Táo trên cành chín đỏ Phan An
Tôi đọc lại Thành trì của Cronin.
Lần đầu tiên tôi đọc Thành trì là lúc tôi còn ở quê, năm tôi bảy
hay tám tuổi. Cuốn sách dịch theo kiểu cũ, phiên âm “Andrew” thành
“En-đru,” bìa vẽ hình một người mặc măng-tô trước một dãy nhà màu xám.
Andrew mới tốt nghiệp đại học y khoa, đầu đầy những lí tưởng và hoài
bão, đến làm bác sĩ tập sự cho một khu mỏ ở Aberalaw, yêu và cưới
Christine. Mấy năm sau hai người chuyển đến London, Andrew mở phòng khám
riêng, bắt đầu giao du với giới thượng lưu, quên cả hoài bão và lí
tưởng, lao vào kiếm tiền một cách điên cuồng. Sau một trong nhiều lần
cãi nhau liên miên, Christine lau nước mắt bảo Andrew: “Vâng, em không
nói nữa, nhưng rồi có ngày anh sẽ ân hận.” Cuối truyện, Andrew bước đi,
“trên bầu trời trước mặt anh lảng bảng một vầng mây mang hình dáng một
bức tường thành rạn nứt.”
Lần thứ hai tôi đọc Thành trì là năm tôi lớp mười hai, đi học
dưới thành phố. Nói đúng ra thì lần đó tôi không đọc mà chỉ nhìn. Tôi và
bạn tôi lang thang khu chợ Cồn, lúc ấy phía trước chợ vẫn còn bày bán
sách cũ. Thấy cuốn sách nằm lẫn lộn giữa một đống sách bụi bặm rách nát
dạy cắm hoa và chùi sàn gạch, tôi bảo “Đọc đi, cuốn này hay lắm” mà cũng
không nhớ cụ thể nó hay ở chỗ nào. Tôi bảo “Cờ-rít cuối cùng lao đầu vào
xe buýt tự tử nhé, rất kinh.” Đến tuần sau bạn tôi hỏi “Ủa chạy ra đường
mua bánh mì bị xe đụng chứ có tự tử gì đâu?” thì tôi bảo “Thế à, hờ hờ,
lâu quá rồi ai nhớ nổi.”
Bạn tôi sau làm kĩ sư công trình, có dạo về Cần Thơ làm việc, xong hình
như qua đến Cam-pu-chia công tác. Đã lâu không gặp, giờ tôi cũng không
rõ bạn đang ở đâu.
Lần đọc Thành trì này, tôi ngồi bên bờ sông Vilnia. Sông Vilnia
xanh rì, mảnh như một con suối, vắt ngang qua thành phố Vilnius thủ phủ
Lithuania, đổ vào dòng Neris, từ đó hợp lưu với dòng Neman rồi chảy ra
Baltic. Bao giờ tôi cũng thích những dòng sông. Tôi ngồi bên bờ sông
Vilnia đầy nắng, dưới bóng những cây dương, gần cây cầu sắt quấn chằng
chịt ổ khóa, đọc lại câu chuyện của Andrew và Christine, câu chuyện về
những thay đổi lớn lao mà người trong cuộc không bao giờ nhận thấy. Rồi,
như một lẽ thường, tôi tự hỏi không biết bản thân mình có thay đổi gì
không nhận thấy hay không.
Tôi đi lâu, thỉnh thoảng mới về. Mỗi lần gặp lại bạn bè, mỗi người ngó
tôi một cái rồi nói một phách. Có người chê tôi dạo này trông già đi. Có
người ngạc nhiên bảo sao tôi không khác gì mấy. Có người khen tôi nhìn
chín chắn hẳn. Có người lại phê bình bao nhiêu năm rồi mà dáng bộ vẫn
nghênh ngang. Buổi sáng tôi đi uống cà phê, cậu bé pha cà phê nói “Quê
anh ở miền Trung đúng không, em nghe là em nhận ra liền, mẹ em người
Vĩnh Điện nè.” Buổi tối tôi đi mua quần áo, cô bé đứng ở quầy lại nói
“Anh ở nước ngoài mới về à, tại giọng anh không giống giọng người Việt
Nam cho lắm.” Ngay cả cách viết của tôi cũng khác đi thì phải. Cái dạo
rộ lên phong trào gì mà thử thách mười năm, tôi cũng đem một đoạn tôi
viết mười năm trước ra đặt bên cạnh một đoạn mới viết hôm qua để so
sánh, thì thấy như hai người viết chứ không phải một. Mà tôi thì bẩm
sinh cổ hủ và lạc hậu, hay dị ứng với những gì thay đổi, nên đôi lúc
cũng hoang mang.
Ừ, có lẽ là tôi đã thay đổi thật chứ chẳng không. Biết làm sao được? Đứa
bé đã lớn lên, giấc mơ đã mất. Có những người tôi đã từng yêu, giờ
tôi không còn yêu cho lắm nữa. Có những điều tôi đã từng tin, giờ tôi
không còn tin cho lắm nữa. Bao nhiêu chuyện đã có lúc tôi cho là to tát,
giờ tôi lại thấy hết sức nhỏ nhặt tầm thường. Mở một công ty, bán một
mảnh đất, mua một căn nhà, chẳng có gì là khó. Viết một cuốn sách, dựng
một bộ phim, kiếm đôi chút tiếng tăm để vênh vang với đời, chẳng có gì
là khó. Nhưng làm thế nào để sống mà đừng quên những gì đẹp đẽ? Làm thế
nào để cho dù có lang bạt đến đâu vẫn không quên những gì đẹp đẽ? Làm
thế nào để lúc nào cũng nhớ Bạch Hạc, Hải Phòng, chợ Sắt, cầu Đất, cầu
Rào, quán bia trước nhà thi đấu, chùm hoa xoan tây bên sông, cuốn sách
có câu “Sự lí thông đạt tâm khí hòa bình” và bức hình “Thôn An Kiều quê
ngoại” chụp một người co ro đi trong gió rét, giấc mơ ngồi trên đồi cao
giữa một bầu trời đầy sao, cây táo dại sau vườn, cây bàng lá đỏ? Những
việc tưởng chừng đơn giản ấy, càng ngày tôi càng nhận ra là khó hơn tôi
tưởng rất nhiều.
Tôi còn đi lâu, thỉnh thoảng mới về. Tôi còn phải thăm phiên chợ mùa thu
Nürnberg, thăm cầu Dom Luís, thăm bếp nhà Mozart, thăm phòng đọc Kafka.
Mỗi ngày trôi qua tôi sẽ lại khác thêm một chút. Biết làm sao? Đứa bé đã
lớn lên, giấc mơ đã mất. Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn hi vọng, hi vọng một
cách lì lợm và tham lam, rằng với bạn bè tôi đã lâu không gặp, với quê
hương tôi đã lâu không gặp, tôi vẫn cứ là tôi như cũ. Tôi hi vọng mười
năm sau, hai mươi năm sau, rồi ba mươi năm sau nữa, tôi vẫn còn thích đi
dạo một mình trên vỉa hè, qua ngã tư đầy bụi khói, ngước lên nhìn vòm me
xanh trên đường Nguyễn Du. Tôi hi vọng mình vẫn còn biết cười, biết
khóc, biết yêu, biết ghét, khi có dịp vẫn được ngồi uống cà phê trong
một căn hẻm trời mưa, được ngắm giàn phong lan chẳng mấy khi hoa nở, đi
Phú Quốc vẫn còn thấy những củ khoai mì luộc bày trong tủ kính, đi ngang
qua cầu Sài Gòn vẫn nhìn xuống triền sông nhấp nhô bè lục bình.
A, những dòng sông. Bao giờ tôi cũng thích những dòng sông, có lẽ vì tôi
sinh ra và lớn lên bên một dòng sông. Song có lẽ còn vì một lí do khác
nữa mà mãi đến hôm rồi tôi mới nhận ra: Những dòng sông đi suốt đêm
ngày, nhưng lúc nào cũng luôn ở đó.
|