FB Lê Quang
NHÀ HÁT NGHÌN TỶ HAY MÔI TRƯỜNG NGHỆ THUẬT
NGHÌN TỶ?
Bài viết này cố
gắng bao quát hai khía cạnh hẹp của mối quan hệ đặc biệt giữa các Nhà
hát và Thành phố, trong thời gian gần đây đã thu hút được sự chú ý của
dư luận đối với dự án xây nhà hát nghìn tỷ tại Thủ Thiêm.
Trước hết, Nhà
hát là yếu tố quan trọng trong thiết kế tổng thể cho mọi đô thị. Mối
quan hệ của nó với một Thành phố đã được xác lập từ thời cổ đại, khi mà
các thị trấn và thành phố thịnh vượng tự hào về những tòa nhà công cộng
tráng lệ trong đó có các khán đường công cộng ( khán phòng ngoài trời –
Amphitheater) là những ví dụ dễ thấy. Ở thời kì Phục Hưng, lịch sử cho
thấy rằng đã xuất hiện những sự quan tâm mới trong các nhà hát, nơi mà
không chỉ là nơi diễn ra các vở kịch mà còn là nơi hấp dẫn đối với giới
thượng lưu. Có một thực tế ở giai đoạn này, đó là khi một thành phố trở
nên dư thừa về của cải vật chất và cơ sở hạ tầng được đầu tư dài hạn đã
đạt đến độ chín của nó thì các nhà hát xuất hiện như một sự củng cố về
các khoản đầu tư trung hạn. Mặt khác, Nhà hát còn là đại diện cho tinh
hoa về văn hóa, nghệ thuật- những giá trị mà tiền bạc không thể mua
được. Do đó, mặc dù có bản chất là một Kiến trúc bất động (immobility
architecture) nhưng Nhà hát đã tạo ra một dạng sống trong lòng nó và ở
cả ở bên ngoài nó. Cho dù Nhà hát nằm ở trung tâm hoặc ở bên lề của một
Đô thị thì nó luôn có liên quan sâu sắc đến cấu trúc và sự tương tác có
ý nghĩa dân sự.
Sang đến thời
hiện đại, các Nhà hát dường như rũ bỏ lớp vỏ diêm dúa, hào nhoáng – vốn
dành để tượng trưng cho sự dưa thừa về của cải vật chất của giới thượng
lưu; thay vào đó, các nhà hát được thiết kế để hướng tới số đông quần
chúng và vẫn giữ được khả năng làm việc như một điểm nhấn của Đô thị.
Các ví dụ có thể lấy ra như Nhà hát Sydney hoặc nhà hát Oslo với đường
dốc thẳng từ vịnh biển lên đến mái, nó cung cấp cho quần chúng một loạt
các khả năng cho hoạt động ngoài trời, hoàn toàn tự do và cung cấp chất
lượng cuộc sống ở mức cao một cách miễn phí ( đối với các không gian
ngoài trời ). Gần đây, sau 20 năm đàm phán xây dựng, nhà hát
ElbPhilharmonie tại vịnh Hamburg do Văn phòng KTS Thụy Sĩ Herzog & de
Meuron thiết kế đã khánh thành với kinh phí lên tới 789 triệu Euro (
tương đương 22 nghìn tỷ VND). Sau khi hoàn thành, nhà hát này đã đón hơn
4 triệu lượt khách tới xem chỉ trong năm đầu tiên (tương đương một ga
hàng không). Cũng giống với nhà hát Oslo, Elbphilharmonie cung cấp một
platform ở trên mái của khu vực hành chính , ra vào hoàn toàn miễn phí
và tạo ra một điểm nhìn toàn cảnh vịnh cảng và đường chân trời của cả
thành phố. Trong những tháng đầu đi vào hoạt động, cá nhân mình có kiếm
được một vé mời đi xem kịch ở nhà hát này. Khi nói chuyện với bạn bè,
các bạn rất bất ngờ và tỏ ra ghen tị, sau đó mình kiểm tra lại và được
biết rằng vé vào xem tất cả các show diễn của nhà hát đã được đặt hết
trong khoảng 2 năm trở lại. Qua ví dụ nhỏ đó, ta thấy rằng một nhà hát
gần như được coi là một dạng văn bản đô thị, nó có tính đại diện và sẽ
thành công khi đạt được tính đại diện.
Đằng sau sự
thành công cả về khía cạnh văn hóa vẫn kinh tế của các Nhà hát nổi tiếng
trên, chúng ta có thể nhận ra rằng xuyên suốt chiều dài lịch sử, Nhà
hát, được coi là một hạng mục đầu tư trung hạn trong một Đô thị khi mà
Đô thị đó đã đạt đến độ chín trong các khoản đầu tư dài hạn, như cơ sở
hạ tầng, đường xá, không gian công cộng. Nói như các thầy giáo Kiến trúc
sư già cả, thì Nhà hát nó giống như quả sơ-ri nằm trên đỉnh của một
chiếc bánh ga-tô. Quả sơ-ri đó luôn là thứ đầu tiên mà người ta nhìn vào
và xuýt xoa tán thưởng nhưng cần phải nhớ là nó luôn nằm trên 1 chiếc
bánh ga-tô ( với ngụ ý về các khoản đầu tư dài hạn, tạo nền móng của một
đô thị). Và hẳn nhiên, ta sẽ không bắt gặp một quả sơ-ri nào nằm trên
những miếng vụn bánh, hoặc có thể cũng có nếu ai đó cố làm, nhưng người
ta sẽ chẳng bao giờ để tâm tới nó. Nhìn vào khối đô thị Hamburg, ta thấy
đó là cả một khối thống nhất, đồng bộ từ cơ sở hạ tầng, phúc lợi, nhà ở,
hệ thống giao thông công cộng và không gian công cộng. Tất cả mọi thứ
được nghiên cứu bài bản và thực hiện triệt để qua nhiều năm với nguồn
vốn dồi dào. Du khách khi đến thăm thành phố, điều đầu tiên họ nghĩ đến
có thể chính là Nhà hát Elbphilharmonie nằm trên mũi vịnh với tên gọi
Hafencity (thành phố Cảng). Tất nhiên, đó là trong con mắt của quần
chúng, của khách du lịch phương xa. Người làm quản lý và quy hoạch thì
lại không nên có cách nhìn đó. Nói cách khác, nhà hát Elbphilharmonie là
kết cục trong cả một tiến trình phát triển của khu vực Hamburg
Hafencity. Cá nhân mình cảm thấy choáng ngợp trước tổng thể khu vực này
hơn, đó là một cách tiếp cận rất khôn ngoan ở khía cạnh đô thị khi những
KTS đã đục khoét vào bên trong đường bờ sông để tăng chiều dài của nó
lên gấp 6 lần, kéo theo đó là việc xây dựng những khu nhà ở, đường xá,
văn phòng, trường học, bệnh viện – trên nền của một khu công nghiệp cũ
đã quá hạn sử dụng (Hamburg trước đây là một trung tâm công nghiệp).
Việc tăng chiều dài đường mặt nước (waterfront) đã biến cả khu vực thành
một mỏ vàng cho đầu tư và kêu gọi vốn từ khối vốn cá nhân. Nhờ vậy, cả
khu vực này đã chuyển mình mạnh mẽ cả ở khía cạnh kinh tế lẫn khía cạnh
lịch sử khi mà nó vẫn giữ được bản sắc là một thành phố hậu công nghiệp.
Và rồi khi tất cả những đầu tư dài hạn đó đã đạt đến độ chín ở khía cạnh
phát triển đô thị thì người ta mới đặt lên trên nó, tọa lạc tại một mũi
vịnh – một lâu đài bằng kính, chính là khối nhà hát Elbphilharmonie được
thiết kế bởi Herzog & de Meuron, một trong những Văn phòng Kiến trúc tên
tuổi nhất Thế giới (Hai KTS này chính là những người đã thiết kế ra Điểu
Sào Quốc gia Thể dục trường tại thê vận hội Bắc Kinh 2008) và phải nói
thêm là đồ án đã được thực hiện trong một thời gian dài.
Tóm lại, không
khó để chúng ta nhận thấy rằng Hamburg và Nhà hát nghìn tỷ của nó là một
ví dụ điển hình cho phương pháp phát triển và phát huy các nguồn lực vốn
có của một đô thị với những mục tiêu dài hạn và trung hạn cụ thể. Người
Đức đã thành công với cách làm bài bản đó. Mặc dù Elbphilharmonie cho
đến hôm nay, sau 2 năm đi vào hoạt động, vẫn còn hứng chịu không ít chỉ
trích rằng nó là một công trình quá đắt đỏ và tốn kém nhất trong lịch sử
loài người, nhưng cả Thế Giới vẫn phải thừa nhận rằng nó là một công
trình đẹp và sự thành công của nó có tính chất liên ngành.
Đó là khía cạnh
thứ Nhất đối với vai trò của Nhà hát trong một Đô thị.
Trở lại với bán
đảo Thủ Thiêm tại Tp. HCM. Ta thấy có những vấn đề trái ngược : đầu tư
dài hạn chưa có, chưa được lập kế hoạch, có một vài kế hoạch được lập ra
trong quá khứ nhưng thực tế đã chứng minh rằng chúng không làm việc được
(bởi vì nếu nó là kế hoạch tốt thì nó đã xảy ra rồi). Theo nhiều nguồn
tin chính thống, Cấp quản lý thậm chí yếu kém tới mức đã làm mất bản đồ
quy hoạch ?!. Thêm vào đó, những nhức nhối về giải phóng mặt bằng và
những sai phạm rõ ràng từ Sở, Ban, Ngành đã bộc lộ và chính thức trở
thành khủng hoảng về sở hữu đất trong nhiều năm qua. Cho nên không khó
để nhận ra rằng việc phê duyệt quyết định xây dựng nhà hát Thủ Thiêm đã
một lần nữa thể hiện sai lầm một cách cố hữu của cấp quản lý. Có một số
nhận định cho rằng TP muốn xây dựng một công trình công cộng tại đây,
kéo theo nhân sự công cộng đổ vào khu vực thì sẽ làm chìm đi những lùm
xùm về sở hữu đất (vốn dĩ đã kéo dài hàng chục năm) với các hộ dân ngụ
cư . Thành thực mà nói, nhận định đó là hoàn toàn có cơ sở bởi việc công
cộng hóa các khu vực đất tranh chấp là phương pháp được coi là khá phổ
biến của nhà cầm quyền đương thời trong khủng hoảng đất đai. Bởi điều
này sẽ đần đẩy một cộng đồng yếu thế đang chịu oan ức vào thế bị cô lập.
Tất nhiên, nhìn theo hướng nhân đạo hơn, có thể giới chức Tp.HCM chưa
hẳn đã có dã tâm như vậy, có thể họ cũng có những thiên hướng tốt đẹp về
Văn hóa Nghệ thuật thì sao?. Ngay cả trong tình huống bớt tồi tệ đó, thì
kế hoạch mà họ đang phê duyệt và triển khai đã hoàn toàn sai cả ở yếu tố
tầm nhìn đô thị lẫn yếu tố kinh tế. Như đã nói ở trên, đó có thể coi là
những sai lầm căn bản có tính hệ thống. Nếu bỏ qua các vấn đề về dã tâm
vốn được báo chí chính thống một mực phủ nhận, thì đây là vấn đề về trí
tuệ và năng lực.
Rời xa khỏi
khía cạnh thứ Nhất, ta đi vào khía cạnh thứ Hai của một Nhà hát, đó là
tương tác văn hóa của nó đối với cộng đồng. Ở khía cạnh này, mình xin
lấy ví dụ về thành phố Berlin.
Berlin cũng có
dân số cao đến 4 triệu người (gấp đôi Hamburg) nhưng họ không xây Nhà
hát nghìn tỷ mới tại đây, bởi các hệ thống đầu tư dài hạn chưa đạt đến
độ chín. Thay vào đó, họ tập trung nâng cấp, cải tạo, làm mới các Nhà
hát cũ có giá trị lịch sử , ví dụ như nhà hát Friedrichstad-Palast, nơi
vẫn diễn ra các buổi biểu diễn tầm cỡ thế giới với chuyên môn cao. Hoặc
như Cung thể thao Mercedez được sử dụng như không gian đa chức năng và
có thể tổ chức các buổi diễn nhạc, kịch rất lớn. Hồi đầu năm mình có đi
xem hòa nhạc Game of Thrones tại đây, khán phòng 12 nghìn chỗ ngồi không
có lấy một chỗ trống. Ngoài ra thành phố còn có một số lượng lớn các nhà
hát vừa và nhỏ, nhà hát tư nhân, các cụm rạp chiếu phim nghệ thuật, diễn
kịch như cụm rạp Babylon…. Thậm chí ở ngay đằng sau nhà mình cũng có một
Nhà hát nhỏ được tạo ra rồi hoạt động trong một khu tập thể cũ, nó là
nơi để các nghệ sĩ trẻ có chỗ tập luyện và giới thiệu nghệ thuật của họ
với một số lượng khán giả nhất định. Nói cách khác, Nhà hát nghìn tỷ của
Berlin cũng có tồn tại nhưng thay vì ở một chỗ thì nó ở khắp mọi nơi,
dưới nhiều hình thức và quy cách hoạt động. Người ta tự tạo ra các không
gian tương tác nghệ thuật phù hợp với khả năng, họ thể hiện cam kết theo
đuổi lâu dài và rồi nhận được không ít sự giúp đỡ và động viên từ cộng
đồng và chính quyền sở tại. Nói cách khác, họ đưa Nhà hát đến với từng
góc phố, đưa các bài hát, vở kịch đến gần với người xem và nhờ đó những
Nhà hát nhỏ này sinh sôi, phát triển trong một môi trường bền vững, lành
mạnh. Và sẽ thật nực cười khi chúng ta nói rằng các hoạt động nghiên cứu
và phát triển âm nhạc (từ tự do cho đến hàn lâm) ở Berlin yếu thế hơn so
với Hamburg. Trái lại, chính thành phố Berlin mới được coi là trung tâm
âm nhạc, vũ kịch của cả châu Âu bởi môi trường đầu tư cởi mở, nét duyên
dáng và sự sôi động của nó hấp dẫn tất cả các nghệ sĩ chân chính trên
toàn Thế giới. Người nghệ sĩ, họ không cần một nhà hát lớn, thay vào đó,
họ cần có khán giả và trên hết, họ cần được phát triển thứ Nghệ thuật
của chính họ.
Điều đó đã chỉ
ra rằng, việc có hay không có một nhà hát nghìn tỷ không hề quyết định
môi trường thực hành Văn hóa, Nghệ thuật tại một thành phố. Môi trường
thực hành Văn-Nghệ được định hướng và dẫn dắt bởi các cơ chế và chính
sách. Văn hóa-Nghệ thuật luôn đòi hỏi một cơ chế mở, tự do và khuyến
khích tất cả các thành phần của nó hoạt động hết khả năng. Giới chức
Tp.HCM thì lại cho rằng chỉ cần xây Nhà hát nghìn tỷ là sẽ có nền Văn
hóa-Nghệ thuật phát triển!? Suy nghĩ đó còn thua cả suy nghĩ của một đứa
trẻ. Có xây vài ba cái Nhà hát nghìn tỷ mà vẫn còn tồn tại Sở Văn Hóa TP
với chất lượng con người như hiện nay thì xây xong cũng chỉ để tổ chức
dăm ba tiệc cưới, chục cái Đại hội Công nhân Viên chức là cùng. Và đến
khi các nhà hát không làm việc hiệu quả như mong đợi, chắc chắn họ sẽ
quay sang đổ lỗi cho một thứ mơ hồ, được gọi là “cơ chế” –đứa con hoang
chính họ đẻ ra nhưng chẳng bao giờ thừa nhận.
Trở lại năm
2015, đồ án Nhà hát nổi Holzmarkt trên sông Spree tại Berlin của cá nhân
mình thiết kế được giải thưởng và lọt vào vòng phê duyệt của Thành phố.
Tại thời điểm đó, mình nhận ra rằng ngay cả với một đồ án nhỏ với nguồn
vốn xã hội cũng thu hút được sự quan tâm của rất đông đảo các giới chức.
Người ta thực hiện những cuộc họp rất nghiêm túc tại trung tâm hội nghị
Messe Berlin với sự tham gia của những đạo diễn chỉ đạo thiết kế sân
khấu hàng đầu. Qua đó ta thấy rằng Môi trường nghệ thuật lành mạnh nó
thúc đẩy những người trẻ nhiều đến thế nào. Sự thúc đẩy đó là vô giá.
Trái lại. Không
cần lấy ví dụ xa xôi, hãy nhìn vào Bảo Tàng Hà Nội với chi phí xây dựng
6 nghìn tỷ đồng. Cho đến tận ngày hôm nay, sau 7 năm đi vào hoạt động
thì nó tổ chức được bao nhiêu triển lãm Nghệ thuật? bao nhiêu sự kiện
Nghệ thuật? đơn vị vận hành lưu trữ thêm được bao nhiêu hiện vật? Bộ sưu
tập các tác phẩm được tăng lên bao nhiêu? bao nhiêu dự án bảo tồn được
thành lập? bao nhiêu nghệ sĩ trẻ nhận được tài trợ để phát triển sự
nghiệp? kết nối được với bao nhiêu cơ sở nghệ thuật trên toàn Thế giới
?, đào tạo ra được bao nhiêu curator (nhà định hướng Nghệ thuật)? Tổ
chức được bao nhiêu cuộc đấu giá tác phẩm? Bán được bao nhiêu tác phẩm?
Khả năng tự tạo ra của cải và khả năng sinh lãi là bao nhiêu? …. Chẳng
ngại ngần, ta khẳng định tất cả các thông số đó đều tiệm cận với số “0”.
Thứ duy nhất không gần với số “0”, thẳng thắn mà nói, đó chính là chi
phí vận hành và bảo trì công trình, chi phí này, chắc chắn không ít hơn
hơn 10 chữ số một năm. Mình vẫn còn nhớ năm 2010, mình đi thực tập cho
Văn phòng Gmp của CHLB Đức (chính là văn phòng Kiến trúc đã thiết kế ra
cái nhà bảo tàng này và cả Trung tâm hội nghị quốc gia), sếp tổng của
VP, thầy Gerkan có dẫn cả nhóm sinh viên lâu nhâu bọn mình đi thăm quan
TT Hội nghị và Bảo tàng Hà Nội. Lúc đi qua TT Hội nghị thầy tỏ ra đau
lòng khi nhìn thấy người ta đang trang hoàng phần tiền sảnh một cách hơi
lòe loẹt để tổ chức một Đại hội Công nhân viên chức. Lúc sau, khi cả
nhóm đi sang nhà bảo tàng, bọn mình thấy thầy dường như vui hơn vì công
trình lúc đó còn đang thi công dở dang chưa đi vào hoạt động. Ngày nay
nếu có dịp gặp lại, mình có lẽ không dám nói ra sự thật với thầy rằng,
chí ít thì cái TT Hội Nghị vào dịp vắng hội họp thì nó còn tổ chức được
đám cưới cho con cái các sếp to, còn bên nhà bảo tàng thì người ta chả
làm được gì. Và ta phải nhìn vào thực tế đó để rút ra các vấn đề về công
tác vận hành. Công trình Văn hóa, dù đẹp, dù sang đến mấy mà thiếu đi sự
sống bên trong lòng nó thì cũng không ổn và tuyệt nhiên không phải cứ
xây cho được cái bảo tàng to đẹp, hoành tráng thì tự thân số lượng nghệ
sĩ sẽ nhiều lên, nhiều mẫu vật hơn, có nhiều tranh hơn, nhiều tác phẩm
điêu khắc hơn…. Tất cả những điều đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra khi chúng
ta không tạo ra một cơ chế và môi trường cởi mở cho hoạt động nghệ thuật
chân chính.
Có lần mình mua
TV mới, lúc đầu, cháu mình rất thích vì TV mới to, màn hình tinh thể
lỏng và có khả năng chơi video độ phân giải cao, tuy nhiên một thời gian
sau cháu chẳng màng đến nó nữa bởi chiếc TV mới không được cắm cáp
truyền hình với các kênh mà cháu bé yêu thích. Cháu mình quay trở lại
xem chiếc TV nhỏ với những chương trình thiếu nhi phù hợp với cháu. Một
em bé 3 tuổi chẳng mất mấy thời gian để nhận ra rằng vấn đề không nằm ở
kích cỡ.
Như vậy, qua
hai khía cạnh hẹp của vai trò của Nhà hát đối với một Thành phố. Chúng
ta nhận ra rằng, vào lúc này việc đầu tư nghìn tỷ để xây Nhà hát nghìn
tỷ ở Thủ Thiêm là chưa phù hợp, thay vào đó, hãy đầu tư nghìn tỷ để thúc
đẩy hoạt động Văn hóa – Nghệ thuật một cách bài bản, tạo ra môi trường
cởi mở và thân thiện cho người nghệ sĩ ( vốn tự nhận mình là thấp cổ bé
họng). Hãy đầu tư nghìn tỷ để tạo ra những người Nghệ sĩ chân chính, và
chính họ sẽ tạo ra Nghệ thuật chân chính và rồi tự khắc sẽ có Nhà hát
hay Bảo tàng nghìn tỷ. Hãy đầu tư để có những con người dám cất lên
tiếng nói, tiếng hát, tiếng đàn của chính mình, dám nhảy những điệu nhảy
của chính mình. Xây Nhà hát nghìn tỷ để làm gì khi những “nghệ sĩ” của
chúng ta vẫn im re trước những bất công, sai trái, vẫn co ro cúm rúm, bợ
đỡ cường quyền? Xây Nhà hát nghìn tỷ làm gì khi tất cả những thứ “nghệ
thuật” được phê duyệt chỉ là thứ nghệ thuật nửa vời, được tạo ra bởi
những người tự xưng là “nghệ sĩ”- đang dò dẫm trong đêm tối và phó mặc
cho sự may rủi sẽ đưa mình đến với cái nơi mà nơi đó vốn dĩ chỉ dành cho
những kẻ can đảm và có đức tin?
Để kết lại xin
trích dẫn lời của William Ralph Inge:
“ Nhà Hát? Hằn
nhiên, nó là phản chiếu của cuộc đời và có lẽ chúng ta nên cải thiện
cuộc đời của chúng ta trước khi nghĩ đến việc chúng ta có thể cải thiện
bất cứ nhà hát nào hay không” |