SÀI GÒN NHỎ
Có một ông “Sơn Nam” người Anh
Huỳnh Duy Lộc
Ông “Sơn Nam người Anh” Tim Doling, người đang gián tiếp “dạy” giới quản
lý và hoạt động văn hóa Việt Nam bài học về giữ gìn di sản
(historicvietnam.com)
Nếu nhà văn-nhà văn hóa Nam Bộ Sơn Nam còn sống, có thể hình dung
cảnh tượng thú vị khi ông Sơn Nam đàm đạo cà kê chuyện Sài Gòn xưa với
một “ông Tây”: Tim Doling. Nói tiếng Việt sõi như tiếng mẹ đẻ, Tim
Doling đam mê văn hóa kiến trúc Việt Nam, đặc biệt Sài Gòn. Ông rành rẽ
từng hẻm hóc Sài Gòn. Ông nói vanh vách lịch sử nhiều di sản kiến trúc
Sài Gòn. Ông biết nhiều chuyện Sài Gòn xưa còn hơn cả người Sài Gòn
chánh gốc. Chẳng biết “kiếp trước” ông có “nợ nần” gì với Việt Nam không
mà bây giờ ông yêu mến xứ sở này, với tình yêu hệt như ông Sơn Nam, hệt
như mọi người Việt…
Vài nét về “ông Tây-Sơn Nam”
Tim Doling sinh ngày 1 Tháng Hai 1956 ở Bristol, Anh. Ông lấy bằng thạc
sĩ (master) về lịch sử Trung cổ xứ Wales từ University of Wales
Aberystwyth; khởi đầu sự nghiệp bằng việc điều hành các nhà hát và trung
tâm nghệ thuật ở Coleraine (Bắc Ireland), Horsham (Anh) và Hong Kong.
Sau đó, ông thực hiện nhiều dự án văn hóa ở châu Á, châu Phi và châu Âu
cho tổ chức UNESCO, Hội đồng Anh (British Council) và Visiting Arts. Năm
1996, ông lập gia đình với một phụ nữ Việt Nam. Từ đó, ông mê mệt Việt
Nam và dành hết thời gian để nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt.
Tim Doling đặc biệt quan tâm kiến trúc phong
cách thuộc địa Pháp ở Hà Nội và Sài Gòn. Được sự giới thiệu của kiến
trúc sư Mel Schenck, ông nghiên cứu kiến trúc hiện đại với những công
trình kiến trúc ở Sài Gòn từ thập niên 1950-1970. Ông còn thực hiện dự
án quản lý nghệ thuật ở ba trường đại học tại Hà Nội do Quỹ Ford tài
trợ. Ông cũng lập ra các trang web như Visiting Arts Cultural Profile,
historicvietnam.com, trong đó trang Chân dung văn hóa Việt Nam, Cambodia
và Lào nhận được nhiều khen ngợi. Công trình nghiên cứu của Tim Doling
đã thể hiện ở những quyển sách: The railways and tramways of Vietnam; Exploring
Quảng Nam, Hội An, Mỹ Sơn, Đà Nẵng and Tam Kỳ; Exploring Huế; North
East Việt Nam, Việt Nam Arts Directory; North West Việt
Nam…
Một trong những công trình nghiên cứu của Tim Doling
Các tác phẩm trên cho thấy sự hiểu biết của Tim Doling về Quảng Nam, Đà
Nẵng, Hội An, Huế và Sài Gòn, trong vài trường hợp, còn hơn cả cư dân
lâu năm của những tỉnh, thành này. Tài liệu ông tham khảo gồm sách, báo
ở Thư viện Khoa học Tổng hợp (Sài Gòn) và Trung tâm Lưu trữ tài liệu
thời thuộc địa ở Aix-en-Provence (Pháp). Ông từng làm khách mời trong
nhiều chương trình truyền hình về lịch sử và di sản Việt Nam như SBS
Australia, DMCom Media, Discovery Channel…
Đọc sách Tim Doling mới thấy ông già người Anh này không hổ danh là một
“ông Sơn Nam da trắng”. Vốn kiến thức giàu, sự hiểu biết rộng sâu, và
thái độ làm việc trên tinh thần khoa học ở những công trình biên khảo
của ông có thể khiến không ít “nhà văn hóa học” ở Việt Nam ngày nay che
mặt xấu hổ. Tim Doling thậm chí khiến chính quyền và “các nhà quản lý
văn hóa” ở Việt Nam cũng thẹn khi ông bày tỏ sự tiếc nuối trước việc đập
phá di tích Sài Gòn xưa đã và tiếp tục được thực hiện với một thái độ
ngu dốt đến kinh ngạc. Dưới đây là vài nghiên cứu của Tim Doling về đô
thành Sài Gòn (trích)…
Nhà thờ Đức Bà, ngôi nhà thờ được cho là ở kilomet số 0 của Sài Gòn
Nhà thờ Đức Bà, còn gọi là Nhà thờ lớn, là nhà thờ Công giáo lớn nhất ở
Sài Gòn. Ý tưởng xây dựng một nhà thờ bằng gạch đã có rất lâu, trước khi
nhà thờ Thánh nữ Marie Vô nhiễm (ở vị trí Tòa án Nhân dân quận 1 trước
đây) xây bằng gỗ (đã có trước đó) bị mối mọt làm hư hỏng. Tuy nhiên sau
khi nhà thờ này bị tháo dỡ vào năm 1874, chính quyền vẫn chưa có đủ kinh
phí để xây một ngôi nhà thờ mới nên Thống đốc Nam Kỳ phải cho tổ chức
những thánh lễ trong phòng khánh tiết rộng lớn trong Dinh Thống đốc xây
bằng gỗ trên đường Taberd (đường Nguyễn Du hiện nay).
Năm 1876, chính quyền Đông Dương tổ chức một cuộc thi quốc tế để chọn
bản thiết kế đẹp nhất. 18 bản thiết kế được chấp nhận và người giành
chiến thắng là một kiến trúc sư ở Paris tên Jules-Louis Bourard. Thống
đốc Nam Kỳ Victor Duperré đã đặt viên đá đầu tiên xây cất nhà thờ mới
vào ngày 7 Tháng Mười 1877 trước sự chứng kiến của giám mục Isodore
Colombert. Công việc xây cất được giao cho Công ty Bunard, kéo dài suốt
ba năm. Mảnh đất trên đó nhà thờ được xây cất đã gây ra lắm vấn đề cho
các kỹ sư xây dựng, và vấn đề càng nghiêm trọng vào năm 1877, khi người
ta phát hiện một hồ nước ngay dưới nền móng của công trình nhà thờ.
Vào lúc này việc cung cấp nước cho cư dân Sài Gòn gặp nhiều khó khăn nên
việc phát hiện một hồ nước ngay dưới nền móng nhà thờ đã được nhiều
người cho là “một ân sủng của Thiên Chúa”. Cuối năm 1877, nước của hồ
nước bên dưới nền móng nhà thờ được dẫn và bơm lên một tháp nước đầu
tiên được dựng lên ở giao lộ của đường Sohier và đường Catinat nối dài
(nay là đầu đường Võ Văn Tần) để cấp cho cư dân. Cuối cùng, ngày 11
Tháng Tư 1880, ngày chủ nhật lễ Phục sinh, Thống đốc Nam Kỳ Charles Le
Myre de Vilers và giám mục Isodore dự lễ khánh thành nhà thờ.
Ngôi nhà thờ lộng lẫy rất được người dân Sài Gòn yêu thích cho đến một
ngày người ta phát hiện nó bị nghiêng một bên. Trong tạp chí du lịch Tour
du Monde năm 1893, nhà báo Pierre Barrelon cho biết “một trong hai
tháp của nhà thờ bị sụt lún nên nhà thờ ở Sài Gòn có hai ngọn tháp không
đều nhau giống như Nhà thờ Đức Bà ở Paris”. Người ta vội vã tìm cách
khắc phục, nhưng tình trạng vẫn không khả quan hơn nên suốt thời kỳ Pháp
thuộc, nhiều người vẫn chế nhạo “Nhà thờ nghiêng ở Sài Gòn”.
Chính phủ đã chi 2,5 triệu franc, được cho là “sự hoang phí điên rồ”, để
xây ngôi nhà thờ bằng gạch đỏ trên nền móng đá hoa cương đen dài 91 m và
rộng 35,5 m. Bên trong nhà thờ có 56 cửa sổ được kiến trúc sư Lorin de
Chartres lắp kính màu vẽ những nhân vật và cảnh trong Kinh thánh. Hai
tháp chuông ở mặt tiền nhà thờ có sáu cái chuông bằng đồng được đúc năm
1879 tại Pháp, có tiếng vang xa tới 10 km. Năm 1892, hai ngọn tháp bằng
thép được xây thêm…
Vào ngày 10 Tháng Ba 1902, Toàn quyền Paul Doumer chủ trì lễ dựng bức
tượng đầu tiên trước nhà thờ. Bức tượng – do Edouard Lormier thiết kế và
do xưởng Maison Barbedienne chế tác – là bức tượng đồng Giám mục Pigneau
de Béhaine (Bá Đa Lộc) cầm tay Hoàng tử Cảnh, và từ lúc ấy công trường
trước nhà thờ được gọi là Công trường Pigneau de Béhaine. Bức tượng
Pigneau de Béhaine được tháo dỡ vào những ngày Cách mạng Tháng Tám 1945
và công trường được đặt tên lại là Công trường Hòa Bình…
Bưu điện Sài Gòn
Bưu điện đầu tiên của thành phố Sài Gòn chỉ là một tòa nhà đơn sơ được
xây dựng trong những năm đầu của thời kỳ thuộc địa ở nơi sau này là bót
cảnh sát trên đường Catinat (số 164 Đồng Khởi hiện nay), nhưng sau khi
Nhà thờ Đức Bà được xây dựng, người ta thấy là Sài Gòn cần có một bưu
điện lớn hơn. Trái với điều thường được kể cho du khách, Bưu điện Sài
Gòn (L’Hôtel des Postes) không phải là một công trình kiến trúc của công
ty Gustave Eiffel và công ty này cũng không có đóng góp nào về bản thiết
kế hay xây dựng.
Bưu điện Sài Gòn, được xây từ năm 1886 tới năm 1891, là công trình của
kiến trúc sư hàng đầu Nam kỳ là Marie-Alfred Foulhoux (1840-1892). Ông
cũng là người thiết kế Văn phòng của Thống đốc Nam kỳ vào năm 1881 (nay
là trụ sở Sở Thông tin-Truyền thông ở số 69 đường Lý Tự Trọng); Tòa án
Nhân dân ở số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa; Sở Hải quan số 2 Hàm Nghi hiện nay;
và Dinh Thống đốc Nam kỳ (về sau là Dinh Gia Long) ở số 65 Lý Tự Trọng
hiện nay.
Bưu điện Sài Gòn được xây theo kiến trúc nền Đệ Tam Cộng hòa (1870-1940)
của Pháp, được trang trí với motif pha trộn Tân-Baroque với những nét
bản địa. Đặc biệt các cửa sổ được trang trí với những tấm bảng mang tên
những nhân vật nổi tiếng, phần lớn là nhà khoa học và nhà triết học có
đóng góp cho sự phát triển điện lực, truyền tin và viễn thông như Zénobe
Théophile Gramme, Samuel Morse, René Descartes, Benjamin Franklin,
Pierre-Simon Laplace…
Tạ Dương Minh, người lập ra chợ Thủ Đức
Được thành lập vào năm 1879-1880, ngôi chợ lâu đời này hình thành nhờ
công sức của một thương nhân người Hoa tên Tạ Dương Minh. Theo các tài
liệu lịch sử, Tạ Dương Minh, biệt danh là Tạ Huy, đã lánh nạn sang Việt
Nam sau khi tham gia công cuộc “phản Thanh phục Minh”. Người ta không
biết nhiều về Tạ Dương Minh, chỉ biết rằng ông đã tham gia cuộc khởi
nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc.
Khi sang Việt Nam, ông định cư ở Linh Chiểu Đông và lập ra ngôi chợ ở vị
trí của chợ Thủ Đức ngày nay. Trước đây, người ta cho rằng chợ Thủ Đức
được đặt tên theo quan trấn thủ nổi tiếng tên Đức (quan trấn thủ Đức) và
Tạ Dương Minh đã lấy tên này đặt cho chợ. Tuy nhiên dòng chữ khắc trên
bia mộ Tạ Dương Minh ở phường Linh Chiểu cho biết rằng ông còn được gọi
là “Tạ Huy, tức Thủ Đức”. Điều này cho thấy, ngoài biệt danh Tạ Huy, ông
còn có tên Thủ Đức, và ngôi chợ đầu tiên ông lập ra được mang tên ông.
Một góc chợ Thủ Đức xưa (manhhai|flickr)
Điều đáng buồn là cả hai di tích liên quan Tạ Dương Minh đều xuống cấp
trầm trọng. Một trong hai di tích là ngôi nhà số 9 đường Hồ Văn Tư ở
phường Trường Thọ, từng được coi là Đền thờ Tạ Dương Minh, vốn là ngôi
nhà bằng gỗ của dòng họ Tạ, được xây cất lại bằng gạch vào năm 1930 theo
kiến trúc thời thuộc địa. Tuy nhiên đến năm 1984, chính quyền địa phương
tiếp quản ngôi nhà này, chuyển nó thành một nhà trẻ và nhà nuôi trẻ mồ
côi trước khi bỏ phế vào giữa thập niên 1990.
Từ năm 1984, người dân địa phương thờ phụng Tạ Dương Minh trong một đền
thờ tạm là Đình Linh Đông số 28 đường Chương Dương, phường Linh Chiểu.
Khi tạ thế năm 1889, Tạ Dương Minh được an táng ở nơi hiện nay là Khu
phố 4 phường Linh Chiểu. Mộ của ông nằm trong khuôn viên 112 m2 được
bao bọc bởi những bức tường thấp, có một tấm bia khắc chữ Hán: “Đây là
mộ phần của Tạ Huy, tức Thủ Đức, tiền hiền của làng Linh Chiểu
Đông của Đại Nam. Ông tạ thế ngày 19 tháng 6 Âm lịch và các viên chức
trong làng đã lập mộ ông vào tuần trăng thứ hai của năm 1890”.
Trụ sở USIS
Vào thời kỳ người Mỹ bắt đầu can dự tình hình Việt Nam, chính sách của
Mỹ chủ yếu tập trung vào những chương trình văn hóa, giáo dục nhằm hỗ
trợ Chính phủ Ngô Đình Diệm; và dấu tích những chính sách này là tòa nhà
lớn sơn màu xám ở ngã tư Hai Bà Trưng-Lý Tự Trọng ngày nay. Thoạt đầu
mang số 82 Hai Bà Trưng, ngôi nhà có sức hút đặc biệt này được xây dựng
vào đầu thập niên 1950 và được người Mỹ dùng làm trụ sở Cơ quan Thông
tin Hoa Kỳ (United States Information Service-USIS).
Người thiết kế tòa nhà là kiến trúc sư Pháp Arthur Kruze. Theo một báo
cáo của Hoa Kỳ vào năm 1956, “Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ đặt trụ sở ở một
tòa nhà ba tầng ngay ngã tư gần khu trung tâm Sài Gòn, cách Đại sứ quán
Hoa Kỳ một dặm. Tất cả các phòng đều có gắn máy điều hòa không khí. Cơ
sở hạ tầng gồm có một thư viện ở tầng trệt, với 50 ghế ngồi, phòng phát
thanh, biên tập phim và thu thanh. Diện tích khuôn viên tòa nhà là
33,454 m2”.
Thư viện Abraham Lincoln tại góc đường Nguyễn Huệ (manhhai|flickr)
Ngày 22 Tháng Mười 1957, ngôi nhà ở số 82 Hai Bà Trưng là một trong ba
cơ sở của Hoa Kỳ ở Sài Gòn trở thành mục tiêu tấn công của Việt Cộng.
Năm 1962, USIS chuyển đến nơi hiện nay là Khách sạn Rex, với một thư
viện mang tên Abraham Lincoln. Tòa nhà số 82 Hai Bà Trưng trở thành cơ
sở phụ. Năm 1964, Thư viện Abraham Lincoln chuyển về đường Lê Quý Đôn ở
quận 3; và năm 1965, khi những đơn vị chiến đấu đầu tiên của Hoa Kỳ sang
Việt Nam, trụ sở USIS ở Khách sạn Rex chuyển thành Văn phòng hỗn hợp về
hoạt động công chúng (Joint US Public Affairs Office-JUSPAO). Từ ngày
ấy, trụ sở cũ ở số 82 Hai Bà Trưng được gọi là JUSPAO 2. Sau Hiệp định
Paris 1973, tòa nhà số 82 Hai Bà Trưng chuyển thành một tòa nhà của
thường dân.
Biệt thự số 60 Võ Văn Tần
Lịch sử ngôi biệt thự ở số 60 đường Võ Văn Tần – trước kia là số 60
đường Testard (sau đó đổi thành đường Trần Quý Cáp) – vẫn còn nhiều bí
ẩn, nhưng người ta cho rằng nó được xây cất bởi một nhà kinh doanh rượu
vang giàu có người Pháp. Về sau, ngôi biệt thự là nhà của ông Nguyễn
Phúc Ưng Thi (1913-2001) và vợ ông – những người lập ra Khách sạn Rex.
Cuối thập niên 1950, vợ chồng ông Ưng Thi cho các chỉ huy quân sự của
Hoa Kỳ tá túc ở đây. Ngôi biệt thự trở thành nơi ở và làm việc của hai
vị chỉ huy Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự (Military Assistance Advisory
Group-MAAG) là trung tướng Samuel T. Williams (Tháng Mười Một 1955 –
Tháng Chín 1960) và trung tướng Lionel C. McGarr (Tháng Chín 1960 –
Tháng Bảy 1962).
Biệt thự số 60 Trần Quý Cáp trước 1975 (manhhai|flickr)
Năm 1962, khi MAAG sáp nhập vào Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Việt Nam
(Military Assistance Command Việt Nam – MACV), vị chỉ huy MAAG chuyển
trụ sở đến tòa nhà mới ở số 121 Trương Định, trong khi ngôi biệt thự số
60 Trần Quý Cáp trở thành nơi ở của các vị chỉ huy MACV nối tiếp nhau là
đại tướng Paul D. Harkins (Tháng Hai 1962 – Tháng Sáu 1964); đại tướng
William C. Westmoreland (Tháng Sáu 1964 – Tháng Bảy 1968); đại tướng
Creighton Abrams (Tháng Bảy 1968 – Tháng Sáu 1972) và cuối cùng là đại
tướng Frederick C. Weyand (Tháng Sáu 1972 – Tháng Ba 1973). Ngày nay
biệt thự số 60 Võ Văn Tần thuộc sở hữu một công ty du lịch. |