Mấy cụm khói rời
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư
Sáng nào xóm hẻm cũng ướt. Nước triều từ ngoài sông tràn vào con lộ nhỏ, nước nhiểu tong tong trên những bộ quần áo phơi rợp dãy rào xiêu, nước giặt rửa từ trong nhà hắt ra đầy váng xà bông, rau cải úng. Nước mắt nước mũi trẻ con đòi tiền quà bánh, bên cạnh mấy bà mẹ im lìm ngồi hong mớ tóc vừa gội xong. Những làn da tối màu làm thành một khối im sẫm trong con hẻm thấp tối. Không biết biến động nào khiến người ta bứng nguyên cái xóm Khmer từ miệt Bảy Núi về trồng trong lòng thành phố, cùng với ngôi chùa. Dân quen gọi hẻm Khờ Me. Lần nào qua đó cũng nghĩ gần năm mươi năm rồi mà họ vẫn như rớt như rời. Không phải vì tóc xoăn và mắt to, viền mi đậm, làn da sẫm không lẫn vào sắc tộc khác, mà sự bơ vơ cứ hiện lên trong cả đời sống, ánh nhìn, cách ngồi. Dòng chảy đô thị chẳng làm cho họ thôi sống trễ nãi trong những căn nhà xập xệ, và chẳng ai biết họ nghĩ gì qua ánh mắt không đậu vào đâu. Điểm nhìn cuối chắc là rất xa, nơi có cánh đồng với những chòm cây thốt nốt, bầy bò ốm cùng với những bãi cỏ úa mùa khô. Là tôi hình dung vậy. Trong dáng đứng ngồi bất động, họ lang thang qua hội đua bò nơi đôi vợ chồng (khi hãy còn ở tuổi mười lăm, mười bảy) đã lẻn đi chơi lần đầu cùng nhau. Núi đá vôi thấp mà người đàn ông đã từng lần theo đường mòn gài bẫy thú. Buổi lễ cúng trăng giữa sân chùa trong tiếng nhạc ngũ âm. Những đứa trẻ trèo nhánh cây sầu đâu vừa gõ hơpâm vừa hát ngêu ngao. Ở miền ký ức, không khí lễ hội chưa cạn đến đáy lại đầy, mỗi năm có đến vài ba cái tết. Nhưng biết đâu họ không nghĩ gì hết, quá khứ thì xa xôi, tương lai cũng chẳng có gì để nghĩ về. Không đất trồng trọt chăn thả, buổi cà phê của đàn ông xóm hẻm thường dài, có khi cả ngày, nếu không có ai gọi đi phụ hồ, bốc vác vật liệu, chở nước đá. Ngày bên ly cà phê khét mùi bắp rang và chai rượu đế, cũng vì vậy mà rất dài. Nhà lụp xụp cất tràn ra lộ hẻm, tuyệt không có cây thốt nốt nào. Buổi sáng bóng chùa cố che phủ cái ngã ba, nơi mọi người tụ tập, chỉ được một vài giờ thì bóng hụt. Họ lại trơ trụi dưới mặt trời. Cái nghèo không có cỏ cây, rát mặt. Những bước chân trần khất thực của ba lục trẻ nhón trên mặt lộ chỗ khô chỗ ướt. Lục Cả nhìn theo, kêu lúc rày tụi nhỏ cũng ít chịu vô chùa tu tập. Đứa thì đi làm mướn, lượm ve chai, nhiều đứa mới mở mắt là lêu lổng chơi rong. Chùa đâm ra vắng, tết Chol Chnam Thmay kỳ rồi sân chùa không còn ai múa Lâm Thôn. Trên vách phòng lục treo cái ảnh chụp một tăng đoàn bưng y bát đi trên cánh đồng xanh rì, xa xa là rặng cây thốt nốt, và mặt trời đang lặn. Phong cảnh u tịch mà không thấy con người trong đó cô đơn như bóng áo vàng vừa đi ra khỏi dãy nhà lụp xụp, đoạn đường phía trước các lục toàn là cỗng với rào cao. Những cư dân mới tới không phải tín đồ Phật giáo tiểu thừa nên thờ ơ ngồi giũa móng tay khi y bát đi qua. Lục Cả than, dân Khmer xóm hẻm đã bán nhà quá nữa, giờ còn một nhúm sống co cụm gần chùa, như bầy người đi lạc. Hỏi những người bỏ xóm đi đâu, lục nói có nhà dọn vào hẻm sâu hơn, xa tới mức chùa không với tới, nhưng cũng có người về. Chữ “về” của lục làm nguội nắng. Về, dựng hàng rào xương cá bọc lấy căn nhà lá tạm bợ, nuôi mấy con bò, lấy nước thốt nốt nấu đường, chờ cơn lũ chìm đồng tháng tám để bắt cá giăng câu, và chờ những mưa biên giới triền miên làm xanh cỏ núi. Cảnh nghe có vẻ buồn, nhưng họ không trơ trụi như ở nơi chỉ cách Ủy ban thành phố non một trăm mét. Cái nghèo mà có ngọn rau trái ớt mọc bên hè, thì không đến nỗi tuyệt vọng. Những người ở lại vẫn ơ thờ chờ ngày qua. Cái dáng ngồi bất động của người đàn bà Khmer cũng giống hệt với người đàn bà Êđê, Bana bất động trước căn nhà lợp thiếc bên những nẻo đường Tây Nguyên mù bụi. Bị bóc đi khỏi núi rừng bởi một dự án thủy điện ất ơ nào đó, buôn làng bị dồn vào khu tái định cư, mà người làm chính sách cứ hí hửng khoe cuộc đổi chác ấy vậy đã công bằng rồi. Nhà cũ đổi nhà mới, đèn dầu đổi đèn điện, huề. Rốt cuộc thì làm gì còn bầu trời nào khác cho con chim đã bị lấy đi bầu trời ?
Dùng bản Tư gởi |