Sài Gòn –
Phố Của Sông & Sông
Của Phố
Tùy bút
Nguyễn Thị Hậu
Một trong những đặc trưng của Sài Gòn là “đô thị sông nước”. Vùng đất
này là nơi gặp gỡ của hai dòng sông lớn Đồng Nai và Sài Gòn để cùng đi
ra biển; nơi có những kinh rạch mà mức độ lưu thông có thể sánh ngang
những con đường giao thông quan trọng nhất như Rạch Bến Nghé, kinh Tàu
Hũ, kinh Tẻ kinh Đôi... có những con rạch quanh co xuyên qua thành phố
như Nhiêu Lộc, Thị Nghè; có khu vực chằng chịt kinh rạch lớn nhỏ như
vùng Chợ Lớn, có con rạch mang tên cả một làng nghề sầm uất và nổi tiếng
là rạch Lò Gốm, có cả kinh đào thẳng tắp một thời quan trọng như Kênh
Ruột Ngựa. Và Sài Gòn còn là nơi cửa sông gặp biển ở Cần Giờ...
Nhiều con đường ở đô thị Sài Gòn, Chợ Lớn bắt đầu từ sông Sài Gòn – rạch
Bến Nghé, nổi tiếng như đường
Đông Khởi hay đường Nguyễn Huệ (từ việc lấp Kinh Chợ Vải nên xưa còn gọi
là đường Kinh Lấp)... Nhưng hình thành trước đó là đường ven sông đồng
thời là hệ thống bến, bãi của một thời “trên bến dưới thuyền”. Rồi Sài
Gòn phát triển đô thị kiểu phương Tây với nhiều đường “dọc” bắt đầu từ
sông đan xen với đường “ngang” tạo thành những “ô vuông bàn cờ”,
“phố ven sông” được coi là “mặt tiền” của đô thị này.
Trên mỗi chuyến bay về Sài Gòn, khi tiếp viên hàng không nhắc nhở “cài
dây an toàn, mở tấm che cửa sổ” là tôi biết đã gần đến nhà... Lần nào
cũng vậy, dù ngày hay đêm tôi cũng nhìn qua cửa sổ xuống dưới kia. Thành
phố của tôi hiện ra đầu tiên là những dòng sông. Sông rạch ở Sài Gòn
không đậm màu phù sa như sông nước miền Tây, cũng không trong xanh như
vùng nước lợ nhiễm phèn ven biển...
mà
có thể nhận diện sông rạch Sài Gòn bằng những vệt nhà cửa hai bên bờ.
Ban đêm ánh đèn như đường dài ở hai bên một đường đen thẫm...
Có lẽ không ở đâu mật độ nhà ven sông dày đặc như ở Sài Gòn. Dày
đến nỗi nhiều con đường không thể đi song song bên bờ sông mà phải len
lỏi vòng vo giữa những khu nhà, muốn ra đến bờ sông phải theo những con
hẻm ngoằn nghèo càng đi càng mất hút... mãi mới nhìn thấy sông.
Trước kia phố
ven kênh rạch hình như không bao giờ thấy bình minh, ban ngày ánh sáng
chỉ nhờ nhờ. Còn đến chiều, bóng tối, không thèm đợi hoàng hôn, sụp
xuống rất nhanh. Phố lúc ấy hầu hết là những xóm nhà cấp 4, nhà sàn lội
ra giữa kinh rạch... Sông khi ấy hầu hết là kinh đen, nước đặc quánh mùi
hôi lưu cữu hàng chục năm... Trên kinh rạch Sài Gòn từ lâu đã ít ghe tàu
thông thương, chỉ vài đoạn có cảnh “trên bến dưới thuyền” vào những ngày
giáp Tết.
Nhưng khoảng mươi năm gần đây cảnh quan này đã có nhiều thay đổi.
Bắt đầu từ việc mở đại lộ Võ Văn Kiệt từ quận Một đến Nhà Bè, Bình
Chánh. Rồi rạch Bến Nghé, Kinh Tẻ Kinh Đôi vào Chợ
Lớn, đến lưu vực Nhiêu Lộc,
Thị Nghè, Lò Gốm... được nạo vét, kè bờ gọn gàng thì “xóm nhà mái tôn
vách ván”
trên sông rạch đã lần lượt “biến mất”. Con đường mới thành hình hai bên
bờ làm “lộ diện” những ngôi nhà nhếch nhác,
xấu xí.
Nhưng như một phép màu, chúng được sửa sang hay xây mới rất nhanh. Những
con hẻm ngoằn nghèo cũng mở rộng hơn, tráng xi-măng sạch sẽ... “phố
ven sông” trở thành phố thị với những ngôi nhà mặt tiền
đẹp đẽ, hàng quán
khang trang.
Và sông, nước đã trong hơn, hầu như không còn nặng mùi dù trong ngày
nước ròng nắng gắt. Người ta đã thả cá xuống kinh rạch, đã dự kiến có
“tàu du lịch” xuôi ngược. Hai bên bờ bây giờ là thảm cỏ vườn hoa, đường
đi bộ và hàng cây xanh... Phố của sông, sông của phố bên nhau như một
đôi bạn thân.
***
Sài Gòn từ khi hình thành đô thị
thì
“sông của phố” là đường giao thông trong “nội đô” và ra ngoại tỉnh. Từ
đường thủy, tính chất giao thương của Sài Gòn đã phát triển. Không phải
tự nhiên mà cùng với việc xây Thành Gia Định, chúa Nguyễn Ánh đã dựng
Xưởng thủy nơi rạch Thị Nghè gặp sông Sài Gòn, sau này là công xưởng Ba
Son nổi tiếng. Từ Xưởng Thủy nghề đóng tàu của người Việt Nam đã trở
thành một ngành công nghiệp, nhất là từ cuối thế kỷ 19 khi kỹ thuật đóng
và sửa chữa tàu của phương Tây được ứng dụng tại đây.
Nơi ngã ba sông Sài Gòn tách một dòng là rạch Bến Nghé đi vô Chợ Lớn có
cột cờ Thủ Ngữ làm tín hiệu cho tàu ra vào cảng, có bến Nhà Rồng trước
là trụ sở của một công ty tàu biển... Dọc rạch Bến Nghé tiếp đến kinh
Tàu Hũ, rồi Kinh Tẻ, kinh Đôi hồi đó đất đai rộng rãi, cặp sát bờ sông
phía quận Tư, quận Tám còn là vùng đất khá trũng và hoang sơ.
Từ đó
dần
mọc lên hệ thống bến bãi, nhà máy xay sát lúa gạo, nhà máy sản xuất
rượu, nước ngọt, thuốc lá, xà bông... Có thể nói sự kết hợp giữa “phố và
sông” ở Sài Gòn
từ cuối
thế kỷ
19
làm nên những khu công nghiệp và cảng thị. Tại đây tiếp nhận nông sản từ
miền Tây lên, xuất cảng lúa gạo hàng hóa ra nước ngoài. Tại đây có một
số chợ đầu mối mua bán hàng hóa sỉ, lẻ cho cả Sài Gòn, Chợ Lớn, xuống
miền Tây, ra miền Đông, miền Trung...
Ven sông về phía quận Một, quận Năm, quận Sáu là phố thị. Có nhà máy đèn
Chợ Quán và những dãy nhà một trệt một lầu san sát mặt tiền buôn bán sầm
uất. Xưa “trên bến dưới thuyền” chủ yếu phía bên này (bên kia nhà máy
thì tàu lớn, xà lan), từ rằm tháng Chạp đến ngày 30 Tết ghe
chở
cây
kiểng
bông
chưng,
dưa hấu, trái cây các loại, cả ghe
chở
than đước ông lò đất, ghe chiếu “Cà Mau” về đậu kín bến sông, ván bắc
liền ghe nọ qua ghe kia, trên bờ hình thành chợ Tết.
Sông ở giữa chia đôi hai nửa thành phố, nhưng bên này bên kia liên kết
với nhau bởi cùng tính chất kinh tế thương mại, có lẽ tính chất này bắt
đầu từ ngôi chợ đầu tiên của thành Gia Định nằm ở bến sông Sài Gòn (khu
vực chợ Cũ ngày nay): chợ Bến Thành.
Sài Gòn được hình thành từ những dòng sông của phố và phát triển nhờ
những đường phố của sông. Bản sắc Sài Gòn cũng là ở đó.
Sông rạch và hệ thống cảng thị là yếu tố Địa – Kinh tế giúp Sài Gòn phát
triển nhanh chóng,
một thời
từng là trung tâm của khu vực Đông Nam Á.
***
Giờ đây, khi thành phố mở rộng nhiều hơn trước, sông Sài Gòn vẫn chia
thành phố làm hai nửa:
bên
quận
Một,
quận
Ba,
quận
Năm…
là trung tâm
đô thị
cũ
nơi chứa đựng nhiều di tích
lịch
sử
của 320 năm Sài Gòn kể từ năm 1698. Bên kia là
quận Bảy,
quận
Hai,
quận
Chín,
quận Thủ Đức,
là vùng “đô thị hóa” nhanh chóng, hiện đại như Phú Mỹ Hưng,
bán đảo Kim Cương…
Xa
hơn là đô thị biển Cần Giờ đang thay đổi từng ngày… Một khúc uốn quanh
của sông Sài Gòn ôm trọn “bán đảo” Thủ Thiêm, nơi mà theo quy hoạch sẽ
là
một
thành
phố mới. Chỉ mong Thủ Thiêm nhanh chóng vượt qua những tháng ngày nóng
bỏng đau đớn để thực hiện được giấc mơ tương lai mà bao làng xóm lâu đời
bao con người cần lao đã phải đánh đổi số phận vì nó.
Khu
vực cảng lâu đời như Ba Son, Tân Cảng, Khánh Hội
ven sông Sài Gòn…
đã di dời vì không còn phù hợp trong một thành phố ngày càng mở rộng.
Nhưng thay vì ven sông là công viên, cây xanh, bến du thuyền hay đơn
giản chỉ là thảm cỏ
vườn hoa quán cà phê…
để người dân có thể thoải mái đến đây nghỉ ngơi và ngắm nhìn dòng sông
con kinh ngày hai lần nước lớn nước ròng,
để hít thở ngọn gió trong lành
mang theo hơi biển, để những dòng sông vẫn gắn bó với đường phố như trăm
năm nay… Thì ở đó
các
dự án
nhà cao tầng cứ mọc lên dày đặc, che bờ sông, chắn gió biển, chặn tầm
nhìn xa của thành phố. Cứ như thế liệu có lúc nào đó những khối bê tông
kính thép sừng sững hai bên bờ sẽ biến sông Sài Gòn thành một dòng kênh
cô đơn, không còn phố không còn đường làm bè bạn?
Là một thành phố gần biển và đang phát triển ra phía biển, sông Sài Gòn,
rạch Bến Nghé… cần được coi là “mặt tiền của thành phố”. Mặt tiền khang
trang, đẹp đẽ, hiện đại, tốt thôi. Nhưng mặt tiền còn là để nhận dạng
ngôi nhà, nhận diện chủ nhân… Đừng để “bản sắc Sài Gòn” biến thành hàng
rào bê tông cứng đờ, vô hồn, xa lạ với dòng sông mềm mại và luôn tràn
đầy gió biển, xa lạ với những con phố
thân thiện
luôn tràn đầy sức sống.
Sài Gòn 20.11.2018
|