Gần đây có
một tài liệu nhan đề "Dắt
tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của
trí tuệ", trong ấy tác giả chủ
trương "giải bài toán lôgích xã hội" của
ta hiện nay.
Nói "toán
lôgích" thì có nghĩa rằng tác giả coi
vấn đề xã hội như thuộc lĩnh vực của
lôgích toán pháp, là hình thái phát
triển của lôgích siêu hình máy móc. Nói
một cách khác, ngay trên nhan đề đi vào
vấn đề xã hội, tác giả bài "Dắt tay
nhau" đã không kể gì đến lôgích biện
chứng lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nội dung
vấn đề xã hội là sự vận động lịch sử
của xã hội, một vận động cực kỳ phức
tạp xuất phát từ sự liên hệ toàn diện
của lịch sử ấy ngày càng chặt chẽ. Dĩ
nhiên ở đây phương pháp siêu hình, phân
tích cục bộ, vẫn là điểm xuất phát cần
thiết để phân định từng đoạn. Nhưng
ngay sau đấy, phải vận dụng phép biện
chứng duy vật, để đặt vấn đề trong
sự liên hệ toàn diện, thì mới hiểu được
cái định hướng của mỗi giai đoạn lịch sử
trong toàn bộ lịch sử giống người.
Thiên
nhiên cũng có lịch sử của nó, đưa tới
lịch sử xã hội và con người trong hệ
thống lịch sử thế giới, là vật chất vô
hạn đương vận động. Nhưng trong vũ trụ
vô tận, kể cả trái đất, nhịp độ tiến hoá
của những thiên thể và sinh vật là chậm
hơn nhiều, so với cái mật độ chuyển biến
luôn luôn liên tục và gián đoạn của xã
hội và con người.
Lịch sử xã
hội và con người mới có 3 triệu năm trên
hành tinh chúng ta, mà càng ngày càng
đầy những sự kiện phức tạp, liên hệ
thành hệ thống và phân hệ tế nhị và đi
sâu. Mỗi xã hội, mỗi tập đoàn, mỗi con
người cá nhân là một hệ thống trong bản
thân nó, đồng thời là một phân hệ trong
lịch sử giống người. Mỗi hệ thống hay
phân hệ thì từng lát thời gian là liên
hệ toàn diện và luôn luôn tự tái tạo
trong bản thân mình. Theo như thế thì rõ
ràng mỗi hệ thống hay phân hệ lịch sử tự
biểu hiện trong bản thân nó: nó tồn tại
và đồng thời không tồn tại; nó là bản
thân nó và đồng thời là cái khác.
[1]
Như thế là
ngay trong mỗi lát hiện tại của
nó, do nó liên hệ toàn diện trong bản
thân nó và với những cái khác, nên tự
nó vận động. Tức là một mặt thì nó
biến mất về phía dĩ vãng: nó tồn tại
và đồng thời không tồn tại; và cũng
do đấy, thì, trong cùng cái lát hiện tại
ấy, nó chuyển về phía tương lai: nó
là bản thân nó và đồng thời là cái khác.
Cả ba mặt của sự vận động trong mỗi chốc
lát, là biểu hiện hai mặt mâu thuẫn giữa
cái hiện thời với cái quá thời
đi cùng với nhau, và đồng thời giữa cái
tiến tới với cái hiện thời
đi đôi với nhau, tạo nên sự thống nhất
và đấu tranh giữa hai mặt mâu thuẫn của
mỗi lát hiện tại.
Đấy là
nguyên lý biện chứng phổ cập của sự liên
hệ hỗ tác, mâu thuẫn và vận động toàn
diện của hệ thống thế giới, là vật chất
vô hạn đương vận động, và của mỗi phân
hệ hay hệ thống cục bộ trong ấy, tức là
mỗi sự vật. Nguyên lý như thế dĩ nhiên
biểu hiện rõ ràng nhất trong lịch sử xã
hội và con người.
Đồng thời nó cũng biểu hiện, dù ít rõ
hơn, trong lịch sử thiên nhiên, vì quá
trình tiến hoá của những khối lý hoá
sinh vẫn là liên hệ toàn diện, dù chậm
hơn và thưa hơn.
Tức là tính chất biện chứng của những
quá trình thiên nhiên là có thật, nhưng
không được rõ ràng trước mắt – như ngày
xưa người ta tưởng rằng những thiên thể
và đường đi của chúng trên trời là vĩnh
cửu. Nói một cách khác: những khối vật
chất lý hoá sinh trong điều kiện quan
sát bình thường của chúng ta, có thể
được quan niệm gần đúng như tách
rời nhau và đặt ra khỏi sự liên hệ hỗ
tác toàn diện, coi như đứng ngoài sự mâu
thuẫn vận động phổ cập. Đấy là quan điểm
siêu hình máy móc được vận dụng bình
thường trong khoa học tự nhiên. Phép
siêu hình máy móc đạt trình độ cao nhất
của nó, khi giải những "bài toán lôgích"
theo lôgích toán pháp.
Dĩ nhiên, làm như thế trong các khoa học
tự nhiên là đúng, nhưng cũng chỉ có kết
quả cục bộ. Những kết quả cục bộ ấy đã
mang lại uy tín to lớn cho lôgích toán
pháp. Nhưng khi tình hình nghiên cứu
buộc phải đi sâu vào những quan hệ phức
tạp, nan giải giữa các lĩnh vực
chuyên môn, khi có nhu cầu tổng kết kinh
nghiệm về thế giới vật chất, thì chính
lô gích toán pháp đưa đến bế tắc, vì nó
chỉ thấy những ngọn cây trước mắt, nó
không thấy cái rừng đằng sau
[2]
. Ở đây, phép biện chứng duy vật là cần
thiết, để liên hệ hợp lý những lĩnh vực
căn bản khác nhau của vật chất, thống
nhất quan điểm phương pháp luận, xây
dựng thế giới quan khoa học bao hàm sự
tiến hoá chung của vật chất vô hạn trong
toàn diện lịch sử vũ trụ.
Tuy nhiên trong khoa học tự nhiên, với
những điều kiện nghiên cứu bình thường,
thì phép siêu hình, lôgích toán pháp vẫn
là đủ để thực hiện mục đích nhận thức
trước mắt. Không cần thiết mỗi lúc phải
đi xa hơn. Vì cái nhịp độ tiến hoá của
những khối vật chất trong thiên nhiên là
chậm hơn nhiều so với xã hội và con
người. Tức là có thể tạm thời coi những
khối lý hoá sinh như những sự vật ở
trạng thái tĩnh, những hệ thống bất biến
về chất lượng.
Nhưng khi chuyển vấn đề xã hội và con
người, thì thấy tốc độ tiến hoá tăng
vọt, do vai trò ngày càng phát triển của
lao động sản xuất, liên hệ xã hội hình
thành trong sự sản xuất, tiếng nói của
đời sống thực tế và tiếng nói bên trong,
hoạt động tâm thần nhân cách và quan hệ
xã hội hình thành. Sự vận động lịch sử
xã hội và con người biểu lộ trước mắt
cái bản chất biện chứng của nó. Do đấy
mà mỗi lát thời gian thể hiện rõ ràng là
tồn tại và đồng thời không tồn tại, nó
là bản thân nó và đồng thời là cái khác.
Dĩ nhiên ở đây, phép siêu hình, tức là
lôgích hình thức, vẫn là cần thiết bước
đầu, để ghi chép những hiện tượng đơn
giản như dân số, năng suất, hàng hoá,
v.v., xác lập thống kê, xây dựng những
mô hình trừu tượng. Nhưng muốn nắm được
sự vận động thực sự của xã hội và con
người, thì phải tiến lên lôgích biện
chứng duy vật, tức là phân tích sự liên
hệ mâu thuẫn hướng tới toàn diện, nó là
động cơ quyết định sự chuyển biến lịch
sử. Tức là phép siêu hình chỉ là bước
đầu, có tính chất dự bị. Muốn nhận định
hiện thực xã hội và con người có thật,
thì phải đi xa hơn những hiện tượng cục
bộ, đi sâu vào cả cái hệ thống mâu thuẫn
lịch sử quyết định sự vận động thực sự
của đời sống xã hội và con người.
Tức là ở đây, chính sự mâu thuẫn biểu
hiện rõ ràng là bản chất và động cơ của
sự chuyển biến của cả hệ thống và của
mỗi phân hệ, luôn luôn là tồn tại đồng
thời không tồn tại, là bản thân nó và
đồng thời là cái khác.
Nhưng tác giả bài "Dắt tay nhau" say sưa
với phép siêu hình máy móc quen thuộc
trong khoa học tự nhiên, lại cho rằng cả
trong vấn đề xã hội thì cũng cứ phải
loại trừ mâu thuẫn, coi mâu thuẫn theo
quan điểm siêu hình, lôgích hình thức,
như cái gì là "nghịch lý", không thể nào
dung túng được.
Như thế là tác giả bài "Dắt tay nhau" ra
sức nêu lên cả một loạt gọi là "nghịch
lý". Ông nói: "Hệ thống này chứa đựng
quá nhiều 'nghịch lý’, nếu chưa muốn nói
là cấu thành bởi toàn những 'nghịch lý’.
Ví dụ như nói là 'dân chủ’ mà lại thiếu
'dân chủ’; nói là duy vật mà lại duy ý
chí; đề cao những giá trị tinh thần, mà
lại xuống cấp đạo đức; lấy năng suất lao
động làm nhân tố quyết định, mà lại thua
năng suất của xã hội tư sản; v.v."
Dĩ nhiên những mâu thuẫn như thế là có
trong xã hội xã hội chủ nghĩa của ta, và
còn có nhiều hơn nữa. Nhưng chính đấy
là động cơ của đường lối đổi mới của
Đảng và nhân dân.
Tình hình mâu thuẫn sinh ra những đòi
hỏi và thế lực đổi mới. Đấy là sự vận
động biện chứng của bản thân hệ thống và
phân hệ, cái lý tính biện chứng
của sự mâu thuẫn.
Sai lầm cơ bản của bài "Dắt tay nhau" là
chỉ nhìn thấy các mâu thuẫn của xã hội
ta ở trạng thái tĩnh, không trông thấy
hoạt động giải quyết mâu thuẫn của Đảng
và nhân dân, kiên quyết thực hiện đổi
mới trong điều kiện ổn định chính trị.
Do đấy mà tác giả chỉ hình dung toàn
những sự đối lập xoay tròn, biến thành
những "nghịch lý" theo lối siêu hình mày
móc, tức là cứ diễn cái mặt tiêu cực của
chúng, mà coi như không có lối thoát
trong chủ nghĩa xã hội.
Nói "quá nhiều nghịch lý", thậm chí là
"toàn những nghịch lý", thì theo quan
điểm của tác giả chỉ còn một cách là xoá
bỏ tất cả. Thế là ông đòi "xem lại một
số luận điểm cơ bản". Bài "Dắt tay nhau"
nói: “Chủ nghĩa đế quốc có thật là 'giai
đoạn tột cùng’ hay chỉ là 'một trong
những bước đầu của chủ nghĩa tư bản. Và
khi chủ nghĩa tư bản chưa ở giai đoạn
tất yếu phải cáo chung thì cũng có nghĩa
là lịch sử chưa đòi hỏi và chưa tạo tiền
đề cho một cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa đích thực".
Đặt vấn đề như thế thì tự nhiên gợi ý
rằng cách mạng ta là đi quá sớm cả một
giai đoạn, thậm chí cả một thời đại lịch
sử, không có tiền đề để thành công. Ở
đây, cần phải quan niệm và giải quyết
vấn đề trên cơ sở hoàn toàn khoa học.
Không bắt ép, nhưng cũng không hời hợt.
Không phải từ những khó khăn trước mắt,
mà đã có đủ lý do, để đảo lộn cả quan
điểm lịch sử, đưa đến những luận quả giả
tạo không thể lường được.
Trước hết cần phải xác định thế nào là
giai đoạn tột cùng và thế nào là
một trong những bước đầu của một
hình thể kinh tế xã hội, tức là
của một thời đại của lịch sử
giống người.
Trong bài "Một số vần đề cần phát triển
trong triết học Mác-Lê-nin" (Tạp chí
Cộng sản số 11 và 12- 1989), tôi đã
giới thiệu quy luật tiến hoá của một hệ
thống lịch sử theo các nhà kinh điển,
đặc biệt Lê-nin trong Bút ký triết
học. Những quan điểm của Mác,
Ăng-ghen và Lê-nin được kiểm nghiệm
trong tất cả lịch sử giống người.
*
Lao động sản xuất ở thời Người khéo
(Homo habilis) là cái trung giới tiến
nhảy vọt từ cái tập đoàn kế thừa của
Khỉ Nam Phi lên hình thái đầu tiên của
xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tức là cái
cộng đồng địa phương riêng lẻ, gồm vài
chục Người khéo cùng làm, cùng ăn, chia
đều, bình quân. Đấy là cái xã hội
cộng sản nguyên thuỷ thực tại, trong
ấy mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là sự
sản xuất tập thể nhỏ đi cùng với sự phân
phối bình quân và một bên là con người
cá nhân với cái di sản sinh vật đi cùng
với cái di sản tập đoàn động vật của nó,
đã được giải quyết trong sự sinh nở của
tiếng nói, năng lượng tâm thần và quan
hệ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Cái
mâu thuẫn được giải quyết như thế
thì chính là cái cấu trúc thống trị,
tức là bản chất xã hội và con người ở
thời khởi nguyên.
Từ đấy xuất hiện mâu thuẫn thứ hai
giữa cái cấu trúc đoàn kết bình đẳng, là
cấu trúc thống trị, với tình trạng tản
mạn của toàn bộ hệ thống xã hội cộng sản
nguyên thuỷ, do các cộng đồng địa phương
tách rời nhau và có khi đánh nhau.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn đã được
giải quyết trong cái cấu trúc thống trị.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa cái
cấu trúc thống trị với tình trạng tách
rời của những cộng đồng địa phương với
nhau, - tình trạng tách rời như thế là
di sản dĩ vãng của các tập đoàn động vật
cô lập đối với nhau.
Đến cuối thời Người khéo, những cộng
đồng địa phương riêng lẻ tăng cường sản
xuất, do đấy thì cũng tăng cường liên hệ
với nhau, trong ấy có chiến tranh với
nhau. Sự liên hệ là cái trung giới
đưa đến những đội cộng đồng láng giềng
hợp tác bình thường với nhau ở cuối thời
acheuléen (Người thẳng). Đây là cái xã
hội cộng sản nguyên thuỷ ở thời kỳ
tồn tại cho cái khác, tức là mỗi
cộng đồng địa phương liên quan với một
cộng đồng khác, ví dụ như để cùng nhau
tiến hành những cuộc săn lớn, như săn
voi.
Cái quan hệ hợp tác phát triển thành
quan hệ ngoại hôn là cái trung giới
đưa xã hội cộng đồng địa phương lên
thành tiền bộ lạc gồm hai tộc mẫu quyền
kết hôn với nhau, ở thời đồ đá cũ giữa
(Người khôn neandertal).
Đến thời Người khôn khôn (Homo sapiens
sapiens), thời đồ đá cũ trên, thì mỗi
tộc chị em lại chia thành hai thị tộc
tạo nên cái bộ lạc sơ kỳ gồm 4 thị tộc
mẫu quyền.
Trong xã hội tiền bộ lạc và bộ lạc, thì
cái quan hệ tồn tại-cho-cái khác
trở lại bản thân nó, tức là nó trở thành
tồn tại-cho-bản thân.
Trong mỗi thị tộc mẫu quyền, những chú
rể là đại diện cho những thị tộc thông
gia, và bản thân cái thị tộc ấy lại gửi
con trai của mình vào những thị tộc kia.
Tức là mỗi thị tộc trong sự tồn
tại-cho-cái khác (gửi con trai sang
bên kia làm rể) thì lại có cái khác
trong bản thân nó, tức là nó có con trai
bên kia sang làm rể bên này, trong bản
thân nó.
Như thế là nó là bản thân nó trong
cái khác, và trong cái khác nó lại
trở lại bản thân nó. Kết quả là
cái bộ lạc nhận thấy nó trong các thị
tộc và mỗi thị tộc nhận thấy mình trong
cái bộ lạc: thế là tồn tại- cho-bản
thân.
Như thế là với cái bộ lạc sơ kỳ, phát
triển đại khái từ thời đồ đá cũ trên đến
phần đầu thời đồ đá mới, xã hội cộng sản
nguyên thuỷ hoàn thành chất lượng cơ
bản, tức là bản chất của nó. Thông
qua ba bước đi hay thời kỳ biện chứng –
thực tại: tồn tại-cho-cái khác; tồn
tại-cho-bản thân, – nó đã phát triển
trong sự vận động của những cộng đồng
địa phương riêng lẻ liên hệ với nhau
thành cái hệ thống chung của cái bộ lạc.
Và dĩ nhiên cái hệ thống chung này chỉ
có thể có trong và thông qua những phân
hệ riêng của nó, là những thị tộc, liên
hệ vận động với nhau.
Ba bước đi hay ba thời kỳ đầu như thế là
giai đoạn đầu, hoàn thành bản
chất của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Tức là cái cấu trúc quan hệ công
bằng, bình đẳng, thân ái trong nội bộ
mỗi cộng đồng địa phương được mở rộng và
tái tạo giữa các cộng đồng địa phương
trên quy mô bộ lạc, dưới một hình thái
mới, là hình thái trao đổi thăng bằng:
trao đổi quà và thanh niên (trao đổi con
trai giữa các thị tộc mẫu quyền và sau
này là trao đổi con gái giữa các thị tộc
phụ quyền). Sự trao đổi ngang bằng tiến
hành giữa “tao” với “mày” có “nó” chứng
kiến. Cái “nó” chính là tượng trưng cho
cả bộ lạc. Đây là nội dung cơ bản của
những lễ hội họp thường kỳ của bộ lạc:
tồn tại-cho-bản thân.
Giai đoạn đầu, tức là giai đoạn hoàn
thành bản chất của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ kết thúc, khi sự tiến bộ của
kỹ thuật đồ đá mới bước đầu đi vào cải
tiến, làm cho sự trao đổi quà chuyển lên
thành trao đổi hàng hoá đơn giản.
Chiến tranh trở thành quan hệ bình
thường, phát triển liên miên giữa các bộ
lạc và chỉ chấm dứt khi có hiệp ước;
những hiệp ước này tiến tới cái liên
bang bộ lạc về thực chất cũng là một tổ
chức chiến tranh.
Ở đây rõ ràng sự phát triển của sức sản
xuất đã vượt ra khỏi khuôn khổ
của cái bộ lạc riêng lẻ. Sự trao đổi
hàng hoá đơn giản là cái trung giới
đưa vào giai đoạn thứ hai của sự tiến
hoá của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tức
là giai đoạn phát triển số lượng đặc
thù của nó, tức là phát triển năng
suất lao động bắt đầu từ kỹ thuật đồ đá
mới cải tiến.
Thời kỳ đầu của giai đoạn thứ hai này,
mở đầu bằng sự trao đổi (đổi chác) hàng
hoá đơn giản, là thời kỳ phát triển
đại lượng của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Nói đại lượng thì có nghĩa rằng
năng suất lao động đã vượt ra khỏi khuôn
khổ của những quan hệ cùng làm cùng ăn
trong một cộng đồng thị tộc vài chục
người và tiêu thụ sản phẩm thừa bằng
những sự trao đổi quà giữa những thị tộc
của bộ lạc. Bây giờ, cái sản phẩm thừa
được tiêu thụ thông qua chiến tranh cướp
bóc kết thúc bằng đổi chác. Tức là thời
kỳ phát triển đại lượng của xã
hội cộng sản nguyên thuỷ đồng thời cũng
là một thời kỳ đại khủng hoảng
của xã hội ấy, do chiến tranh liên miên
làm suy yếu cái cấu trúc bộ lạc. Những
người Ấn Da đỏ ở Bắc Mỹ đứng ở thời kỳ
ấy, khi được phát hiện. Ở đây đã xuất
hiện sự phân chia giai cấp: chiến tranh
đi đôi với sự phát triển của sức sản
xuấtt tạo nên một bên là giai cấp nô lệ,
một bên là giai cấp quý tộc bộ lạc lãnh
đạo chiến đấu và đổi chác, và bóc lột nô
lệ.
Đáng chú ý là ngay ở thời kỳ đại
khủng hoảng này đã có một số ít
trường hợp tiến thẳng lên xã hội văn
minh cổ đại, tuy còn xa mới thực hiện
được những điều kiện kỹ thuật bình
thường cần thiết.
Ở đất Cận Đông, thiên niên kỷ VIII trước
Công nguyên, trong thời kỳ đồ đá mới
phát triển trước đồ gốm, đã xuất hiện
một thành luỹ vĩ đại là Jéricho,
với một tháp đá 10 m đường kính, chiều
cao 8m50, có một thang đá bên trong lên
đến đỉnh tháp. Ba tường đá vây quanh cao
đến 3m90, với một hào sâu đào ngay trong
núi đá. Xây dựng được một thành luỹ vĩ
đại như thế, thì phải có tổ chức nhà
nước chủ nô. Jéricho đứng giữa ngã tư
đường buôn bán ở bờ biển Gioóc-đa-ni.
Đến thiên niên kỷ VI trước Công nguyên
đã có thành thị Gatal Huyuk ở Tiểu Á.
Những nhà ở và đền, chen chúc với nhau
chứng minh rằng ở đây đã có một tổ chức
hành chánh nghiêm chỉnh. Trên tường có
vẽ nhiều lần một con diều hâu mở mỏ trên
một người quỳ đã mất đầu. Rõ ràng đấy là
một nhà nước chủ nô trấn áp nô lệ. Mà kỹ
thuật cũng chỉ là đồ đá mới cải tiến,
trước đồ gốm.
Như thế là ở thời kỳ phát triển đại
lượng và đại khủng hoảng của xã hội
nguyên thuỷ đã có thể có trung giới
tiến vọt lên nhà nước chủ nô, do điều
kiện sản xuất hoặc do buôn bán đặc biệt
thuận tiện. Trung giới ấy là cái hình
thái toàn bộ hay phát triển (forme
totale ou développée) của sự trao đổi
hàng hoá.
Nhưng trong trường hợp bình thường, thì
xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở cuối thời
đồ đá mới vẫn kéo dài sự phát triển đại
lượng và đại khủng hoảng. Đến khi xuất
hiện kỹ thuật đồ đồng thì sự đổi chác
hàng hoá đơn giản mới chuyển lên hình
thái trao đổi toàn bộ hay phát triển,
sinh ra một giai cấp quân sự mới vừa
buôn bán, vừa cướp bóc, và dùng nô lệ, Ở
đây tuy đã có xu hướng mạnh mẽ chuyển
lên chế độ chủ nô cổ đại, nhưng bản chất
xã hội vẫn còn là nguyên thuỷ, vì giai
cấp quý tộc bộ lạc đã tổ chức lại thành
chế độ quân chủ bộ lạc để thích nghi với
tình hình mới, và giữ những sức sản xuất
mới trong mức độ cần thiết để bảo
tồn bản chất của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Nhà vua bộ lạc, đại diện cho giai
cấp quý tộc bộ lạc, lãnh đạo giai cấp
quân sự kiêm ngoại thương trong giới hạn
của truyền thống bộ lạc.
Giai cấp quân sự kiêm đại thương và công
nghiệp luyện kim dĩ nhiên là xuất phát
từ kỹ thuật đồ đồng. Dưới chế độ quân
chủ bộ lạc hai giai cấp ấy chỉ phát
triển bước đầu, trong mức độ của
xã hội cộng sản nguyên thuỷ.
Nhưng rồi cái mức độ ấy cũng bị vượt qua
ở những nơi có điều kiện đặc biệt thuận
lợi cho sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Như thế là ở châu thổ những sông lớn của
châu Á và Ai Cập xuất hiện những đô thị
đầu tiên, với một giai cấp mới, là giai
cấp công thương bình dân. Giai cấp chủ
nô quân sự kiêm đại thương và công
nghiệp luyện kim trở thành một hàng quý
tộc mới, đối lập với giai cấp quý tộc bộ
lạc.
Chế độ quân chủ bộ lạc chỉ còn là một
cản trở hoàn toàn vô lý cho sự phát
triển của sức sản xuất xã hội. Đấy là
thời kỳ phát triển quá mức của xã
hội cộng sản nguyên thuỷ, tức là thời kỳ
cuối cùng, tổng khủng hoảng và
tan rã của xã hội ấy. Sự xuất hiện đồ
đồng thau và những đô thị Sumer đầu tiên
vào cuối thiên niên kỷ IV trước Công
nguyên, là một thí dụ của thời kỳ này.
Những anh hùng ca của Hôme là những bức
tranh thiên tài diễn đạt sự phát triển
quá mức và tổng khủng hoảng của
xã hội nguyên thuỷ ở Hy-lạp.
Tóm lại, hoạt động công thương lớn, dùng
nhiều nô lệ, và công thương bình dân,
cũng có dùng một ít nô lệ, tất cả trong
cái hình thái toàn bộ hay phát triển của
sự trao đổi hàng hoá, là cái trung
giới phủ định cái hệ thống xã hội
cộng sản nguyên thuỷ đã phát triển
quá giới hạn, tức là xoá bỏ
cái cấu trúc bình quân, mà bây giờ chỉ
còn là tượng trưng, ở thành thị. Đồng
thời di sản của cái hệ thống ấy vẫn
duy trì ở những công xã nông thôn.
Tức là chế độ tư hữu tài sản được chính
thức hoá dưới quyền của triều đình của
chủ nô ở thành thị. Còn cái di sản của
chế độ cộng sản nguyên thuỷ trong cái
cộng đồng địa phương thì vẫn kéo dài ở
những công xã nông thôn dưới quyền sở
hữu tối cao của nhà vua trên cả đất
nước.
Như thế là chúng ta thấy trong sự biện
chứng của một hình thể kinh tế xã hội,
như hình thể cộng sản nguyên thuỷ, một
quá trình lịch sử gồm hai giai đoạn
cơ bản. Xuất phát từ sự trung giới
đầu tiên thì sinh ra cái chất lượng
căn bản mới tức là cái bản chất
mới, nó là cái mâu thuẫn căn bản đã được
giải quyết trong cái cấu trúc thống trị
mới. Giai đoạn đầu là giai đoạn phát
triển và hoàn thành cái bản chất mới
thông qua cái mâu thuẫn thứ hai
là mâu thuẫn giữa cái cấu trúc thống trị
mới với cái di sản cũ còn lại. Giai đoạn
này trải qua ba thời kỳ: thực tại,
tồn tại-cho-cái-khác và tồn
tại-cho-bản-thân.
Từ sự hoàn thành bản chất trong
hình thái tồn tại-cho-bản thân, thì sinh
ra giai đoạn thứ hai, là giai
đoạn phát triển số lượng đặc thù,
tức là năng suất lao động đặc thù.
Giai đoạn này tiến hành qua ba thời kỳ:
phát triển đại lượng hay đại
khủng hoảng; phát triển có mức độ
hay cải lương; phát triển quá mức
hay tổng khủng hoảng. Thời kỳ phát triển
quá mức, tức là tổng khủng hoảng, đưa
đến chỗ vượt giới hạn, làm nổi
bật cái trung giới mới, tiến nhảy
vọt lên một thời đại mới.
Đáng chú ý là trong những điều kiện đặc
biệt thuận tiện, cái trung giới mới có
thể xuất hiện ngay trong thời kỳ phát
triển đại lượng, tức là đại khủng hoảng
và đưa thẳng lên thời đại mới. Sở dĩ như
vậy là vì ngay ở thời kỳ đại khủng
hoảng, sự phát triển số lượng đặc thù
của cái hệ thống đương thời, đã vượt ra
khỏi khuôn khổ của cái bản chất
đã hoàn thành. Tức là đã có khả năng
tiến lên một hệ thống mới. Không cần
thiết cứ phải chờ đợi thời kỳ phát triển
quá mức, tức là tổng khủng hoảng. Dĩ
nhiên cũng chỉ có một số ít trường hợp
có thể làm được sớm như thế.
Quy luật về sự tất yếu giữa quan hệ sản
xuất với sức sản xuất như thế là rất
rộng rãi. Sự chuyển hoá từ một hình thể
kinh tế xã hội lên một hình thể mới cao
hơn có thể được thực hiện sau khi cái
hình thể trước đã hoàn thành bản chất
của nó, tức là trên suốt giai đoạn phát
triển số lượng đặc thù của nó, từ thời
kỳ phát triển đại lượng và đại khủng
hoảng đến thời kỳ phát triển quá mức và
tổng khủng hoảng, tuỳ theo điều kiện cụ
thể. Những mầm mống của cái mới, tức là
cái khác biệt đã sinh ra trong xã
hội cũ, trở thành cái trung giới
đưa lên xã hội mới.
Các hình thể kinh tế xã hội nô lệ, phong
kiến sau này cũng trải qua quá trình
tiến hoá đại loại như vậy
[3].
*
Trong trường hợp điển hình của chủ nghĩa
tư bản Anh, thì cái cấu trúc thống
trị, tức là bản chất của xã
hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện vào giữa
và ổn định vào cuối thế kỷ XVII, đã trải
qua thời kỳ thực tại của nó cho
đến phần giữa thế kỷ XVIII. Ở đây những
quan hệ tư bản công trường thủ công đã
thành cấu trúc thống trị, bao trùm cả hệ
thống xã hội tư bản chủ nghĩa Anh, nhưng
trên thực tế thì cái cấu trúc ấy mới chỉ
được thực hiện đơn thuần (thực tại)
trong một khu vực rất hạn chế. Phần lớn
hệ thống xã hội Anh còn là di sản tiểu
nông và thủ công của thời trước. Tuy
nhiên toàn bộ hệ thống thì có chất lượng
cơ bản tức là bản chất tư bản chủ nghĩa
vì cái cấu trúc tư bản thống trị bao
trùm tất cả.
Đến phần cuối thế kỷ XVIII, cách mạng
công nghiệp buộc những công trường thủ
công phải lùi bước trước những nhà máy
đầu tiên. Tuy nhiên, ngày ấy những máy
móc còn là do những công trường thủ công
sản xuất. Chưa có cái hệ thống máy móc
sản xuất máy móc, tức là chưa thể nào có
đủ máy để chủ nghĩa tư bản nắm lấy cụ
thể về mặt kinh tế tất cả các cơ sở tiểu
sản xuất.
Phải dần dần đi từng bước cho đến giữa
thế kỷ XIX, thì chủ nghĩa tư bản đại
công nghiệp mới xây dựng được đại khái
cái hệ thống máy móc sản xuất máy móc,
nâng cao năng suất tư bản chủ nghĩa, nắm
dần các cơ sở tiểu sản xuất, bằng cách
bán cho họ hàng đại công nghiệp và mua
của họ hàng thủ công, nông nghiệp. Chủ
nghĩa tư bản như thế từ đầu thế kỷ XIX
đã đi vào thời kỳ tồn tại-cho-cái
khác, tức là liên hệ trao đổi với
cái khác, cái khác này là cái di sản cũ
của xã hội phong kiến, trong ấy có các
nước thuộc địa.
Từ phần giữa đến cuối thế kỷ XIX, cái hệ
thống máy móc sản xuất máy móc đã tương
đối đầy đủ. Nền đại công nghiệp cơ khí
hoá tư bản chủ nghĩa đã có đủ sức, để
làm chủ từ trên các ngành tiểu sản xuất.
Tức là trong quá trình tái sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chủ nghĩa đại tư bản đã
dự trữ đủ hàng hoá đại công nghiệp để
bán cho các cơ sở tiểu sản xuất: theo
nghĩa ấy thì nó là bản thân nó trong
cái khác. Và trong các cơ sở tiểu
sản xuất ("cái khác") thì nó lại
có những hàng hoá tương đương, để mua về
phục vụ bản thân nó: tức là trong cái
khác nó lại trở nên bản thân. Như thế là
nó tồn tại-cho-bản thân.
Sự bóc lột các nước thuộc địa trên quy
mô thế giới từ thế kỷ XVI đã tạo nên cho
chủ nghĩa tư bản phương Tây một năng lực
phát triển vượt xa các phương thức sản
xuất trước. Do đấy mà ngay từ giữa thời
kỳ tồn tại-cho-cái khác và suốt thời kỳ
tồn tại-cho-bản thân, xã hội tư sản đã
sa vào tình trạng khủng hoảng chu kỳ, do
sức sản xuất lớn lên tràn lan.
Như thế là thúc đẩy phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân phát triển mạnh
mẽ và xác định lý luận khoa học của mình
trong chủ nghĩa Mác.
Đến cuối thế kỷ XIX cái cấu trúc tư bản
thống trị, tức là bản chất của xã hội tư
sản đã hoàn thành. Thế là nó đi
vào giai đoạn phát triển số lượng đặc
thù của nó là giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Thời kỳ đầu là phát triển đại
lượng của xã hội tư sản tức là năng
suất lao động của đại công nghiệp cơ
giới hoá và điện khí hoá vượt ra khỏi
khuôn khổ của bản chất đã hoàn thành
của xã hội tư bản. Chủ nghĩa cạnh tranh
tự do chuyển lên cạnh tranh độc quyền.
Như thế là sinh ra đại khủng hoảng
của xã hội tư bản, với hai thế chiến huỷ
diệt trong vòng nửa đầu thế kỷ XX.
Trong thời kỳ này phong trào cách mạng
vô sản thế giới đã thắng lợi ở Nga, là
một nước tư bản đế quốc dù chưa phát
triển, và một số nước như Việt Nam, chưa
phải là hiện đại, nhưng đã có một số cơ
sở đại công nghiệp, đủ để có một giai
cấp công nhân giác ngộ trong Đảng Cộng
sản.
Trong tình hình đối kháng căng thẳng
nhất với chủ nghĩa đế quốc, sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với quần chúng
nhân dân là cái trung giới, nội dung của
sự tiến nhảy vọt, phủ định xã hội cũ,
đưa lên xã hội mới theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Tức là cũng giống như sự tiến nhảy vọt
từ xã hội nguyên thuỷ lên xã hội chủ nô,
rồi từ chủ nô lên phong kiến và từ phong
kiến lên tư bản, thì cách mạng xã hội
chủ nghĩa trong một số nước có hoàn cảnh
đặc biệt thuận lợi, có thể thành công ở
thời kỳ đại khủng hoảng của hệ thống xã
hội tư bản, không cần thiết phải chờ
đợi thời kỳ tổng khủng hoảng.
Dĩ nhiên đấy chỉ là ở một số nước có
điều kiện đặc biệt - nếu bàn về cả hệ
thống tư bản chủ nghĩa thế giới, thì sự
chuyển hoá chỉ có thể hoàn thành ở thời
kỳ tổng khủng hoảng.
Từ những năm 1960, cách mạng khoa học kỹ
thuật đã đưa sức sản xuất lên một trình
độ mới, làm cho năng suất lao động tiến
nhảy vọt chưa từng thấy. Đứng trước nguy
cơ bị tràn ngập và cách mạng vô sản
thành công, giai cấp tư sản đế quốc đã
buộc phải đi vào con đường cải lương,
xoa dịu mâu thuẫn, tức là đi vào thời kỳ
phát triển có mức độ.
Xuất phát từ năng suất lao động mới luôn
luôn tăng cường, đi đôi với những quan
hệ cạnh tranh ác liệt, họ phát triển
những quan hệ hợp tác, liên doanh, liên
kết trong mỗi nước và giữa các nước,
tiến tới thành lập thị trường chung ở
một số khu vực hay phân hệ của hệ thống
tư bản chủ nghĩa thế giới. Họ tăng phần
nào những giá trị sử dụng dành cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng
thời càng ngày càng tăng cường bóc lột
giá trị thặng dư. Như thế là trên
hiện tượng bề ngoài họ có vẻ như giảm
nhẹ mâu thuẫn cơ bản giữa tính chất xã
hội của sức sản xuất với hình thái tư
hữu tư bản chủ nghĩa của sự sở hữu.
Nhưng trên thục tế thì cái mâu thuẫn ấy
vẫn phát triển, dù trước mắt có giữ được
đại khái cái mức độ cần thiết.
Xu hướng xây dựng thị trường chung ở
từng khu vực trong hệ thống tư bản chủ
nghĩa thế giới ngày nay, tất nhiên sẽ đi
tới cùng một thị trường chung cho cả hệ
thống ấy. Đấy là cái cột mốc của
sự phát triển có mức độ của họ.
Tức là sau đấy thì chủ nghĩa tư bản thế
giới sẽ chuyển lên giai đoạn phát triển
quá mức: ở đây những khả năng cạnh tranh
sẽ trở nên càng ngày càng ít ỏi, chủ
nghĩa tư bản càng ngày càng mất đi cái
cơ chế thúc đẩy tăng năng suất và nâng
cao giá trị thặng dư trên cơ sở quyền tư
hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Trong giới hạn của một thị trường
chung toàn diện, chủ nghĩa tư bản độc
quyền trở nên toàn thắng, do đấy thì nó
càng ngày càng tăng cường tình trạng
đình đốn, suy thoái, khủng hoảng triền
miên. Một số càng ngày càng ít tài phiệt
chiếm đoạt tất cả, đẩy nhân dân lao động
vào cái vòng thất nghiệp không lối
thoát. Như Mác đã tiên đoán:
"Con số những tên trùm tư bản tiếm đoạt
và nắm độc quyền tất cả những cái lợi
của quá trình chuyển hoá đó ngày càng
giảm đi không ngừng, thì nạn nghèo khổ,
áp bức, nô dịch, thoái hoá, bóc lột ngày
càng tăng thêm nhưng sự căm phẫn của
giai cấp công nhân - một giai cấp đang
ngày càng không ngừng đông đảo hơn, ngày
càng được cơ cấu của bản thân quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa huấn luyện,
đoàn kết và tổ chức lại - cũng tăng lên.
Sự độc quyền của tư bản trở thành những
xiềng xích ràng buộc cái phương thức sản
xuất đã thịnh vượng lên cùng với độc
quyền đó và dưới độc quyền đó. Sự tập
trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao
động đạt đến cái điểm mà chúng không còn
thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa
của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra".
[4]
Theo kinh nghiệm thành lập thị trường
chung Tây Âu và những hoạt động tiến tới
một thị trường chung Đông Nam Á, chúng
ta có thể ước đoán rằng cả hệ thống tư
bản chủ nghĩa thế giới sẽ hoàn thành thị
trường chung toàn bộ của họ trong phần
đầu thế kỷ XXI. Như thế là họ sẽ vượt
quá cái mốc của thời kỳ phát triển có
mức độ, chuyển sang thời kỳ phát
triển quá mức tức là tổng khủng hoảng
của cả hệ thống tư bản chủ nghĩa thế
giới.
*
Tóm lại, xuất phát từ toàn bộ chủ nghĩa
Mác-Lênin và kinh nghiệm lịch sử giống
người, chúng ta thấy cái vẻ phồn vinh
trước mắt của xã hội tư bản đế quốc chỉ
là một ảo tưởng tạm thời mà thực tế thì
sẽ đưa tới thời kỳ tổng khủng hoảng
không thể nào cứu chữa. Họ càng phát
triển kỹ thuật bao nhiêu thì lại càng
gặp khó khăn để duy trì siêu lợi nhuận
bấy nhiêu. Sự khao khát bóc lột giá trị
thặng dư buộc họ phải tăng cường kỹ
thuật mới, và chính vì thế nên lại càng
đẩy họ đến chỗ tràn ngập, sa lầy trong
tình trạng phá sản vì sản xuất thừa, suy
thoái, và trút lên đầu nhân dân cái giá
phải trả càng ngày càng nặng nề, để họ
kéo dài đặc quyền đặc lợi của họ. Dĩ
nhiên, nhân dân không thể nào dung túng
tình trạng như thế. Đặc điểm của chủ
nghĩa đế quốc ngày nay là nó phải thu
hút siêu giá trị thặng dư càng ngày càng
bấp bênh.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tất yếu
của cả lịch sử thế giới, đã bước đầu
thành công trên nền tảng của cách mạng
khoa học kỹ thuật đầu thế kỷ XX, và tất
yếu sẽ đến thời toàn thắng trên nền tảng
cách mạng khao học kỹ thuật ngày nay.
Chúng ta đã đi sớm, vì hoàn cảnh chính
trị không cho phép chờ đợi. Nhưng như
thế cũng chỉ là sớm trong phạm vi có khả
năng hiện thực thắng lợi, theo quy luật
chung của sự tiến hoá lịch sử. Như thế
không phải là quá sớm. Trên thực tế,
chúng ta đã thành công vinh quang, vì
xuất phát từ nhân dân và dân tộc, có sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng
Mác-Lê nin do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện. Những thiếu sót,
khuyết điểm, khó khăn có một phần vì
khách quan, một phần vì chủ quan trong
một số trường hợp đã hiểu sai, hoặc vận
dụng không đúng những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Những nguyên lý này là
hoàn toàn đúng, và là chỗ dựa để sửa
chữa sai lầm và thiếu sót.
*
Nhưng tác giả bài "Dắt tay nhau" lại cho
rằng chính những nguyên lý Mác-Lênin là
sai! Ông đặt vấn đề "chủ nghĩa đế quốc
không phải là giai đoạn tột cùng…", mà
chỉ là "một trong những bước đi đầu của
chủ nghĩa tư bản". Tức là ông coi cách
mạng xã hội chủ nghĩa ngày nay như quá
sớm cả một thời đại lịch sử!
Từ đấy, bài "Dắt tay nhau" phát triển
một loạt lập luận siêu hình trừu tượng,
duy tâm chung chung, chống quan điểm
giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ví dụ
như cho rằng:
"Luôn lấy trí thức, khoa học làm căn cứ,
đó là chủ nghĩa duy lý… Theo mức độ duy
lý con người chia thành trí thức và
không trí thức."
"Luôn lấy lợi ích làm căn cứ, đó là chủ
nghĩy duy lợi."
"Người thực tế duy lý… thì tự thân không
mang tính giai cấp rõ rệt, vì sự phân
chia thành giai cấp là phân chia theo
quyền lợi… Hiểu theo nghĩa đó thì người
mang tính giai cấp rõ rệt là người duy
lợi (kể cả lợi ích chân chính, lợi ích
của một giai cấp cũng vậy). Vì vậy sự
phân chia con người theo giai cấp không
phải là sự phân chia bao trùm được hết
xã hội."
Ở đây tác giả xếp loại các khái niệm có
vẻ như rành mạch, - mà trên thực tế thì
lẫn lộn tất cả. – Nói trí thức và khoa
học, thì trước hết phải phân biệt khoa
học tự nhiên với khoa học xã hội và con
người. Trong những vấn đề chuyên môn của
khoa học tự nhiên, thì không cần thiết
phải có quan điểm giai cấp. Ở đây người
trí thức có thể "luôn lấy trí thức, lấy
khoa học làm căn cứ".
Nhưng đi vào lĩnh vực xã hội và con
người, nhất là khi xây dựng học thuyết,
lý luận về xã hội và con người, thì quan
điểm giai cấp tự nó toát ra, và quyết
định cái cách nhìn và suy nghĩ. Vì nói
về xã hội và con người thì chính là nói
về bản thân mình. Tuỳ theo mình nhận
thấy mình ở giai cấp nào, thì cái vị trí
ấy quy định xu hướng nhận thức về xã hội
và con người. Xuất phát từ kinh nghiệm
thực tiễn đời sống, mỗi người tự thấy
mình trong một giai cấp, nhận thức về xã
hội và con người theo cái vị trí giai
cấp của mình như thế. Chỉ có quan điểm
Mác-Lênin của giai cấp công nhân là vô
tư, thực sự bảo đảm tinh thần khoa học
trong các khoa học về xã hội và con
người, vì chỉ có lợi ích của giai cấp
công nhân là gắn liền và trùng hợp với
lợi ích căn bản của nhân dân, dân tộc và
loài người.
Tác giả bài "Dắt tay nhau" nói: "Người
thực tế duy lý thì không mang tính giai
cấp rõ rệt, vì sự phân chia thành giai
cấp là phân chia theo quyền lợi… Hiểu
theo nghĩa đó thì người mang tính giai
cấp rõ rệt là người duy lợi". Tức là bàn
về giai cấp và tính giai cấp, tác giả
không phân biệt gì giữa giai cấp vô sản
với các giai cấp phi vô sản.
Quan điểm giai cấp phi vô sản dĩ nhiên
là duy lợi. Nhưng quan điểm giai cấp vô
sản thì chính là duy lý, thực sự khoa
học, vì lợi ích của giai cấp vô sản là
đi theo đúng chân lý hiện thực, giải
phóng nhân dân, dân tộc và loài người,
vì đấy là con đường duy nhất để giải
phóng bản thân.
Trên thực tế khách quan, thì có sự liên
hệ cơ bản giữa trí thức, khoa học, với
lập trường cách mạng, quan điểm biện
chứng duy vật của giai cấp công nhân.
Nhà trí thức lớn nhất của dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chính là nhà cách mạng
giác ngộ cao nhất về lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân, nhà văn
hoá, khoa học cao nhất.
Bài "Dắt tay nhau" còn nói khá nhiều, để
đặt đối lập trí thức với giai cấp công
nhân một cách hoàn toàn giả tạo và vô
căn cứ. Cách mạng rất cần đến trí thức
với tư cách là những nhà chuyên môn. Dĩ
nhiên cũng có những chuyện này, chuyện
kia, làm không đúng nguyên tắc. Đáng
tiếc có một số trí thức lợi dụng chính
trị, để đàn áp những trí thức khác.
Nhưng điều cơ bản vẫn là nội dung và bản
chất của thời đại chúng ta là sự chuyển
hoá của xã hội loài người từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đấy mà
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và
Đảng Mác-Lênin là một thực tế hoàn cần
thiết của lịch sử. Cái gọi là "tấm biển
chỉ đường của trí tuệ" siêu hình duy tâm
của bài "Dắt tay nhau" chính là đi ngược
dòng, đi trái ngược với lý tính biện
chứng của lịch sử hiện thực. Từ chỗ lẫn
lộn mâu thuẫn biện chứng với nghịch lý
siêu hình, sự lan tràn máy móc trên bề
mặt với sự mâu thuẫn sáng tạo ở bề sâu,
tác giả bài "Dắt tay nhau…" đã xác định
một thứ "lý luận" tầm thường, quy kết
chủ nghĩa xã hội là đầy "nghịch lý" và
coi chủ nghĩa đế quốc tựa hồ như đầy sức
sống.
[1]Xem
Ph. Ăng-ghen: Chống Đuy-rinh, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 35-37
[2]Xem
Ph. Ăng-ghen, Sách đã dẫn, tr. 36
[3]Chú
thích của người biên tập: Tiếp sau phần
hình thể cộng sản nguyên thuỷ, tác giả
đã phân tích những nấc thang tiến hoá
của lịch sử phát triển loài người. Vì
khung khổ bài báo có hạn, rất tiếc chúng
tôi không đăng được phần đó. Mong tác
giả và bạn đọc thể tất. Dưới đây là phần
tiếp.
[4]C.
Mác: Tư bản, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1975, Q1, T3, tr. 351-352