Tham luận Hội
thảo : CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC LƯU
QUANG VŨ
MINH TRIẾT VIỆT-
Sinh thời Lưu Quang Vũ từng nghĩ :
Những đám hội này,chỉ một
lần tôi được hát
Chỉ sống một cuộc đời giữa vô cùng năm
tháng
Chỉ một lần gặp bạn, bạn yêu thương
Chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu
hát buồn
Chứng kiến Hội thảo kỷ niệm 70 năm sinh
và 30 năm mất ngay trên quê hương, hẳn người tự nhận:Khổ
đau dẫu nhiều, tôi chọn niềm vui
đã thấy mãn nguyện.
Góp thêm một tiếng nói khẳng định những
đóng góp lớn lao của tác giả vào văn học nước nhà những năm cuối thế kỷ
XX, tôi chỉ xin nêu vài thiển ý lý giải sức sống bền lâu của một số vở
kịch của Lưu Quang Vũ.
Trở lại ký ức, buổi
cuối chiều cuối tháng 8-1988. Đó
là một ngày thứ 2. Sân 51
Trần Hưng Đạo, nơi có trụ sở nhiều hội văn học nghệ thuât nháo nhác khi
nghe tin cả gia đình Lưu Quang Vũ bị tại nạn. Tôi cùng nhà viết kịch
Xuân Trình Phó Tổng thư ký Hội
Nghệ sĩ Sân khấu VN kiêm Giám đốc NXB SK và Tổng biên tập Tạp chí Sân
khấu nơi LQV đang công tác,cùng một số cán bộ Hội
vội vàng lao về Cầu Lai Vu Hải
Dương, nơi xảy ra tai nạn.Bấy giờ, Lưu Quang Vũ đã được đưa về Bệnh viện
Hải Dương cấp cứu, nhưng không kịp. Chúng tôi cùng mấy anh em trong gia
đình ngồi trên chiếc xe bị tai nạn đưa chị Xuân Quỳnh và cháu Lưu Quỳnh
Thơ về nhà xác Bệnh Viện, nơi Lưu Quang Vũ đã nằm ở đó. Nhờ nhân viên
Bệnh viện tắm rửa, thay áo quần cho cả ba người, trước khi đưa về Hà
Nội. Đó là một đêm Hà Nội không ngủ. Trước cửa Bệnh viện Việt- Đức hàng
trăm nghệ sĩ các đơn vị sân khấu và bạn bè thân quen đã đứng chờ, gào
khóc khi xe về đến. Dạo đó, nhà xác BV Việt- Đức chưa có phòng lạnh.
Không thể để đó trong vài ba ngày chờ tổ chức tang lễ. Nhờ sự can thiệp
kịp thời của GS-TS Đình Quang, người thầy của nhiều thế hệ Nghệ sĩ Sân
khấu, bấy giờ đang là Thứ trưởng Bộ Văn hóa
mà cả ba được gửi vào nhà xác
BV Hữu nghị Việt Xô. Đêm đó,
NSND Dương Ngọc Đức Tổng thư ký Hội giao cho tôi việc khởi thảo Điếu
văn. Một công việc không dễ dàng. Tai nạn khủng khiếp và đột ngột là một
lẽ. Quan trọng hơn là khoảng cách quá lớn của một tiểu sử cá nhân khiêm
tốn và không mấy suôn sẻ của một anh Cán sự 3, với những thành công vang
dội ở quy mô cả nước, và đang ở đỉnh cao trong làng Sân khấu. Điếu văn
NSND – Tổng thư ký Dương Ngọc Đức đọc trong lễ tang ngày 31-8-1988 có
đoạn :
“Tám năm qua ( 1980-1988) Lưu
Quang Vũ đã làm nên một việc phi thường
đối với người sáng tác, càng đặc biệt hơn trong giới viết kịch
nước ta.Cùng với mấy tập truyện và tập thơ, anh viết được 50 vở kịch,
trong đó có 39 vở được nhiều đoàn từ Bắc chí Nam cùng đưa lên sân khấu
qua các kịch chủng khác nhau. Trên bản dồ địa lý đất nước,hiếm có một
tỉnh nào có các đơn vị nghệ thuật nào mà chưa từng dàn dựng một vài vở
của Lưu Quang Vũ. Thế mạnh của một người làm thơ, viết văn, làm báo
nhanh nhạy đã được anh huy động khi sáng tác kịch bản. Biết bao đoàn đã
được cứu sống nhờ dàn dựng những tiết
mục ăn khách của Vũ. Có thể nói. Lưu Quang Vũ đã tạo dựng được cả một
nền sân khấu mới mẻ, có sức hấp dẫn bằng hàng loạt vở đầy hơi thở
hiện đại.Nhắc đến sự khởi sắc
của sân khấu mấy năm qua, bộ môn nghệ thuật đi đầu trong
khuynh hướng đấu tranh cho quá
trình dân chủ hóa xã hội, chúng ta sẽ nhớ đếnTôi
và chúng ta,Khoảnh khắc và vô
tận,Nguồn sáng trong đời,Người tốt nhà số 5,Người trong cõi nhớ,Chuyện
bên dòng sông Thu,Đôi dòng sửa mẹ,Hoa cúc xanh trên đầm lầy,và gần
đây là Hồn Trương Ba- Da Hàng
thịt, Ông không phải bố tôi, Bệnh sĩ…Hiếm có một tác giả đương đại
nào có ảnh hưởng sâu rộng đến sân khấu cả nước như Lưu Quang Vũ. Sự
phong phú của đề tài, sự giàu có màu sắc của nhân vật và tư tưởng chủ
đề, đã làm cho Lưu Quang Vũ thành một tác giả nhận được nhiều
đơn đặt hàng nhất…. Những
người viết lịch sử sân khấu mai sau , khi nhắc đến hoạt động sân khấu
thập kỷ 80 này, nhất định sẽ phải xếp LQV vào loại tác giả có vị trí
quan trọng nhất, cả về số lượng và chất lượng. Chúng tôi hình dung LQV
như một người lao động lực lưỡng gồng trên đôi vai rộng khỏe của mình
chương trình, tiết mục hàng bốn năm mươi đoàn, nghĩa là xấp xỉ 1/3 số
đơn vị sân khấu trong cả nước. Kịch, cái phần tinh anh nhất
trong sáng tác của Lưu Quang Vũ chắc chắn còn có sức sống lâu
bền. “
Những ngày LQV vừa mất, các thành
phố lớn cả nước tràn ngập panô giới thiệu các vở diễn của LQV. Từ bấy
đến nay, cứ dịp 5 năm, lại có một đợt các đoàn dựng, diễn lại các tiết
mục của LQV. Mà quan trọng là, nhiều thời điểm, sân khấu hiu hắt khán
giả, thì tới dip đó, dù diễn ngày hay đêm, sân khấu cũng chen chúc người
xem.
Có một thực tế đáng buồn, là
trong lúc sân khấu thế giới , các vở diễn có sức sống lâu bền. Sân khấu
Broadway nhiều vở diễn hàng vài ba mươi năm. Khán giả muốn xem, có khi
phải đặt vé trước hàng năm hoặc lâu hơn, nghĩa là người ta coi mỗi vở
diễn là một cây cổ thụ, thì sân khấu VN lại coi vở diễn chỉ là một món
hàng rau tươi sống, chóng héo, mau ôi, tốn tiền của, công sức tập tành
,dàn dựng nhưng diễn không được bao nhiêu buổi , vì không có người xem.
Bao nhiêu tác giả và tác phẩm từng được giải thưởng, từng được tung hô
ầm ỉ, rồi mất hút tăm tích. Lãng phí công sức nghệ sĩ, tiền của dàn dựng
, chỉ là một nhẽ dễ thấy. Nhưng quan trọng hơn là chấp nhận tình trạng
ăn rỗi, ở thì ấy, chính những người hoạt động trong giới văn hóa đã đánh
mất đặc trưng quan trọng nhất của một sản phẩm văn hóa là sức sống lâu
bền. Họ đã sản xuất ra những sản phẩm giống một vở kịch, mà thiếu những
phẩm chất cơ bản giúp cho tác phẩm có sức sống. Đó là một lý do chính
khiến khán giả rời bỏ sân khấu.
Phải nhận là không phải kịch bản
nào của LQV cũng đều xuất sắc. Trong 50kịch bản đã hoàn thành, có thể
thấy tác giả đã khai thác các loại đề tài khác nhau:
-Đề tài lịch sử:
Sống mãi tuổi 17, Ngọc Hân Công
chúa,Hẹn ngày trở lại, Chết cho điều chưa có,
-Viết lại chuyện cổ :
Nàng Si Ta, Ông vua hóa hỗ, Hồn
Trương Ba- da Hàng Thịt, Lời nói dối cuối cùng, Đam San,Đôi đũa kim
giao,Linh hồn của đá.
-Một số chuyện có thật trong đời
sống: Lời thề thứ 9, Nguồn sáng
trong đời, Trái tim trong trắng, Tôi
và chúng ta, Nữ ký giả, T15 về đâu.
-Chuyển thể từ các tác phẩm văn
học: Đôi dòng sửa mẹ, Hẹn ngày
trở lại,Chết cho điều chưa có, Muối mặn của đời em
-Nhiều kịch bản là sáng tạo độc
đáo của tác giả: Nếu anh không
đốt lửa, Hoa cúc xanh trên đầm lầy, Mùa hạ cuối cùng, Điều không thể
mất,Người tốt nhà số 5, Tin ở hoa hồng, Cô gái đội mũ nồi xám, Người con
gái trở về,( Trời xanh trên mái phố), Dạ khúc tình yêu,Cây ngọc lan của
Huyền, Người trong cõi nhớ,
Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Bệnh sỹ….
Cũng chỉ là một cách chia tương
đối để dễ hình dung về quy mô sáng tác của tác giả. Bởi vì trong nội
dung các tác phẩm vẫn đan xen những mảng miếng, chi tiết, hoàn cảnh
không dễ rạch ròi. Thời gian đã giúp chúng ta vượt qua nỗi lo là trong
số lượng khá nhiều những vở kịch viết vội trong một thời gian ngắn,
nhiều vở sử dụng những chất liệu có tính thời sự,liệu còn bao nhiêu kịch
bản có thể còn có mặt trên sàn diễn mai sau ? Những cuộc Liên hoan gần
đây vẫn có khoảng mươi vở được dàn dựng lại, là một tín hiệu mừng. Nhưng
không chỉ có thế. Lắng sau những sự kiện có thể chỉ diễn ra ở một thời
điểm lịch sử nhất định ( Chiến tranh chống Mỹ, Chiến tranh biên giới,
quản lý thời bao cấp,mấy vụ án oan,chuyện con lai, nông thôn thời chưa
đổi mới,…),vẫn còn lại những triết lý nhân sinh sâu sắc,thời nay càng
suy ngẫm càng thấm thía.
Nguồn sáng trong đời,
dự Hội diễn năm 1985, của một đoàn kịch rất khiêm tốn, không nhan sắc,
không ngôi sao.là Đoàn kịch Hà Bắc. Đã thế Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi
không cho các diễn viên có bất cứ nét trang điểm nào, kể cả các diễn
viên nữ. Nhưng vở kịch đã gây sững sốt cho cả Hội diễn vì sức lôi cuốn
bởi những suy ngẫm về nhân sinh thế sự từ một chuyện thực ai cũng
biết : Một họa sĩ bị thương ,mù mắt trong những ngày cuối của cuộc chiến
tranh. Dẫu mù, anh vẫn vé, vẫn nặn tượng, và tác phẩm của người họa sĩ
thương binh hỏng mắt được mọi người khen ngợi, cảm phục. Nhờ bàn tay tài
hoa của một Bác sĩ, anh được mỗ để có thể nhìn thấy ánh sáng. Việc thay
giác mạc giờ đã quá phổ biến, nhưng dạo ấy ,đó là một bước tiến mới của
khoa học. Khác với nhiều vở kịch, kịch tính cơ bản được xây dựng dựa
trên cuộc đấu tranh giửa người tốt và người xấu,giữa ánh sáng và bóng
tối. Trong vở kịch này hoàn toàn không có nhân vật xấu hay tiêu cực. Vậy
mà vẫn có sức hấp dẫn khán giả. Kịch tính ở đây nằm ở chính nhân vật
được mỗ để mang lại ánh sáng.Lâu nay, sống và sáng tạo trong tình trạng
mù lòa, anh được săn sóc, ưu ái, và mọi tác phẩm được ngợi ca.”Nhưng nào
ai biết họ ca ngợi nghị lực sống, nghị lực và lòng say mê sáng tạo của
tác giả hay đánh giá tài năng được thể hiện trong những tác phẩm đó? Đối
với con người, mù lòa mà được ngợi ca, được sống trong ảo tưởng rằng
mình là người có tài năng, rằng mình có khả năng sáng tạo, có khi dễ
sống hơn là khi mắt sáng mà nhận ra mình bất tài: để làm nghệ thuật thực
sự thì mình còn thiếu quá nhiều, và mất đi cái vòng hào quang của lòng
khâm phục những chiến công
quá khứ mà lâu nay quen được vây bọc?” Để được nhìn thẳng vào sự thật,
nói rõ sự thật ai cũng phải trả một cái giá không hề rẻ. Nhưng không thể
vì thế mà chọn cách sống an phận trong mù lòa. Lời cảnh tỉnh vào buổi
đầu thời kỳ đổi mới ấy, vẫn còn để chúng ta tiếp tục suy ngẫm.
Người tốt nhà số 5:
Một vở của Đoàn Chèo Hà Sơn Bình ,được HCV Hội diễn 1985.Một kịch bản có
cấu trúc sân khấu độc đáo. Nhà số 5 là một khu tập thể khá tiêu biểu của
một thời. Nơi đó, các cư dân sống biệt lập với nhau, như một quy ước:
Đèn nhà ai nhà ấy rạng. Và họ mặc sức xử sự với nhau như không có hàng
xóm bên cạnh. Một ngày kia, có một chàng trai mới xuất hiện. Anh ta
không biết , mà cũng có thể không chịu tuân theo cái luật im lặng, không
ghi thành văn bản đó. Anh ta đon đả với mọi người. Ai có việc gì cũng
lăn vào giúp đỡ. Đã thế cứ thấy việc bất bằng trong gia đình ai đó là
không chịu được. Khu tập thể đang yên ổn trong bãi tha ma của tình người
, vì thế cứ loạn cả lên. Nhân danh nhiều thứ, người ta tìm mọi cớ xua
đuổi anh ta đi. Và cái tập thể ấy đã thành công.Nhưng khi anh ta ra đi
rồi, họ mới thấy cái khoảng trống ngày càng lớn do anh để lại. Đúng là
sống với người quá tốt không dễ chịu chút nào.Nhưng cái ánh sáng và hơi
ấm người đó mang đi như đánh thức trong mọi người ở lại một ý thức mới
về nếp sống thiếu nhân tính mà họ vẫn tự hào.Chuyện kịch đơn giản. Ghép
lại trên sân khấu mấy gia đình trong một khu tập thể, hình ảnh quá quen
thuộc của một thời. Trong mỗi căn hộ khép kín, các gia đình sống theo
cách riêng của mình, và hình như họ tự tin và tự hào về lối sống đó.Lời
thoại không nhiều. Đến lúc này, tác giả cũng đã đủ tự tin để bớt bệnh
cho các nhân vật nói cạn lời
( Vì sợ cả người xem, người duyệt và cả người diễn hiểu lầm thiện ý của
mình ), trong một không gian đồng
hiện khá hạn chế, tác giả đã dệt nên một bức tranh cuộc sống vừa
đáng giận, vừa đáng thương. Giận là đến một người tốt như thế,mà cả tập
thể bày mưu tính kế, đồng lòng loại anh ta đi bằng được. Đáng thương là
khi ngỡ là họ đã thắng vì đuỗi được anh ta đi,thì chính cái tập thể ấy
mới nhận ra sự mất mát của mình: Anh ta không đủ xấu để sống hòa hợp với
họ. Và họ thì không đủ tốt để tiếp nhận sống chung với anh ta. Đó là một
vở kịch về đời thường mà dư âm không tầm thường.
Giai thoại lịch sử và truyện cổ
tích là mỏ quặng vô tận cho kịch xưa nay khai thác. NXB Sân khấu có in
100 kiệt tác của sân khấu thế giới, thì một tỉ lệ áp đảo trong số đó là
những vở thuộc hệ thống đề tài này.Rất nhiều tác giả thiên tài đã
đo mình và bộc lộ tầm vóc của mình khi viết lại các truyền thuyết này
thành kịch. Bởi trong những cốt truyện truyền qua nhiều đời, luôn chứa
giử một hàm lượng kinh nghiệm sống, triết lý nhân sinh, nếu biết cách
đọc, cách khai thác,sẽ luôn có ý nghĩa hiện đại, mà không cần tác giả
cấy ghép vào. Tôi muốn dừng lại ở 2 vở viết lại truyện cổ của tác giả,:
Hồn Trương Ba- Da Hàng Thịt, Ông
vua hóa hỗ.
Hồn Trương Ba- Da Hàng Thịt:Quá
trình xuất hiện không dễ dàng của vở kịch có tầm vóc quốc tế này, nằm ở
chính tính chính luận gay gắt và thẳng thắn của tác giả. Vốn chỉ là một
truyền thuyết dân gian, có thể khai thác thành hài kịch ,và sân khấu
truyền thống VN đã đôi lần khai thác. LQV viết vở này năm 1981-1982,
nghĩa là khá sớm. Nhưng không nơi nào nhận dựng.Phải đến1987, Đạo diễn
Nguyễn Đình Nghi mới dựng cho Nhà hát kịch VN. Vậy mà khi công diễn,
chính tờ báo chính thống nhất đã có bài phê phán gay gắt. Hội Nghệ sĩ SK
VN đã phải tổ chức cả một cuộc Hội thảo để bảo vệ quyền tồn tại của vở
diễn. Tuy vậy, cuộc tranh
luận vẫn tiếp tục cả khi vở diễn nhận được Huy chương vàng Hội diễn. Đây
cũng là vở kịch duy nhất được công diễn cả ở Liên Xô và Mỹ. Được đánh
giá cao trong Hội diễn sân khấu Quốc tế ở Maxcơva. Tài nghệ diễn xuất
đạt mức kinh điển của các
nghệ sĩ bậc thầy của Nhà hát Quốc gia vào giai đoạn sáng chói nhất của
họ là một bảo đảm cho thành công
đầy sức thuyết phục trên mọi sàn diễn cả trong nước và quốc tế.
Nhưng triết lý đời sống mà
tác giả đọc được từ câu chuyện hồn này xác kia, thể hiện qua lời thoại
và sự chuyển hóa tinh tế trong tính cách các nhân vật, mới thật sự làm
nên tầm vóc của một vở kịch, ngay từ thời gian đó, đã đạt đến mức Cổ
điển, Kinh điển.Nghĩa là nó
sẽ được ghi tên vào những vở kinh điển trong sân khấu truyền thống nước
nhà. Không chỉ 30 năm, mà chắc chắn trong tương lai, nhiều thế hệ nghệ
sĩ sẽ còn hăm hở đo mình trong các vai Trương Ba, Hàng Thịt, , hai bà vợ
rất cá tính của hai Ông, Vua cờ Đế Thích, Con trai Trương Ba….Tính chính
luận của vở kịch trãi dài trong quá trình Thiên đình sửa sai sự tắc
trách của nhân viên của mình bằng cách gán cho linh hồn bị chết oan,
nhập vào xác một người khác. Bi kịch diễn ra, khi hồn một người trí thức
thanh cảnh để tồn tại phải nhập vào xác một anh Hàng Thịt kềnh càng, thô
bạo, nhưng lại đầy năng lượng sống. Cuộc đấu tranh để cái hồn không bị
xác thịt quyến rũ diễn ra dai dẳng, và hồn không phải bao giờ cũng thắng
thế, Những người chung quanh, cũng kẻ vui người buồn vì sự trớ trêu đó.
Anh con trai Ông Trương Ba, thậm chí còn thấy gần gũi và vui mừng vì Ông
bố từ nay có một hình vóc mới. Bị tát thật đau sau phút bỡ ngỡ, một việc
bố xưa chưa hề làm,anh ta bỗng thấy mừng, vì từ nay anh sẽ có một người
đồng hành khỏe mạnh khi tham gia vào thương trường mà anh ta đang phất.
Chị vợ anh Hàng Thịt thật hạnh phúc vì anh chồng vũ phu của mình, giờ
bỗng trở nên nho nhã, hiền lành.Nhưng mặc tất cả những vui buồn tùy vị
thế, cuối cùng Ông Trương Ba cũng không thể tồn tại trong thân xác anh
Hàng Thịt. Những người phê phán vở kịch không phải không có lý. Nhưng
thực tiễn phát triễn của xã hội VN, mà không chỉ VN,đã là bằng chứng bảo
vệ cho tính chính luận của vở kịch: Sự thắng thế của nền kinh tế thị
trường mang đậm mầu sắc của chủ nghĩa tư bản đã không thể là cái xác –
cơ sở vật chất xã hội- cho những lý tưởng nhân văn cao siêu ẩn náu, tồn
tại. Sự xuống cấp về đạo đức, giáo dục, an ninh xã hội, và cả văn hóa,
nhắc chúng ta là LQV đã nhìn thấy khá sớm , một thực tế : Không thể sửa
cái sai này bằng một cái sai khác. Mọi sự chắp vá, gán ghép vội vàng đễ
tạo ra những thực thể dị dạng,sớm muộn sẽ dẫn tới sự đào thãi tất yếu
của yếu tố lai ghép không hợp quy luật tự nhiên.
Ông vua hóa hỗ:Là
một vở diễn dựa theo tích cũ về Nhà Sư Từ Đạo Hạnh, đương thời đã được 6
đoàn Chèo, Cải lương, Kịch Dân ca dàn dựng. Trong truyền thuyết dân
gian,gắn với sự tích nhà Phật, nhưng đầy thù hận và phép thuật để có thể
chiếm ngôi báu. Vốn là con một kẻ tội đồ ( Từ Vinh), đội lốt
sư mà dùng phép thuật biến hóa để
ngủ với thiếp đẹp nhà quan viên, bị giết chết, y báo mộng cho con
trai là Từ Đạo Hạnh phải trả thù. Do sức còn có hạn, Từ Đạo Hạnh cùng
hai người bạn là Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ sang Tây trúc học
các phép thuật biến hóa. Biết động cỏ đi học chỉ để trả thù, nên Phật Tổ
không chấp nhận Từ Đạo Hạnh. Thương tình, một vị Bồ Tát lại truyền cho.
Trở về, trong khi hai người bạn chuyên tâm tu hành, thì Từ Đạo Hạnh lân
la vào cung, vừa trừ được kẻ đã giết cha, lại tìm cách đầu thai vào nhà
em Vua, để rồi được chọn kế ngôi là Vua
Lý Thần Tông, khi nhà Vua không có con trai. Nhưng chẳng bao lâu,
người của Vua mọc lông như một loài ác thú. Người duy nhất có thể giúp
nhà Vua thoat lốt hỗ là nhà sư chân chính Nguyễn Minh Không.
Đây là một câu chuyện cổ, gắn với
nhiều địa danh xung quanh Hà Nội: Chùa Láng, sông Cót,
sông Lô, núi Tản,Thạch Thất ,Chùa Phật Tích. Triết lý nhà Phật
nhắc nhỡ : Lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi nghiệp báo. Nhưng có lẽ
không chỉ có thế.
Sau mấy cuộc chiến tranh đất nước
vừa trãi qua, là một người từng tham gia trực tiếp, và sống nhiều năm
chịu đựng những di họa của chiến tranh, dù là bên thắng cuộc, tác giả
cũng thấm thía một thực tế: Để có thể tham gia chiến đấu và giành chiến
thắng, lòng hận thù phải được phát động và biến thành muôn vàn mưu kế để
đánh bại kẻ thù , để tiêu diệt được nhiều nhất
sinh lực địch.Lý lẽ của chiến tranh là phải tiêu diệt kẻ thù
trước khi nó có thể diệt mình. Nhưng một khi chiến tranh đã đi qua,dù
bên nào thắng, để có thể chung tay xây dựng một đất nước, thì không phải
bên thua cuộc, mà ngay cả bên thắng cuộc cũng phải tự thay đổi. Nhưng
đây là một quá trình không dễ dàng, ngay cả khi có ý thức. Cái lốt hỗ mà
Từ Đạo Hạnh mang khi đã lên làm Vua,
nhắc nhỡ người chiến thắng , khi cầm quyền , để cầm quyền,anh đã
dùng rất nhiều thủ đoạn , phép thuật quái dị, nếu không biết tự gột rửa,
hoàn lương, thì sớm muộn chân dung thật của anh cũng hiện ra. Nhân đây,
tôi muốn nói thêm suy nghĩ của mình về cái kết của truyện
Tấm –Cám.Đã nhiều ý kiến phê
phán và muốn thay đổi cái kết quá tàn ác khi Tấm đem xác Cám làm mắm gửi
cho mẹ Cám ăn. Nhưng hình như trong cái kết kinh hoàng này, người xưa
gửi cho chúng ta một thông điệp khác, nhằm
Cảnh tỉnh
người chiến thắng.Thông thường, ai cũng mong chính nghĩa thắng
phi nghĩa, nhân nghĩa thắng bạo tàn. Nhưng một khi đã chiến thắng, thì
rất nhiều hành động đương nhiên trong quá trình chiến đấu không thể tiếp
tục: bắn, giết, tiêu diệt đối phương.Chính nghĩa của bên chiến thắng
phải được tiếp tục xác định trong quá trình tổ chức lại đất nước sau
chiến tranh, sao cho không chỉ người bên thắng cuộc có cuộc sống tốt
đẹp, mà cả những người bên thua cùng thân nhân của họ cũng có cuộc sống
dễ chịu, cùng chung tay xây dựng đất nước. Sau chiến thắng 1975, hàng
triệu người phải vượt biên, hàng mấy chục vạn sỉ quan và viên chức VN
Cộng hòa đi cải tạo lâu dài, khá nhiều người không có ngày về, sự nghi
kỵ thường trực với thân nhân những người từng cộng tác với chế độ cũ,
đưa đi kinh tế mới để cải tạo…Nhiều biện pháp trong đó là cần thiết,
nhưng có ai đọc thấy tâm trạng hả dạ khi kẻ thù đã quy hàng mà Tấm đã
làm với mẹ con Cám hay không?
Hình như không phải ai cũng ý
thức nghiêm túc về điều đó, nên đã gần nửa thế kỷ đất nước thống nhất
trong độc lập, mà người Việt Nam vẫn không thể hòa hợp và hòa giải được
với nhau. Kha khá những người xuất sắc trong chiến tranh khi cầm quyên
trong hòa bình lại bộc lộ nhiều thiếu khuyết, thậm chí bị tù tội, chỉ vì
không ý thức về quá trình thanh tẫy những vi lượng được tích tụ từ hận
thù truyền kiếp, để chấp nhận và xử lý mọi vấn đề trong cuộc sống dựa
trên những nguyên tắc khác; Cùng tồn tại trong hòa bình. Xóa bỏ hận thù,
gác lại quá khứ, cùng nhìn về tương lai. Nói lý thuyết thì dễ. Nhưng
thực thi những điều đó trong cuộc sống không hề dễ dàng.Thực tiễn đất
nước hiện nay, có phần do chúng ta không kịp nhận ra lời nhắn gửi từ
lịch sử luôn có chiến tranh và thay đổi các triều đại mấy ngàn năm
qua.Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu, vì sao người chỉ huy ba lần đánh
thắng quân Nguyên,là Vua Trần Nhân Tông, đã quyết đi tu khi còn trẻ, và
lập nên Thiền phái Trúc Lâm tại Yên Tử mà ngày nay đang trở thành một
Trung tâm Phật giáo lớn của nước ta.
Chính những minh triết chìm được
cấy sâu trong nhiều kịch bản về những đề tài khác nhau đó đã góp phần
làm cho tác phẩm của Lưu Quang Vũ có sức sống bền lâu. Và mỗi lần đọc
lại, xem lại, chúng ta lại phát hiện ra những vỉa quặng tinh thần mà tác
giả gửi gắm qua từng tác phẩm.
Không lâu trước khi mất, Lưu
Quang Vũ vẫn hoài nghi:
Như tia nắng, chúng mình không
còn mãi / Những câu thơ chắc gì ai đọc lại
. Hội thảo sau 30 năm tác giả qua đời đã
chúng khẩu
đồng từ
gửi tới Người trong cõi
nhớ một câu trả lời đầy
thuyết phục.
Nhưng tôi nghĩ, Hội thảo của chúng ta
không chỉ làm một việc mà tự tác phẩm và thực tiễn cuộc sống đã xác nhận
về giá trị các tác phẩm nhiều loại của LQV.
Phải nhìn nhận một thực tế là chưa bao
giờ văn học nghệ thuật nước nhà, nói rộng ra là văn hóa
rơi vào tình trạng đáng lo lắng như những năm tháng này. Hồ Chủ
tịch từng dặn : Văn hóa soi đường
cho quốc dân đi. Nhưng sự phát triển rầm rộ của nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa rộng khắp trên đất nước đã làm cho văn hóa mất
phương hướng và hoàn toàn không có chút giá trị dẫn đường nào. Cùng với
sự đầu tư ồ ạt của các tập đoàn kinh tế 100% quản lý theo chủ nghĩa tư
bản, sự xâm lăng về văn hóa, trong đó có tất vả các loại hình văn học
nghệ thuật đã làm méo mó định hướng
xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc . Dân số VN hiện nay đã trên 96 triệu người.
Người Việt định cư ở nước ngoài gần 5 triệu, rãi ra rất nhiều quốc gia.
Đó là một lợi thế rất lớn cho những người hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Nhưng những người làm văn hóa, và đặc biệt làm văn học nghệ thuật VN đã
làm gì để 100 triệu người ấy quan tâm đến mình?Họ đang sống, làm việc,
suy nghĩ, mong ước gì, các văn nghệ sĩ, đặc biệt các nhà văn có quan tâm
không? Chắc chắn câu trả lời là không dễ. Bằng chứng là từ khá lâu, các
nhà thơ, chiếm hơn quá nữa số Hội Viên Hội Nhà văn VN, và hàng vạn Hội
Viên Hội Thơ toàn quốc yên phận in 500 bản, chủ yếu để làm quà tặng. Văn
xuôi và tiểu thuyết in lần đầu tuyệt đại đa số là 1.000 bản, mà không dễ
tiêu thụ hết. Mỗi bộ phim điện ảnh, trung bình chi 20 tỉ, mà không mấy
phim có được vài trăm nghìn
người xem để thu hồi vồn, dù cả nước có gần trăm cụm rạp.Phim truyện
truyền hình, thì những phim ăn khách thường là mua fomat nước ngoài về
Việt hóa. Cũng có một số không nhiều nhà văn , nhà thơ có số lượng in
lớn, thậm chí đến 100.000 bản và hơn, Nhưng quả thật không nhiều. Nguy
cơ một loại hình chủ lực của văn nghệ, vốn có tác động xã hội to lớn,
đang biến thành cá vàng, cây
cảnh của một nhóm nhỏ người chơi. Mặc cho những lý thuyết hiện đại, hậu
hiện đại được du nhập để tìm ra những sáng tạo của các tác giả. Nhưng lý
thuyết về tiệp nhận có ích gì khi cả trăm triệu người Việt, chỉ có vài
nghìn người tiếp xúc với tác phẩm?
Hy vọng , trí tuệ, tâm huyết của các
Nhà khoa học về VHNT nước nhà, qua nghiên cứu trường hợp một tác giả có
tác phẩm nhiều thể loại được công chúng rộng rãi yêu mến và đón nhận, sẽ
đề xuất được những ý kiến,
biện pháp hửu hiệu đánh thức ý thức xã hội của các văn nghệ sĩ,đồng thời
báo động với những người có trách nhiệm về việc xây dựng một nền văn hóa
xứng với một đất nước có trăm triệu dân, có nền văn hiến lâu đời với
khát vọng Độc Lập, Tự Do.
HN –SG
tháng 6-2018
NGÔ THẢO
|