Diễn Đàn
Paul Krugman, Nobel Kinh tế 2008
Trần Hữu Dũng Paul
Krugman, 55 tuổi, người Mỹ, giáo sư đại học Princeton, vừa được Hàn
lâm viện Khoa học Thụy Điển cho biết là sẽ được giải Nobel Kinh tế
năm 2008 (lễ trao sẽ vào tháng 12), qua những đóng góp của ông về
thuyết thương mại và kinh tế địa lý. Việc Krugman được giải này
không gây nhiều ngạc nhiên. Đối với đa số đồng nghiệp, ông đã nằm
trong danh sách “đáng được Nobel” từ lâu. Tuy vậy, cũng có vài lời
đàm tiếu. Có người nhắc là, từ khoảng mười năm nay (từ khi ông cộng
tác với tờ New York Times) hầu như Krugman không có đóng góp
gì mới (có kẻ nói móc: Ủy ban Nobel đã vi phạm điều lệ là chỉ trao
giải cho người còn sống, vì “nhà kinh tế Krugman” đã qua đời gần
mười năm rồi!). Ngược lại, có người cho rằng, dù ông có xứng đáng,
trao gỉải cho ông năm nay là không đúng lúc, đáng lẽ nên đợi Bush
hết nhiệm kỳ, những công trình khoa học của Krugman (một người cực
lực chống Bush) sẽ được đánh giá khách quan hơn, và giải thưởng sẽ
không bị nghi ngờ là cách các giám khảo Nobel mượn Krugman để làm bẽ
mặt Bush!
Dù sao
thì Paul Krugman cũng được giải năm nay, vậy cũng nên biết về hai
đóng góp, quả là quan trọng, mà ông đã được tuyên dương. Thứ nhất là
cái gọi là “thuyết thương mại mới” (“new trade theory”) và thứ hai
là “kinh tế địa lý mới” (new economic geography).
1.
Trước
hết, nên biết “thuyết thương mại cũ” nói gì. Đây là lý thuyết được
dạy trong các lớp kinh tế nhập môn ở hầu hết các đại học: Quốc gia
này khác quốc gia kia về năng suất của từng công nghiệp, và về các
nguồn lực (vốn, lao động, v.v.) mà quốc gia ấy sở hữu. Những khác
biệt đó là động cơ của thương mại. Chẳng hạn, quốc gia vùng nhiệt
đới thì trồng trọt và xuất khẩu chuối, quốc gia vùng ôn đới thì
trồng trọt và xuất khẩu lúa mì; quốc gia có lao động nhiều học vấn
thì xuất khẩu hàng công nghệ cao, còn quốc gia mà lao động học vấn
kém thì xuất khẩu hàng công nghệ thấp...
“Thuyết thương mại mới” phát sinh từ nhận định rằng, dù “thuyết
thương mại cũ” soi sáng rất nhiều cơ cấu thương mại toàn cầu, vẫn
còn một số hiện tượng quan trọng mà nó không giải thích được. Khối
lượng thương mại giữa Pháp và Đức, chẳng hạn, là rất cao, dù hai
nước khá giống nhau về tài nguyên cũng như khí hậu. Mậu dịch giữa Mỹ
và Canada cũng thế. Hơn nữa, hàng hóa mà các nước đã phát triển buôn
bán với nhau thường là cùng một thứ (chẳng hạn như Mỹ xuất khầu ôtô mà cũng nhập khầu ôtô), chứ không phải luôn luôn xuất khẩu
thứ này, nhập khẩu thứ khác. (Nên để ý rằng sự kiện này đã được phát giác từ
thập kỷ 1950, Krugman không phải là người đầu tiên nhận thấy.)
Tuy đã
có một số lý thuyết giải thích hiện tượng này (thường được gọi là
“thương mại nội ngành” – intra-industy trade) nhưng hầu hết đều vá
víu, tùy tiện, chỉ áp dụng cho vài trường hợp thật cá biệt. Đóng góp to lớn
của Krugman là chứng minh rằng “thương mại nội ngành” hoàn toàn có
thể là hậu quả của (sự đa dạng) chủng loại sản phẩm và đặc tính sản
xuất. Cụ thể, có khá nhiều sản phẩm không giống lúa mì, hoặc chuối
(mà rất nhiều nơi trên thế giới sản xuất được), nhưng lại giống loại
máy bay khổng lồ (jumbo jet), mà chỉ vài nơi trên thế giới sản xuất.
Tại sao? Lý do chính là một số công nghiệp có đặc tính mà kinh tế
học gọi là “tính tiết kiệm do quy mô” (economies of scale): số lượng
sản xuất càng cao thì giá phí bình quân càng thấp. Đối với loại hàng
hóa có tính này thì thế giới chỉ cần vài cơ xưởng sản xuất là đủ.
Những cơ xưởng này tất nhiên phải tọa lạc ở nơi nào đó, và quốc gia
nào “may mắn” có chúng thì sẽ xuất khẩu những loại hàng ấy, còn các
quốc gia khác thì phải nhập khẩu từ họ. Cách
giải thích của Krugman tất nhiên dẫn đến câu hỏi: Quốc gia nào sẽ là
nơi có cơ xưởng sản xuất máy bay, hoặc một loại máy chuyên dụng,
hoặc một kiểu ôtô đặc biệt mà một số người tiêu dùng khắp thế giới
đều muốn? “Thuyết thương mại mới” của Krugman đưa câu trả lời, khá
bất ngờ và thú vị: Điều đó không quan hệ! Rất nhiều loại hàng có
tính “tiết kiệm do quy mô”; quốc gia nào cũng có một số hàng như
vậy; mọi chi tiết khác (có thể là do tình cờ của lịch sử) đều không
là quan trọng! Quan trọng là cái bức tranh toàn cảnh của thương mại
thế giới: Bức tranh ấy được định đoạt bởi những yếu tố như tài
nguyên và khí hậu (như trong thuyết thương mại “cũ”), nhưng thêm vào
đó là rất nhiều những chuyên biệt hóa căn cứ trên tính tiết kiệm do
quy mô, như thuyết thương mại “mới” vừa cho thấy. Đó là lý do tại
sao khối lượng thương mại toàn cầu trên thực tế rất lớn, nhất là
giữa những nước khá giống nhau, hơn là khối lượng mà thuyết thương
mại “cũ” (chỉ căn cứ trên sự khác biệt tài nguyên và khí hậu) tiên
đoán.
2.
Khoảng
mươi năm sau khi trình làng “thuyết thương mại mới”, Krugman đặt câu
hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu như vài (nhưng không tất cả) nguồn lực
kinh tế (cụ thể là lao động và vốn) có thể di chuyển từ nơi này đến
nơi khác? Trong thế giới của “thuyết thương mại cũ”, thương mại
(hoặc, nói cách cầu kỳ, “sự lưu động của hàng hóa”) có thể được thay
thế bằng “sự lưu động của yếu tố sản xuất”: nếu nhà máy và công nhân
có thể tự do di chuyển từ vùng này sang vùng khác, thì những nhà máy
và công nhân này sẽ phân tán đến “gần” nông dân, để “tối thiểu hóa”
phí vận chuyển nông phẩm lẫn hàng công nghiệp. Song, trong thế giới
“tiết kiệm do quy mô” mà Krugman hình dung thì “hiệu ứng ly tâm” này
(đẩy các hoạt động kinh tế ra xa nhau) sẽ gặp sự đối kháng của “hiệu
ứng hướng tâm” kéo những hoạt động ấy đến những thị trường lớn. Hiệu
ứng hướng tâm này có khuynh hướng tập trung hóa các hoạt động kinh
tế. Lấy trường hợp vua ôtô Henry Ford và kiểu xe “Model T” nổi
tiếng, làm thí dụ. Ford có thể xây nhiều nhà máy rải rác khắp nước
Mỹ để gần khách hàng. Tuy nhiên, ông sáng suốt tiên đoán rằng dù phí
chuyên chở đến khách hàng có là cao nếu tập trung sản xuất ở chỉ một
nhà máy ở bang Michigan, tập trung như thế sẽ cho phép ông khai thác
“tiết kiệm do quy mô”, phí sản xuất sẽ rất thấp, và rốt cuộc thì giá
bán sẽ rẻ hơn là sản xuất ở nhiều nhà máy nhỏ, dù gần khách hàng.
Tất
nhiên, sẽ có câu hỏi: nếu tập trung sản xuất vào một số ít địa
phương để tận dụng tiết kiệm do quy mô thì nên chọn những địa phương
nào? Krugman trả lời: đó là những địa phương có sẵn một thị trường
lớn – tức là những địa phương mà các nhà sản xuất khác cũng đã chọn
để sản xuất hàng của họ! Qua thời gian, nếu lực hướng tâm này đủ
mạnh, chúng ta sẽ có một hiệu ứng tích lũy: những vùng, do một tình
cờ lịch sử nào đó, là nơi đầu tiên có những trung tâm sản xuất thì
những vùng ấy sẽ thu hút thêm các nhà sản xuất, trở thành trung tâm
kinh tế, trong lúc những vùng khác trở thành “ngoại vi”. Chính vì
thế mà, theo Krugman, cho đến gần đây, hầu hết công nghiệp của Mỹ
đều nằm trong một “vòng đai” địa lý tương đối hẹp, trải từ miền Tân
Anh Cát Lợi (New England) đến vùng Trung Tây (Midwest) của quốc gia
này. Tương tự, Krugman nói cách ấn tượng: 60 triệu người Mỹ sống dọc
bờ biển miền Đông chẳng phải vì so với nơi khác thì phong cảnh ở đây
hữu tình hơn, hoặc khí hậu dễ chịu hơn (trái lại là khác!), song mỗi
người sống ở đây vì 60 triệu người khác cũng sống ở đây.
Với
cùng một lôgíc, Krugman giải thích tại sao một số công nghiệp nào đó
tập trung ở một địa phương nhất định, dù rằng trong trường hợp này
thì cái lôgíc sẽ dính líu đến những yếu tố như: ở địa phương ấy số
lao động chuyên môn về một ngành nào đó thì đặc biệt hùng hậu, hoặc
là ở nơi ấy có nhiều nguồn cung cấp một loại đầu vào mà nơi khác
không có.
Có thể hỏi thêm: Điều gì quyết định một công nghiệp định cư ở nơi nào? Trả lời: Thường, là một ngẫu nhiên! Ví dụ như thung lũng Silicon (Silicon Valley, trung tâm công nghiệp điện tử của Mỹ) sở dĩ được như ngày nay cũng vì hai chàng William Hewlett và David Packard (sáng lập viên đại công ty Hewlett-Packard), tẩn mẩn rị mọ trong gara của họ ở một ngôi nhà vùng đó... Một ví dụ khác: Thành phố New York là thủ phủ đồ may mặc của nước Mỹ, phần lớn là vì số lượng mậu dịch về hàng vải đã sẵn có ở đây, và vì đông đảo khách hàng đang sống ở thành phố (lớn nhất nước Mỹ) này.
Ngày
nay, hầu như ai trong giới kinh tế cũng chấp nhận căn bản của thuyết
“thương mại mới” và thuyết “địa lý kinh tế” như là hiển nhiên.
Nhưng trước Krugman thì những cách mô tả này rất là xa lạ (một ngoại
lệ: hình như Paul Samuelson, “trưởng lão” kinh tế gia Mỹ, người Mỹ
đầu tiên được Nobel kinh tế, cũng đã nghĩ đến vai trò của tiết kiệm
do quy mô trong thương mại, dù nhà kinh tế này không khai triển
thêm). Thiên tài của Krugman là nhận ra, trước mọi người, cốt tính
của một hiện tượng kinh tế quan trọng, rồi dùng một mô hình cực kỳ
đơn giản (nhưng không quá đơn giản!) để phân tích nó, trình bày nó
một cách thật dễ hiểu, mở đường cho hàng trăm nhà kinh tế khác
(trong đó có người viết bài này!) theo chân ông, khai triển thêm mô
hình ấy. Krugman cũng đã may mắn vào nghề đúng lúc kinh tế học có
nhiều tiến bộ khác mà ông có thể sử dụng trong mô hình của ông (ví
dụ như tiếp cận áp dụng thuyết trò chơi trong các phân tích về cạnh
tranh công nghiệp, hay “hàm tiêu dùng” cực kỳ giản dị, nhưng súc
tích, của Avinash Dixit và Joseph Stiglitz – từ một lý thuyết nổi
tiếng của Kelvin Lancaster -- theo đó người tiêu dùng không chỉ ham
muốn số lượng (nhiều) và chất lượng (cao) của một loại hàng mà còn
ưa chuộng sự đa loại của hàng hóa nữa). Một
chi tiết khá thú vị là người ủng hộ Krugman mạnh mẽ nhất (đã vận
động để New York Times mời Krugman về cộng tác) chính là
Thomas Friedman, nổi tiếng với ý niệm “thế giới phẳng”. Oái oăm là,
theo lý thuyết địa lý của Krugman thì toàn cầu hóa sẽ làm thế giới
... kém phẳng: chính tiến trình này sẽ củng cố vai trò của những
“thành phố toàn cầu” như New York, Luân Đôn... vì lẽ ngày càng dễ
cho những thành phố này buôn bán với cả thế giới.
4.
Tuy
không được Ủy ban Nobel chính thức tuyên dương, hai lãnh vực nghiên
cứu khác của Krugman cũng có nhiều dấu ấn đáng kể, đó là những phân
tích của ông về khủng hoảng tiền tệ và về sự phân bố thu nhập ở Mỹ.
Về khủng hoảng tiền tệ thì ông là trong số ít người bào chữa quyết
định kiểm soát ngoại hối của thủ tướng (lúc ấy) Mahathir của
Malaysia, thay vì nghe lời IMF, trong cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Á năm 1997. Còn về vấn đề phân bố thu nhập ở Mỹ thì phe bảo thủ
luôn luôn phủ nhận là sự chênh lệch trong phân bố này ngày càng
tăng, và họ cho rằng nếu có tăng thì cũng là do những yếu tố khách
quan, cụ thể là tiến bộ công nghệ. Krugman mạnh mẽ phản bác ý kiến
này. Dựa vào những con số thống kê khó chối cãi, ông chứng minh rằng
hố chênh lệch thu nhập ở Mỹ phần lớn là hậu quả của chính sách của
đảng Cộng Hòa, nhất là vào thời tổng thống Reagan.
5.
Trong
những nhà kinh tế được Nobel từ trước đến nay, có lẽ Paul Krugman là
người được biết nhiều nhất ngoài giới kinh tế, qua hai bài bình luận
mà ông viết hàng tuần cho tờ New York Times vào thứ hai và
thứ sáu, và cụ thể là sự công kích kịch liệt chính sách của Bush nói
riêng và đảng Cộng Hòa nói chung. Có thể nói là trong giới bình luận
gia, ông là cái gai khó chịu nhất trong mắt của Bush và đảng Cộng
Hòa. Tuy nhiên, liên hệ giữa Krugman và phe phóng khoáng (chống
Bush) cũng có nhiều “phức tạp”. Vào giữa thập niên 1990, ông viết
một số bài báo, cực lực chỉ trich (đôi khi hơi cao ngạo) những nhà
kinh tế mà ông cho là “đem kinh tế đi bán dạo”. Dù có học vị cao,
dạy trường danh tiếng, song, theo Krugman, những người này dùng
những lập luận lỏng lẻo, lý thuyết lỗi thời, thậm chí sai lầm, để
biện hộ cho những mục tiêu chính trị, hoặc chỉ để kiếm tiền hay vì
háo danh. Không may, trong số những người mà ông chỉ trích lại là
những nhân vật phóng khoáng có hạng (như Lester Thurow, Robert
Kuttner, Robert Reich, Laura Tyson) được nhiều người mến mộ. Song,
cũng phải nói, từ khi viết thường xuyên cho New York Times
thì Krugman có vẻ “điềm đạm” hơn đối với người cùng phe phóng khoáng
(có thể vì đôi khi chính Krugman cũng bị cáo buộc là “đem kinh tế đi
bán dạo”!). Nhưng rồi gần đây, trong giai đoạn bầu cử sơ bộ của đảng
Dân Chủ, Krugman lại làm nhiều người trong hàng ngũ phóng khoáng
“nhức đầu” vì ông kịch liệt ủng hộ bà Hillary Clinton, đến độ lắm
khi nặng lời với phe ủng hộ Barack Obama, cho là họ quá mê muội!
6.
Paul
Krugman sinh trưởng ở Long Island (kế cận thành phố New York). Thuở
nhỏ, ông mê truyện khoa học giả tưởng của Isaac Asimov (có lẽ đây là
lý do ông viết một bài đùa “lý thuyết thương mại giữa các ngôi sao”
(theory of interstellar trade) khi còn là sinh viên). Sau khi lấy
tiến sĩ ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) năm 1977, ông dạy ở
Yale, MIT, Stanford, trở lại MIT, và từ năm 2000 về trụ trì ở
Princeton, do lời mời của Ben Bernanke (hiện là chủ tịch Hệ thống Dự
trữ Liên bang của Mỹ) lúc ấy là chủ nhiệm khoa kinh tế ở trường đại
học này. Ông cũng có làm việc vài năm trong chính phủ (vào thời
Reagan, cùng nhóm với Lawrence Summers, do Martin Felstein mời về
làm trong Hội đồng Cố vấn Kinh tế). Năm 1991 ông được huy chương
John Bates Clark của Hiệp hội Kinh tế Hoa Kỳ. Đây là một huy chương
rất có uy tín, được trao hai năm một lần cho một kinh tế gia dưới 40
tuổi, và thường được xem là dấu hiệu của “tương lai Nobel”. Krugman
cũng có viết hai cuốn sách giáo khoa bán rất chạy, một cuốn về kinh
tế quốc tế mà đồng tác giả là Maurice Obstfield, một cuốn về kinh tế
nhập môn viết chung với bà Robin Wells. Bà này là vợ kế của Krugman.
Trần Hữu Dũng
|