người Hoa. Ngạc nhiên, vì sao ông cũng biết ngôi
trường tư thục mà khi còn đang học ở trường Trung học công tỉnh Bến Tre,
nhiều đứa bạn có nhắc tới tên trường mang danh thầy Huỳnh Khương Ninh,
và ước mơ sau khi học xong chúng nó cũng muốn lên Sài Gòn xin học tại
đây. Từ
bến Tàu Hủ đến trường Huỳnh Khương Ninh trên đại lộ Beylie chừng ba cây
số, trả tiền cho anh xe lôi hết một cắc rưỡi, nhưng ông Trần Văn Nghĩa
hào phóng thấy người xe lôi vất vả, lại nhiệt tình, nên cho thêm chẳn
tròn hai cắc. Thời đó hai cắc tiền Đông Dương có giá trị rất lớn, bởi
tiền lương lao động của một phu cao su ở Thủ Dầu Một, một tháng ông chủ
đồn điền người Pháp trả cho họ nhiều nhất là hai đồng mà thôi. Buổi
chiều vừa tan học, học sinh túa ra đi từng tốp vẻ thanh bình và trật tự.
Tất cả trò đều bận đồ đồng phục một màu áo trắng, quần vàng vỏ trấu sông
nước phương Nam, trên ngực áo có thêm một chiếc phù hiệu tên trường, tên
trò, chữ trắng nền xanh. Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa chờ đám học trò ra
về hết, đưa tay lên đầu sửa lại chiếc khăn xếp cho ngay ngắn, rồi quay
sang nói với con trai Trần Hữu Nghiệp:
-
Vào thôi Chín.
Trần
Hữu Nghiệp cảm thấy bối rối lẫn một chút lo âu khi bước qua cổng trường
đi thẳng vào bên trong. Vừa lúc người bảo vệ trường xuất hiện gặp ngay
cha con ông Trần Văn Nghĩa, nhưng anh ta lễ phép hỏi:
-
Cụ đi đâu, muốn
gặp ai ạ? Ông
Trần Văn Nghĩa, đáp:
-
Anh tin giùm
tôi, nói với thầy Huỳnh có người dưới Ba Tri lên xin được gặp.
Người gác cổng nhìn ông Trần Văn Nghĩa vẻ như dò xét, nhưng thấy người
đang nói chuyện với mình có dáng một vị quan quê, nhưng vẻ hiền lành,
rồi đang định nói thêm gì đó, bỗng nghe có tiếng người từ trong trường
nói vọng ra:
-
Anh ở Ba Tri
lên à? Ông
Trần Văn Nghĩa mừng quýnh, hướng về phía người vừa nói, rồi đáp:
-
Vâng, chào
thầy.
-
Để ông cụ vào.
Người gác cổng khúm núm cúi gập người xuống, rồì nói:
-
Dạ thưa cụ,
người vừa nói đấy là thầy Huỳnh đấy ạ. Mời cụ vào. Đúng
là thầy Huỳnh Khương Ninh, một con người nghe tiếng từ lâu, nhưng chưa
có cơ hội gặp. Bên trong thầy Huỳnh nói rồi cũng từ đó bước ra thái độ
ân cần mến khách, trực tiếp đưa hai ba con ông Trần Văn Nghĩa vào văn
phòng làm việc.
* Bác
sĩ Trần Hữu Nghiệp nhớ mãi cái hôm đó, cả hai cha con lên Sài Gòn xin
vào học ở trường tư thục Huỳnh Khương Ninh trên đại lộ Beylie bên hông
Chợ Lớn, thành phố Sài Gòn. Trần Hữu Nghiệp liên tục đi từ bất ngờ này
sang bất ngờ khác. Té ra ba mình “đâu phải chuyện vừa”, bản chất hiền
lành của ông vượt xa ra ngoài phạm vi một chốn quê nghèo đất đai cằn cỗi
như Giồng Bông. Làm chức Đại Hương Cả mà không mang thù chuốc oán, không
ăn của đút như bao người khác, không cậy quyền cậy thế hách dịch người
dân. Làm quan Tề hàng xã, nhưng thường tự lấy sức mình cày cuốc ruộng
đồng là chánh, hy hữu mới thuê công thợ làm mướn nhưng thanh toán trả
tiền công sòng phẳng. Chính thầy Huỳnh Khương Ninh hồi còn nhỏ cũng theo
ba mình xuống Bến Tre, rồi đi Ba Tri tìm gặp cụ Đồ Chiểu khi ông cụ còn
sống. Bố vợ Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa là cụ Phạm Văn Cung, một nhà nho
bất đắc chí làm nghề hốt thuốc Bắc, học chữ và làm nghề bắt mạch với cụ
Đồ Chiểu người đang ở cùng làng. Thầy Huỳnh Khương Ninh rất có cảm tình
ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của cụ Đồ, và có dịp quen luôn cả cụ Phạm
Văn Cung, rồi họ trở thành bạn tâm tình từ đó. Thế là việc nhận Trần Hữu
Nghiệp vào học trường Huỳnh Khương Ninh, một trường tư thục ở Sài Gòn
danh tiếng trở nên thuận lợi. Hôm đó thầy Ninh chỉ nhìn trò Nghiệp, dáng
dấp chân thật, cao ráo, dồi dào khí chất một con người có khát vọng
tương lai mà không hỏi thêm bất cứ điều gì khác, ngoài một lời khuyên:
“Chuyện làm chánh trị là chuyện người lớn, mình còn trẻ, tương lai còn
dài, giờ phải lo học giỏi, sau này muốn làm gì cũng không muộn!”. Thầy
Huỳnh hình như nói đúng! Nói “hình như” bởi tuổi trẻ vẫn có thể làm
chính trị. Vụ à um cùng đám học trò ở trường công Bến Tre, xuống đường
cổ súy tinh thần dân tộc nhân đám tang cụ Phan Châu Trinh là một “tai
nạn”. Con đường phía trước của Trần Hữu Nghiệp là học. Học để có tri
thức, học để mở tầm nhìn xa lâu dài và khi đó làm chánh trị có sao đâu! Trần
Hữu Nghiêp học ở Sài Gòn hàng tháng ông Đại Hương Cả, có khi bà Phạm Thị
Phường cùng chồng lên thăm đem theo đồ tiếp tế gạo, tiền, hay do bận
công việc ruộng vườn không lên được thì gởi qua thuyền ghe trung chuyển
người quen từ Ba Tri lên. Nhưng chỉ một năm sau, một cú sốc lớn bất ngờ
ập đến với Trần Hữu Nghiệp, vị Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa đột ngột qua
đời ở tuổi sáu mươi hai, song trong rất nhiều tài liệu, bài viết, về nỗi
buồn, nỗi đau ấy lại không thấy bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nhắc tới ở giai
đoạn này. Nhưng ta có thể hình dung một điều chắc chắn, khi nghe tin cậu
học trò trung học vừa thoát khỏi “tai nạn” ở Bến Tre, lên Sài Gòn là vô
cùng đau khổ! Và một câu hỏi đặt ra tiếp, Trần Hữu Nghiệp có về Tân Thủy
chịu tang ba không? Câu trả lời là có! Trường trung học tư thục Huỳnh
Khương Ninh, thầy là người rất có thâm tình với cụ Phạm Văn Cung, bố vợ
Đại Hương Cả Trần Văn Nghĩa. Biết đâu, thầy cũng đi với cậu học trò cưng
Trần Hữu Nghiệp về dự tang? Hơn nữa, đường từ Sài Gòn về Tân Thủy nếu đi
bằng ghe cũng rất thuận lợi, già lắm đi sớm chỉ hết nửa ngày đã tới nơi.
Những năm sau tang của ba, hầu như Trần Hữu Nghiệp chỉ chú tâm vào đèn
sách ít đi chơi xa, mặc phố thị bao điều hấp dẫn, nên cậu học rất giỏi.
Có thể thấy điểm qua các bài kiểm tra môn, hay thi học kỳ của lớp, Trần
Hữu Nghiệp đều đạt suất sắc. Học giỏi lại ngoan, thầy Huỳnh cho cậu nhảy
lớp. Hai năm tiếp, Trần Hữu Nghiệp thi đậu Brevet Elementaire với số
điểm cao tuyệt đối, thầy Huỳnh bấy giờ là Hội đồng thành phố Sài Gòn,
vận động tiếp cho cậu học trò cưng của mình được học bổng, vào học
trường Chasseloup Laubat (trường Lê Qúi Đôn ngày nay) và thi đỗ Tú tài,
sau bốn năm học tại Sài Gòn. |