KHÔNG BIẾT UỐNG - MÀ “HẦU RƯỢU” NGUYỄN QUANG SÁNG
Nguyễn Thị Ngọc Hải
Tôi tìm nhà Nguyễn
Quang Sáng mới dọn sang Quận 7 để hóng chuyện ông đang viết kịch bản cho
phim nhiều tập về Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Vốn mê đọc ông Sáng viết về Nam bộ.
Đang lơ ngơ dòm số nhà thì
Lưu Trọng Văn đi qua bảo: “Sắp tới rồi đấy. Chắc đang lượn xe đạp. Bên
này đường rộng, ông ấy thể dục”.
Nhưng may khi tìm vào nhà, Nguyễn Quang Sáng đã chờ sẵn ở cái bàn tiếp
khách kê ngoài hàng hiên nối với sân
nhỏ gần cổng. Một tay cắp chai rượu với cái chén (“đồ nghề “ của ông?)
tay kia chiếc ấm trà nhỏ:
Tôi chán cô, không biết uống. Thì ấm trà đây.
(Bạn ông, toàn cỡ rượu và tài như Trịnh Công Sơn, Nguyễn Tuân, Thu Bồn…
ông viết đâu đó: “Cái nhóm chúng tôi như một chùm lá trên cành, mấy năm
gần đây lác đác từng chiếc rơi….Tôi đi trên đường phố, vắng những người
bạn. Đường Saigon xe cuồn cuộn, mà tôi thấy thưa vắng quá”…. Nay rút
sang tận Quận 7 vắng vẻ, xa bạn, chắc buồn lắm?)
Thấy
tôi lăm lăm bút sổ, ông Sáng cười :”Đặt tên cho cô “nhà văn Kim Chỉ”
được không? Anh có đọc cuốn cô viết ông Hoàng Đạo. Ông ấy khoe.”
- Ý anh nói em viết toàn ký sự nhân vật, chăm chỉ ghi chép thôi, không
có tài chứ gì? Người không uống rượu, chắc là nhạt lắm, viết lách gì…
- Bậy. Uống nước đi.
Phải tranh thủ. Vậy là, tôi trà để “hầu rượu” ông, vào câu chuyện. Nhưng
dàn câu hỏi chuẩn bị của tôi (lý thuyết phỏng vấn dạy thế) bị vứt toẹt
khi ông bảo, đang viết tiểu thuyết về …gái miền Tây.
… “Nhà ở đây xa, có nhiều thời gian cho công việc. Bên này được cái nó
yên. Lưu Trọng Văn cách mấy trăm thước quẹo qua quẹo lại. Sáng, chiều
tôi chạy xe đạp. Xe mắc tiền nhất của Nhật 3 triệu rưỡi. Chạy nhẹ nhàng.
Bữa nào đi đâu sớm thì nghỉ chạy.
Bối cảnh chính miền Tây vì viết gái miền Tây. Kể chuyện tôi ra Quảng
Ngãi xứ cũng đâu có gì. Một anh bạn hỏi, biết trồng cây gì tiền nhiều
không? Trồng…cây điện. Dung Quất chưa có gì. Mở đường, có điện. Hỏi thêm
câu nữa mới hay - có cột điện cho “người ta” đứng đường. Nhiều gái miền
Tây. Giàu để nuôi gái. Quảng Ngãi Tết nộp tới 1-2 tỷ nuôi gái Cần Thơ.
Mỗi đứa mang về Tết cả chục triệu. Tụi tui đóng thuế đó. Nghe thật xấu
hổ.
Lý do gì? Trần Mỹ Hà đi quay phim “Đờn Kìm” về nói: Con gái bỏ xứ đi. Nó
xếp hàng xuống tàu như “binh đoàn” vậy. Xưa miền Tây ruộng đất đủ ăn,
không ai giàu lắm, không ai đói. Quan trọng nhất là ít học. Trường ít,
giao thông xa vời. Không có trường nghề… Lui cui đi cấy gặt làm cỏ mướn
chèo ghe bán khóm ổi, nghề bình thường gái miền Tây. Rồi sau nhu cầu con
gái, xà bông tắm nước hoa son sơn móng tay ngày xưa làm gì có. Xuất hiện
chiếc ghe bành ky như siêu thị lưu động về đậu bến sông. Con gái nhìn
thèm. Muốn có phải đi Saigon.
Nhưng có nhiều cô gái miền Tây đi lên bằng con đường của mình. Tôi viết
truyện cô gái đi dọn dẹp nhà thuê, rồi nhiều mối, thành công ty nhỏ dọn
nhà thuê. Làm ăn thành công. Nhiều con đường làm ăn, về quê xây nhà cho
má…
Sở dĩ tôi đi nhiều, đi được gần hết miền Tây còn gì? Đồng Tháp, Tân
Châu, Sa D9éc, Cao Lãnh, Mỹ Tho tất nhiên rồi. Long An đi qua. Đặc biệt
Đồng Tháp Mười, Cà Mau, Chắc Băng… Đi được vậy do có Công ty SIM xe
Attila tài trợ miền Tây 100 cây cầu, mời tôi làm khách. Chứ tiền đâu mà
đi. Có cái may, thời chống Pháp, U Minh, Đồng Tháp tôi ở đó cả rồi….”
Tôi hỏi, vậy “Cánh đồng hoang” còn giống xưa không? Đẹp không? Nó làm
cho cả thế giới nghẹn ngào…?
Nguyễn Quang Sáng như ngạc nhiên:
Đẹp hoang sơ vẫn vậy. Đồng Tháp Mười mênh mông nước đâu có gì? Cánh đồng
hoang tôi cũng mới về. Cánh đồng nước vẫn thế thôi… Nước có lên mênh
mông đó. Còn cây cỏ lác bưng đế, nay tàu chạy một hồi hết sạch.
Nhưng đổi mới, xây dựng đô thị vẫn không ảnh hưởng gì sao? Nhiều thứ
tiếc lắm chứ?
Ông Sáng:
“…Xây dựng đã bao nhiêu đâu mà tiếc? Đô thị hóa chưa được nhiều, chỉ có
lối sống đô thị đã tràn ngập thôi… Bi kịch chỗ đó. Trụ sở cơ quan rất to
đẹp. Sân bãi mênh mông. Đất nó nhiều quá. Thay đổi: Xưa kháng chiến 9
năm, không có xuồng máy. Đêm xuồng đi qua trai gái hò thật hay mênh mang
sông nước. Nay máy chạy không ai hò nữa. Xưa hoạt động, đi mũi Cà Mau
phải hai ngày xuồng. Con nước ròng là táp vô chờ nước lớn mới đi. Nay có
obo, tàu cao tốc chạy mấy tiếng, cũng ẹo ẹo lả lướt như Honda. Tiếc thì
cứ tiếc. Nhưng đời sống phải lên, hiện đại. Nhưng văn hóa quan trọng.
Kẹt cái đó. Đời sống văn hóa - giáo dục chưa lên. Mừng thấy trẻ đi học
nhiều. Nhưng mùa nước chết luôn Đồng Tháp Mười. Khó khăn đâm lười. Lớp 4
lớp 5 bỏ học. Làm cái gì?”
Nguyễn Quang Sáng kể, ông chèo xuồng giỏi lắm. Xưa chèo suốt đêm từ Cà
Mau xuống Chắc Băng, nay tàu chạy mấy tiếng đồng hồ. Hôm rồi làm phim,
ông chèo ào ào trên sông Hậu.
Về kịch bản phim nhiều tập về Thủ tướng Võ văn Kiệt, ông
cho biết:
“Tôi đã từng làm một phim về Võ Văn Kiệt. Cách nay lâu lắm rồi. Lê Văn
Duy đạo diễn. làm xong, cất. Chính ông Kiệt không cho chiếu. Ông bảo
người như Ông Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn hồi đó còn chưa có phim, ông bắt
cất.
Theo tôi, sách về Võ Văn Kiệt nhiều tập dày đã xuất bản, nhưng nhiều tập
hợp bài viết nhận định nghiên cứu có tính chính trị chứ chưa có sách về
con người cuộc đời cụ thể. Thật tiếc quá.”
Nguyễn Quang Sáng viết phim về Thủ tướng Võ Văn Kiệt theo những gì ông
nhớ. Vì đã từng tiếp xúc, uống rượu, nghe chuyện với Thủ tướng nhiều.
“Nhớ trong đầu thôi. Không ghi chép gì”.
..“Tôi chọn khoảnh khắc thời điểm ông Kiệt từ TW đi tàu không số về nhận
chức bí thư Quân khu 9, lúc Hiệp định Paris đình chiến. Ở miền Tây lúc
đó ông Thiệu xuống tuyên bố vẫn chiến tranh, không theo Hiệp định. Mà
mình có lệnh đình chiến. Mình đình, nó chiến, bị lấn chiếm. Ông Kiệt chủ
trương đánh lại. Người ta nói ông đi xiếc trên dây, bên dưới không có
bảo hiểm, té là té luôn. Vì làm sai lời TW. Tôi viết lại câu thoại trả
lời rất hay của ông: Tôi làm theo mệnh lệnh của đất và dân. Mà đất và
dân là thiêng liêng nhất. Nếu TW kỷ luật, tôi đứng ra chịu.
Rồi mấy anh em ở Khu ủy nói, nếu anh bị kỷ luật, chúng tôi sẽ chịu cùng
với anh. Ông đánh xong, mở ra cái mới, các nơi học theo, ào ào tấn công
đến năm 1975. Còn nhiều chi tiết hay lắm. Ông Kiệt xử mấy việc: Hồi anh
em lính miền Bắc vô cả sư đoàn, không còn tiền phát lương ăn. Ông lệnh,
phát lương cho lính miền Bắc, vì tin anh em miền Nam không có tiền cũng
không bao giờ chịu đói. Xưa
không ai ăn con cá thòi lòi đầy mương rạch, mặt xấu như mặt quỷ, bộ đội
người Nam bắt chặt đầu bỏ nấu canh chua, kho. Ông Kiệt ăn cơm, hỏi sao
cá không có đầu? Nhà bếp giải thích: Mặt nó xấu, chặt bỏ rồi anh Sáu,
nhưng bụng nó tốt… (Nay nó là đặc sản miền Tây rồi).
Tôi thích cách ông cư xử với văn nghệ sỹ. Hồi đó giải tán văn công vì
không còn tiền nuôi. Ông Kiệt hạ lệnh tập hợp anh em về. Lý do ông bảo:
“Một nhà chính trị diễn thuyết ai nghe. Mà văn công về, thiên hạ lội
nước ào ào đi xem.” Tôi “cắt lát” tính cách ra ông Kiệt. Một câu nói hay
nữa này. Khi ông Nguyễn Bá
Thanh hỏi “Bí quyết thành công của người lãnh đạo là gì?”
Ông Kiệt trả lời: Là không
sợ…mất ghế….”
Ông Sáng bảo, khó nhất là tìm ai đóng ông Kiệt. Nghệ sỹ nổi tiếng cũng
không thiếu. Nhưng mà làm sao “diễn ra” được ông Kiệt, chứ diễn thế nào
…“cứ thấy nó không à”.
***
Xong cuộc nói chuyện, tôi “hầu rượu” thế nào uống sạch ấm trà mà chai
rượu của ông Sáng vẫn còn. Quay ra nói chuyện sáng tác, tôi hỏi sao
thiên hạ “ganh tỵ” bảo “ông Sáng chơi không mà vẫn có sách ra”. Ông
cười:
“Tôi viết nhanh lắm. Cánh đồng hoang, ấp ủ nuôi chi tiết từ năm 1966 đến
năm 1978 vì biết mình làm chưa được, chỉ miền Nam mới có đồng nước. Dạo
còn ở miền Bắc, người ta có xuồng cô gái ngồi, phải móc kéo vào, giả quá
không làm được, để về Nam làm, không vội vàng. Nhưng khi viết, khi đưa
bà xã đi đẻ ở Từ Dũ về viết chỉ một tuần. “Chiếc lược ngà” năm 1966 mùa
nước, ván kê trên ghe viết trong buổi sáng.
Viết máy không hứng. Giấy trắng cái bút nó thật…
Viết là chép ra cái đã nghĩ. Tôi
vừa đi xe vừa nghĩ. Uống rượu cũng nghĩ. Viết trong đầu. Tôi ghét nhất
cái vụ cứ nói văn học không có tác phẩm tầm cỡ ngang thời đại. Biết thế
nào là tầm cỡ? Cuộc sống là sự chuyển biến quá nhanh. Mà viết, là hình
ảnh và cảm xúc đọng lại lòng anh lâu mới có được. Anh chạy không kịp,
không nhuần nhuyễn. Thứ hai nữa có cái khổ chưa gỡ ra được: Viết văn để
sống không nổi. Phải làm nhiều nghề khác để sống. Mà viết văn, không tập
trung là thua.”
Ông bảo còn nợ lớn, phải viết về hai lần đều đi bộ từ Nam ra Bắc trong
chiến tranh. Năm 1966 còn khỏe, đi vào Nam chiến đấu và năm 1971 bệnh đi
ra. Bệnh cũng đi bộ. Biết bao chuyện, mà viết khác mọi người mới được.
Khi tiễn tôi ra cổng, ông Sáng chắc thấy bộ dạng lôi thôi (tôi ngồi sau
lưng anh xe ôm đến đón) liền gọi giật lại :
Khoan hãy đi. Đưa máy ảnh đây anh bấm cho một kiểu cảnh cô “đi cày “.
Thật tiếc là chiếc máy ảnh cũ ấy đã mất tự hồi nào sau nhiều phen dọn
nhà, khi có smartphone là không ai cần nó nữa. Thế là mất luôn những tấm
hình quý tự tay ông Sáng chụp cho.. NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 29-1-18 |