Đọc A History of the Vietnamese của K.W. Taylor Nguyễn Minh
K.W. Taylor là một nhà Việt Nam học hàng đầu, từng được Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh vinh danh. Ông xuất bản cuốn The Birth of Vietnam từ năm 1983, và đứng ra tổ chức hội thảo về lịch sử Việt Nam tại trường Cornell vào năm 1991. Năm 2013, nghe ông ra mắt sách mới A History of the Vietnamese, lại cũng nghe nhiều dư luận chung quanh nó, nhưng mãi gần đây, chúng tôi mới có thời giờ ngồi lại, xem kỹ sách ấy. Thật ra, ngay từ hồi đọc kỷ yếu hội thảo Cornell, chúng tôi đã băn khoăn trước bản dịch văn bia về Đỗ Anh Vũ của Taylor, khi ông nhất loạt dịch chữ “công” ra thành “duke” (Taylor 1995). Tuy vậy, cầm trên tay ấn bản A History of the Vietnamese, trong lòng vẫn rất hứng khởi, nghĩ rằng sách mới, lại do một học giả danh tiếng viết, ắt phải chứa đựng nhiều kiến giải mới, độc đáo, vượt trội sử cũ. Tới lúc đọc xong thì hứng khởi mất hết tan hết, chỉ lưu lại thất vọng. Bởi mới thì có mới, nhưng lại đầy rẫy sai lầm, so với sử của Joseph Buttinger viết từ mấy chục năm trước [The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam (1958) hay Vietnam: A Dragon Embattled (1967)] chưa chắc đã bằng, nói chi đến vượt. Buttinger dĩ nhiên cũng sai nhiều, nhưng điều ấy dễ hiểu, vì ông là người khai sơn phá thạch, lại chịu nhiều hạn chế của thời đại. Còn Taylor soạn sách trong kỷ nguyên Google mà vẫn phạm những sai sót cơ bản thì quả rất khó hiểu. Gấp sách lại, chúng tôi càng cảm nhận điều sau đây là đúng: Không phải người Việt Nam, sẽ không sao hiểu được Việt Nam. Người nước ngoài nghiên cứu nước ta, có thể họ rất chuyên sâu, rất giỏi trong lĩnh vực của mình, nhưng hiểu biết của họ dù sao vẫn không toàn diện. Toàn diện sao được khi họ không sinh ra ở Việt Nam, không được thấm nhuần trong nền văn hóa Việt Nam, không “ăn Việt Nam”, “ngủ Việt Nam”? Chỉ đơn thuần đọc sách đọc vở, vùi đầu trong văn khố, phỏng vấn người này người nọ thì không sao đủ. Đó là chưa nói đến việc vì áp lực thời gian, giới học giả khi đọc tư liệu thường chỉ lướt qua, xem kỹ các đoạn tối cần, bỏ hết những thứ còn lại, vô hình trung tự giới hạn mình, khiến kiến văn mình trở nên phiến diện. (Thậm chí có những người không biết tiếng Việt, không đọc được tư liệu gốc, nhưng vẫn xưng danh “Việt Nam học”!) Xem sách do các “ông Tây bà Đầm” viết về Việt Nam, thấy quý vị quả cũng dụng công. Hiểu biết của quý vị, chuyên môn của quý vị đôi khi hơn xa giới học thuật Việt Nam. Nhưng song song đó, chính quý vị lại hay mắc những lỗi rất vớ vẩn mà ngay một người Việt bình thường, hơi có hiểu biết, cũng không mắc. Trong số những người tôi đã hân hạnh được đọc, ai cũng như thế. Như William J. Duiker được xem là chuyên gia số một về Hồ Chí Minh, mà cuốn Ho Chi Minh (2000) của ông cũng không thiếu các lỗi cơ bản. Song phê bình Duiker xin hẹn dịp khác, vì nhân vật chính trong bài này là Taylor. Như đã nhắc ở trên, giới học giả thường chỉ lướt qua tư liệu. Chúng tôi đồ rằng khi viết review cho A History of the Vietnamese, nhiều người cũng giữ thói quen ấy, tức là xem nhoáng một lượt rồi thôi, không thực sự rõ mình đang điểm cái gì, phê bình cái gì. Vì vậy, ngập tràn trong các bài điểm sách là những từ ngữ ngợi khen như “masterpiece”, “groundbreaking”, hay “landmark”, còn những sai lầm “to như con voi” thì hầu như không ai chỉ ra. Của đáng tội, cái sai tuy to nhưng nhiều khi lại luẩn khuất trong những chỗ khó tìm, cần đọc kỹ mới phát hiện được. Đương nhiên, sách của Taylor có những điểm hay, điểm mạnh. Lập luận của ông có chỗ chúng tôi rất tán đồng [như tách huyền sử (Hùng Vương) khỏi lịch sử, xét lại vai trò của Nguyễn Trãi]. Tuy vậy, cái hay trong sách nhiều người đã khen rồi, nên ở đây, xin mạn phép không làm việc thừa ấy nữa, mà chỉ tập trung vào những điểm bên dưới, theo chúng tôi là “có vấn đề”. 1. Đề Cao Trung Quốc, Hạ Thấp Việt Nam Trong sách, Taylor nhất quán gọi vua Trung Quốc là “hoàng đế” (emperor), vua Việt Nam là “vương” (king), bất chấp việc vua ta đã xưng đế từ năm 968, với vị hoàng đế đầu tiên là Đinh Tiên Hoàng (Thậm chí từ 544, nếu tính cả Lý Nam Đế). Phải chăng ông theo thuyết “chính danh”, cho rằng vua Trung Quốc mới đúng là thiên tử, còn các vị quân chủ nước Nam chỉ tiếm vị tự xưng? Ngoài ra, khi nhắc đến vua Trung Quốc, Taylor thường gọi bằng hiệu, như Tần Thủy Hoàng thay vì Doanh Chính, Tống Thần Tông thay vì Triệu Húc. Trong khi đó, với vua Việt Nam, ông gọi tên, như Trần Khâm thay vì Trần Nhân Tông, Lê Tư Thành thay vì Lê Thánh Tông. Mà gọi tên nhiều lúc cũng gọi không đủ, chẳng hạn: thay vì Lê Long Việt, Lê Long Đĩnh, chỉ viết Lê Việt, Lê Đĩnh (tr. 57); thay vì Nguyễn Quang Toản, chỉ viết Nguyễn Toản (tr. 394). Biết rõ danh hiệu của người mà không gọi đúng, ấy là thiếu tôn trọng; gọi thẳng tên húy của vua, lại càng thiếu tôn trọng hơn. Dĩ nhiên, Taylor là người ngoại quốc, chẳng thể bắt ông tôn kính vua nước ta. Song le, ông cần nhận ra rằng cách viết như thế rất đánh đố người đọc. Độc giả Việt Nam vốn chỉ quen với Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, đọc thấy Trần Khâm, Tư Thành tất không khỏi hoang mang. Ngược lại, độc giả nước ngoài sau khi đọc sách Taylor, nếu đọc sách Việt Nam để tìm hiểu thêm, thấy toàn nhắc Nhân Tông, Thánh Tông ắt sẽ bỡ ngỡ. Quan trọng hơn, cách viết của Taylor thể hiện rõ lập trường “nhất bên trọng, nhất bên khinh”, đề cao Trung Quốc mà hạ thấp Việt Nam. Thật vậy, trong lập trường Taylor, nếu tách riêng khỏi Trung Quốc, Việt Nam không còn gì cả. Ông viết:
Theo Taylor, Nhật Bản và Triều Tiên tuy nằm trong quỹ đạo văn hóa Trung Hoa, nhưng vẫn có bản sắc riêng, chỉ Việt Nam là không.
Chính vì tư duy như thế, Taylor bác bỏ chính sử Việt Nam, không tin Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070.
Vậy là với Taylor, hễ cái gì Trung Quốc chưa có, Việt Nam không được phép có! Dưới ngòi bút Taylor, Việt Nam hiện ra như em nhỏ, còn Trung Quốc như người anh to lớn, nhân từ. Anh luôn đối xử rất tốt, nâng đỡ đàn em, nếu phải đánh em thì chỉ vì bất đắc dĩ!
(Đoạn văn trên, chúng tôi nghĩ chuyên gia tuyên truyền của Trung Quốc cũng không viết hay hơn được!) Ngay khi “bất đắc dĩ” phải chiếm Việt Nam, người Trung Quốc cũng rất “khai phóng”. Taylor viết về thời kỳ phụ thuộc nhà Minh như sau:
Taylor tin tưởng: Đã có sẵn chính sách vì dân, nên chỉ cần các hoàng đế Minh triều giữ vững quyết tâm lâu hơn một chút, Việt Nam sẽ thôi chống đối, cam tâm thần phục.
Một khi nâng cao Trung Quốc, Taylor tất phải hạ giá những chiến công của người Việt. Ông lập luận: Nhà Minh xâm chiếm Việt Nam do chính sách bành trướng của Minh Thành Tổ Chu Đệ. Sau khi Thành Tổ qua đời, các vua kế vị không duy trì chính sách cũ, mà xem “công việc tại Giao Chỉ như một sự xao lãng vô bổ, trong khi biên cương phía Bắc đang phải đối mặt với những hiểm họa nghiêm trọng”, do đó, tốt nhất là nên “tái lập nhà Trần, trở lại với quan hệ triều cống như cũ” (tr. 183). Theo đấy suy ra, Việt Nam giành độc lập chưa chắc bởi thiên tài của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, mà do thiên triều thay đổi chiến lược, không còn thiết tha với việc nắm giữ Giao Chỉ. Tương tự, chiến công của Quang Trung Nguyễn Huệ cũng không vĩ đại, vì ông có đánh hay không, quân nhà Thanh cũng rút. Taylor viết:
Chiến thắng Kỷ Dậu của Quang Trung chỉ được tường thuật trong vỏn vẹn hai câu như thế! Xin nhường quý độc giả quyền nhận định những trích đoạn kể trên. Riêng phần chúng tôi không dám khẳng định Taylor sai, nhưng rõ ràng ông viết từ góc nhìn Trung Quốc. Lẽ ra, với tư cách sử gia, ông phải đưa vào cả góc nhìn Việt Nam, và tìm cách dung hòa hai góc đốc lập. 2. Lịch Sử Việt Nam Là Lịch Sử Tranh Chấp Vùng Miền? Trong giới học giả hiện đại, dường như phổ biến quan niệm rằng: Viết sử nếu chỉ đơn thuần tường thuật sự kiện thì chưa phải viết sử. Ngoài tường thuật ra, còn phải nhìn vào hiện tượng để hiểu thấu bản chất, suy từ sự kiện để tìm ra quy luật. Tóm lại, cùng trông vào một sự thật khách quan, nhưng sử gia thấy được, đúc kết được những gì người thường không nhận ra. Quan niệm trên không sai, song nhiều sử gia lại đẩy nó đi quá xa. Dẫu không có cơ sở nào, hoặc dựa trên những cơ sở vô cùng mơ hồ, họ vẫn suy này diễn nọ, kết luận những điều hoang đường, cho rằng mình nắm trong tay chân lý. K.W. Taylor dường như nằm trong số đó. Trong những công trình nghiên cứu về Việt Nam, ông luôn nhấn mạnh sự tranh chấp, xung đột vùng miền. A History of the Vietnamese là cơ hội cho ông nhắc lại lý thuyết vùng miền. Chúng tôi không thích gì báo Nhân Dân, nhưng rất tán đồng với bài của tác giả Nguyễn Đình (2015) đăng trên báo ấy, khẳng định lý thuyết này là một sự xuyên tạc lịch sử. Với Taylor, các vùng miền Việt Nam không lúc nào không kèn cựa, gây chiến với nhau, hết Kinh (đồng bằng sông Hồng) đấu Trại (Thanh Nghệ), rồi Nam đấu Bắc. Đặc biệt, Taylor “phát hiện” ra rằng dân Kinh có xu hướng tạm gọi là “bán nước”, thích thỏa hiệp với Trung Quốc. Xin trích vài đoạn:
(Chúng tôi gạch dưới những chữ muốn nhấn mạnh.)
Xem mấy đoạn trên, chúng tôi cứ ngỡ mình đang đọc những “chuyên gia suy diễn” như Lương Kim Định hay Lê Mạnh Thát. Taylor tự hào về việc sử dụng tài liệu gốc để viết lịch sử Việt Nam. Tài liệu gốc chủ yếu là các bộ quốc sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Tuy nhiên, có đọc mòn các bộ ấy cũng không tìm ra đoạn nào nói về xung đột vùng miền. Vậy thì Taylor dựa vào cơ sở nào để lập thuyết? Sử liệu về Khúc Thừa Mỹ và Dương Đình Nghệ rất ít, ông dựa vào đâu để xác quyết về lập trường của họ? Ông có đi ngược thời gian để thăm hỏi dân tình đời Hồ không? Sao có thể khẳng định nhân dân không theo Hồ Quý Ly vì Quý Ly người Thanh Hóa? Nếu Quý Ly không phải người Thanh Hóa, thì nhân dân sẽ bỏ qua tội tiếm ngôi nhà Trần của ông ta, và nhà Hồ sẽ không mất nước chăng? Cũng như vậy, nội chiến Trịnh – Nguyễn là do dân Nam dân Bắc ghét nhau, hay đơn thuần là xung đột giữa hai tập đoàn phong kiến? Dĩ nhiên, Taylor hoàn toàn có quyền suy đoán, đưa ra giả thuyết. Nếu ông chỉ nêu giả thuyết, và sử dụng những từ như “có lẽ”, “dường như”, chúng tôi sẽ không có gì để nói. Đằng nào, câu nào câu nấy ông đều khẳng định, đoan chắc như đinh đóng cột. Thiếu vắng cơ sở vững vàng mà lại khẳng định, ấy là lối làm việc chủ quan, hoàn toàn không chuyên nghiệp. Bỏ lý thuyết vùng miền sang một bên, Taylor còn thể hiện tính chủ quan trong nhiều chi tiết khác. Thí dụ, ông quả quyết: “Trương Đăng Quế, hoặc một trong những kẻ dưới quyền ông ta, đã sửa đổi hay làm giả di chiếu của Thiệu Trị, lấy Hồng Nhậm làm người kế vị thay vì Hồng Bảo” (tr. 437); rồi thì “Nguyễn Văn Tường có quan hệ tình ái với Học Phi, vợ của Tự Đức” (tr. 474). Thật ra, dư luận về Trương Đăng Quế rất nhiều, thậm chí còn bảo ông là bố đẻ của Tự Đức, song tất cả đều là “conspiracy theories”, không có chứng thực. Quan hệ của Văn Tường và Học Phi cũng là đồn đại mà thôi. Có thể nêu ra những chi tiết ấy, nhưng không thể khẳng định như Taylor đã làm. Hãy thử đặt sự chủ quan của Taylor bên cạnh thái độ thận trọng của giáo sư Hà Văn Tấn, chẳng hạn. Chính sử Việt Nam đều chép chuyện Đinh Liễn (con của Đinh Tiên Hoàng) giết em là Hạng Lang. Năm 1987, các nhà khảo cổ tìm được bia cổ ở Hoa Lư khắc lời Đinh Liễn thuật chuyện giết em trai, nhưng tên người em lại được ghi là Đính Noa Tăng Noa. So sánh sử liệu, có thể gần như chắc chắn Đính Noa Tăng Noa là Hạng Lang. Nhưng “gần như” chưa phải 100%, nên giáo sư Tấn (1995, tr. 53) vẫn viết:
Sử gia chân chính làm việc nghiêm cẩn như vậy! 3. Các Lỗi Sơ Đẳng, Người Nọ Xọ Người Kia (a) Phạm Ngọc Thảo là thủ lĩnh Thanh Niên Tiền Phong?
Ở đây, Taylor sai lầm một cách hài hước, nhầm lẫn giữa bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, sau này là bộ trưởng y tế Bắc Việt, với tình báo viên Phạm Ngọc Thảo, đại tá, cựu tỉnh trưởng Kiến Hòa. Người Việt không cần phải sử gia, chỉ cần hiểu biết một chút, cũng biết hai người này hoàn toàn khác nhau. Chúng tôi nghĩ Taylor chỉ nhất thời nhớ sai, chứ không phải không phân biệt được Ngọc Thảo và Ngọc Thạch. Dù sao đi nữa, sai sót này nói lên hai điều về ông: (1) không thật vững về lịch sử hiện đại Việt Nam, (2) thiếu thận trọng, không kiểm lại tư liệu trước khi viết. (b) Viên Chiếu thiền sư đi theo cộng sản?
Một sai lầm hài hước không kém. “Viên Chiếu” là nhân vật duy nhất được nhắc đến khi Taylor giới thiệu phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Quả thật, trong lịch sử Việt Nam có Viên Chiếu thiền sư, song ngài sống vào đời … nhà Lý, còn người Taylor muốn nói thật ra là Thiện Chiếu. Vả lại, dù viết đúng tên Thiện Chiếu thì Taylor vẫn sai, vì sư Thiện Chiếu chắc chắn không “nổi bật nhất” trong Phật giáo chấn hưng, và tư tưởng “quá khích” của sư hầu như chẳng gây được ảnh hưởng gì lên nền Phật học Việt Nam. Chính quyền Việt Nam đề cao Thiện Chiếu chẳng qua vì sư là người cộng sản mà thôi. (c) Nhan đề Truyện Kiều là Kim Vân Kiều?
Một bằng chứng nữa cho thấy Taylor không thật sự hiểu Việt Nam. Ngay một học sinh bình thường ở Việt Nam cũng được học rằng tên gốc truyện Kiều không phải Kim Vân Kiều. Kim Vân Kiều là tên truyện Tàu, còn Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mình là Đoạn Trường Tân Thanh. Đối với đông đảo quần chúng, Truyện Kiều chỉ đơn giản là…Truyện Kiều. (d) Lê Quý Đôn xấu xa toàn diện?
Một điểm chúng tôi không thích ở nhiều sách báo Việt Nam (phe nào cũng vậy) là cách viết một chiều: Hễ khen ai thì khen ngất ngây, chê ai thì xem như người đó không còn gì tốt. Đọc sách vở hiện đại viết về Lê Quý Đôn, chúng tôi bất mãn khi ai cũng chỉ khen, che giấu hết những khuyết điểm của ông chép trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Đọc sách của Taylor cũng bất mãn, nhưng vì lý do ngược lại: Taylor không nói tốt cho Lê Quý Đôn được một câu! Chỉ có câu “Lê Quý Đôn … học tương đối rộng” là hơi tích cực. Nhưng nếu học vấn của Lê Quý Đôn mà chỉ “tương đối rộng” thôi, thì phần của lại của học giới Việt Nam như thế nào? Đều là dốt nát, không đáng lọt mắt Taylor chăng? Chúng tôi không phản đối những gì Taylor viết về Lê Quý Đôn, song đó chỉ là một nửa sự thật. Đánh giá một con người, cần đánh giá toàn diện. Lê Quý Đôn có thể vừa là nhà bác học thiên tài, vừa là một ông quan tham nhũng, biển lận, điều ấy không có gì mâu thuẫn. (e) Trần Thủ Độ là em ruột Trần Thừa và Trần Tự Khánh?
Không hiểu Taylor theo tài liệu nào để viết như trên? Chính sử Việt Nam tất thảy đều nói chỉ có Trần Thừa và Trần Tự Khánh là con trai Trần Lý. Trần Thủ Độ chỉ là em họ. (f) Trần Tiễn Thành tham gia giết vua Dục Đức?
Viết như trên, Taylor khẳng định cả ba phụ chính đều đồng mưu giết vua. Trên thực tế, chỉ có Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường làm việc thí nghịch. Trần Tiễn Thành vì không hùa theo nên bị bức bách, về sau cũng bị hại. Trên đây chỉ là một vài ví dụ tiêu biểu. Trong sách còn nhiều chỗ sai khác, nhỏ hơn, như trang 112 nói vợ Trần Hưng Đạo là chị em cùng cha khác mẹ với ngài (thực ra Khâm Định Việt Sử ghi là cô ruột, có người nói là em họ), trang 529 – 530 nói Hồ Học Lãm là sỹ quan cấp tướng trong quân đội Quốc Dân Đảng (thực ra là cấp tá), trang 466 nói Huỳnh Tịnh Của có mặt trong sứ đoàn Phan Thanh Giản đi Tây (thật ra không) … Trong khuôn khổ bài viết không thể kể hết. 4. Đầu Voi Đuôi Chuột Cảm nhận cuối cùng của chúng tôi về A History of the Vietnamese: Cuốn sách mang một vẻ đầu voi đuôi chuột. Thường thì các sách thông sử hay viết sơ lược về cổ sử, chi tiết về sử hiện đại. Sử của Taylor lại ngược hẳn: Phần đầu tương đối chi tiết, phần cận – hiện đại khá sơ sài. Có cảm giác tác giả càng viết càng đuối, càng về cuối càng viết quấy quá cho xong để làm việc khác. Khó tin, nhưng trong tác phẩm gần 700 trang, “đại thắng mùa xuân” năm 1975 chỉ được tóm gọn trong … một câu: “Đầu năm 1975, tin rằng Mỹ sẽ không trở lại, lãnh đạo Bắc Việt phát động chiến dịch tấn công, chỉ trong hai tháng đã giành thắng lợi hoàn toàn (tr. 613).” Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay thì được trình bày không thể vắn tắt hơn trong vài trang, từ 614 đến 618. Cách viết vội như trên chỉ làm giảm giá trị tác phẩm. Quý hồ tinh bất quý hồ đa; Taylor bỏ quách phần hiện đại đi, chỉ tập trung vào cổ sử, cuốn sách có khi còn sáng giá hơn. Tuy nhiên, như đã bàn, ngay cả với cổ sử, sử quan của ông cũng chủ quan, theo chúng tôi thì có nhiều vấn đề. Các sử gia Việt Nam chân chính có lẽ phải nỗ lực hơn nữa, bởi không ai thay thế được các vị. Chúng tôi mong rồi đây, các vị sẽ cho ra đời những pho sử thật tinh túy bằng Anh ngữ, để độc giả quốc tế có thể hiểu đúng về Việt Nam, thay vì phải đọc sách của “Tây” rồi mang theo cái nhìn méo mó. Đương nhiên, nếu sau này có tác giả ngoại quốc nào thấu hiểu được cái hồn Việt Nam, khiến chúng tôi phải thay đổi quan điểm, việc ấy lại càng quý lắm vậy. Nguyễn Minh
Thư Mục Buttinger, J 1958, The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam, New York: Praeger. Buttinger, J 1967, Vietnam: A Dragon Embattled, New York: Praeger. Duiker, WJ 2000, Ho Chi Minh, Crows Nest, NSW: Allen & Unwin. Hà, Văn Tấn 1995, ‘Inscriptions from the Tenth to Fourteenth Centuries Recently Discovered in Việt Nam’, trong KW Taylor & JK Whitmore (cb), Essays into Vietnamese Pasts, New York: Southeast Asia Program, Cornell University. Ngô, Sĩ Liên et al 1993, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, dịch bởi Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội (năm soạn: c. 1272 – 1697). Nguyễn, Đình 2015, Nhân Danh Lịch Sử Để Xuyên Tạc Lịch Sử Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 29/1/2017, < http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/27897102-nhan-danh-lich-su-de-xuyen-tac-lich-su-viet-nam-tiep-theo-va-het.html Quốc Sử Quán Triều Nguyễn 1998, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, dịch bởi Viện Sử Học, Hà Nội: NXB Giáo Dục (năm soạn: c. 1856 – 1881). Taylor, KW 1983, The Birth of Vietnam, Berkeley: University of California Press. Taylor, KW 1995, ‘Voices Within and Without: Tales from Stone and Paper about Đỗ Anh Vũ (1114 – 1159)’, trong KW Taylor & JK Whitmore (cb), Essays into Vietnamese Pasts, New York: Southeast Asia Program, Cornell University. Taylor, KW 2013, A History of the Vietnamese, New York: Cambridge University Press
Tác giả gửi cho Viet-Studies ngày 7-2-17 |