Trang Du Tử Lê
19-5-15
Nguyễn Ngọc Tư,
hiện tượng tiêu biểu của 40 năm văn xuôi Việt
Du Tử Lê
Có thể có người không đồng ý, nhưng
theo tôi, Nguyễn Ngọc Tư là hiện tượng tiểu biểu, nổi bật nhất của
sinh hoạt văn xuôi Việt, 40 năm qua, kể từ 1975 tới 2015 trong số
những người viết trẻ.
Nguyễn không cần phải mượn lớp màn
che, trướng phủ của lịch sử đã lùi xa hàng trăm năm. Nguyễn cũng
không cần lớp sơn son thếp vàng của dã sử, huyền sử, để chuyển thông
điệp tới người đọc. Thậm chí, Nguyễn cũng không cần phải khai thác
thân thể người nữ với những bản năng thú tính, để tự “P.R” với độc
giả!!!
“Cánh đồng bất tận”, của Nguyễn
Ngọc Tư, với tôi, là “bạch văn”. Nó không cần phải che đậy, mặc
khoác cho nó, bộ quần áo vàng mã, lòe loẹt. Nó cũng không là những
ẩn dụ phải cần đến sự giải mã của những nhà phê bình, hay chiêng
trống như những tùy tinh chung quanh nhà xuất bản hoặc, nhà phát
hành… Nó trực tiếp ghi nhận những hiện thực xã hội ngồn ngộn sần
sượng; cùng lúc với những thơ mộng nhiều thi tính của sông nước miền
Tây – đặc biệt, Đất Mũi, nơi Nguyễn sinh ra và lớn lên.
Ngay tự những dòng chữ đầu tiên, mở
vào “Cánh đồng bất tận”, chỉ với một đoạn văn ngắn, Nguyễn
Ngọc Tư đã cho thấy tài năng sớm chín muồi của một nhà văn, khi
viết:
“Con kinh nhỏ nằm vắt qua một
cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa
hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này.
Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn
nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn…”
Một đoạn văn ngắn thôi, mà đã có tới
hai nhân cách hóa… “dẫn đường” vào không khí truyệnkhô hạn, hung
hãn, gom hết lửa…và, những cây lúa chết non, cong như tàn
nhang chưa rụng…
Rồi những nhân vật đến cuối đời vẫn
không nhận được một nụ cười thân ái nào của định mệnh, lần lượt xuất
hiện. Đó người cha của nhân vật nữ chính, xưng “tôi”. Đứa em
trai bị ẩn ức tâm, sinh lý, cô gái làng chơi, quá “đát” dạt trôi về
vùng có con kinh nhỏ - - (Nạn nhân, đồng thời cũng là nguồn khát
khao rạo rực thầm kín (hay niềm vui) của đám đàn ông nông dân vùng
đất hạn. Đến độ họ “…quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên
đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt...”
Đó là những mảnh đời mâu thuẫn, âm u
được Nguyễn Ngọc Tư thể hiện song song với bản năng thú tính, hận
thù vô thức và, gốc bản thiện mơ hồ của con người.
Mô tả người đàn bà làm nghề không vốn,
bị đánh ghen, được những nhân vật chính trong “Cánh đồng bất
tận” mở lòng thương xót, Nguyễn Ngọc Tư viết:
“…Rồi ngọn lửa hoi hót thở
dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe.
Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những
tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và
chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã
bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím
ngắt.
“Và những chân tóc trên đầu
chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoáy chúng để
kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân
một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị
trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà
xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt
sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị
ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng
vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên
đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ
dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn
khích. Họ dùng dao phay chặt mái tóc dày kia, dục dặc, hì
hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa,
được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như
một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những
bao trấu cha vừa mới xếp…”
Những cực tả, như “cao trào” của “cuộc
vui” liên tiếp đẩy bi kịch tới đỉnh điểm cao nhất, với nhiều hình
ảnh không thể khốc liệt hơn: “...Họ dùng dao phay chặt mái tóc
dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô…”
Rồi:
“Đám người ngơ ngác mấy giây
để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo
hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô
ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống
thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra
mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi
rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp
chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ
khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói
khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè
những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó
cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất…”
Độ lạnh được ném về mức zero hoặc xa
dưới âm độ trong “Cánh đồng bất tận” không chỉ chừng đó. Dọc
theo không gian ba chiều của “Cánh đồng bất tận”, người đọc
còn phải chạm mặt với những bản năng, thú tính khác, của con
người!.!
Tôi vẫn có xu hướng theo dõi những mô
tả nhân vật, cảnh vật, tâm lý, với những so sánh, liên tưởng hay
nhân cách hóa của một cây bút nào đó; hầu từ đấy, tôi có được cảm
nhận riêng về tài năng hay tài hoa cây bút ấy.
Viết tiếp về người đàn bà “làm đĩ”
Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận:
“Nhưng chiều hôm đó và cả ngày
sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô
đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi,
dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau
hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…
“Tôi nói lại với cha và Điền
trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre
khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc
được sự ghê sợ, kinh tởm dồn lên trong mắt cha. Điền chan
nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc
mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua
giùm ngàn rưỡi đường cát.
“Chắc gió đã bạt mất lời tôi,
khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay
trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong
suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như
đá. Điền bảo, ‘Keo dán sắt…’ Dường như những người sản xuất
ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế.
Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn
tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ
khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…”
Như đã nói, ở đường bay văn chương của
Nguyễn Ngọc Tư, người đọc luôn gặp được nhiều hình ảnh đấy thi tính,
như cụm từ khép lại đoạn văn trên của Nguyễn: “Chúng tôi cùng ngó
về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…”
Và, nữa:
“…Chúng tôi đã gặp nhiều, rất
nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu
trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người
đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ
trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa
nước mắt. “Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút
chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà
đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại.
Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua đôi
người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào
trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân
mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người
phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ
tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn
ông.
“Chị, cũng giống như họ, chớm
tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái
quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm
nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những
món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay
những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi
chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu,
suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. ‘Đó là vốn vay
xóa đói giảm nghèo’, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn
lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu,
oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh
nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều…”
Tôi nghĩ, có thể vì những tương phản
cực tả hiện thực nhầy nhụa trong “Cánh đồng bất tận” của
Nguyễn Ngọc Tư đã khiến nhiều quan chức đất Mũi đặt vấn đề, đòi tác
giả phải “giải trình”? Họ không chấp nhận hiện thực xã hội, vì ở đất
Mũi, theo họ, không thể có cái cảnh “…hẳn người đàn ông ấy não nề
biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu
quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều…” - Ngay cả
khi đó là hư cấu hoặc dương bản phóng lớn của mảng tối xã hội, đời
thường.
Bi kịch trong “Cánh đồng bất tận”
của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ dừng ở đó. Hiện thực xã hội, đời thường
ở vùng đất Mũi, giai đoạn thay da, đổi thịt, từ một vùng hoang dã,
khô hạn, nóng rang gió lửa, để bắt kịp thời “đổi mới”, còn được tác
giả “nâng cấp” khi giữa truyện, Nguyễn hé lộ cho thấy sự vắng mặt
của người mẹ nhân vật nữ chính, được một trong những người đàn ông
hành nghề thương hồ khen là “người đàn bà có cái cười lấp lánh cả
khúc sông” – Một so sánh đẹp, mới mẻ, với tôi, không thể thơ
hơn… Dù mặt khác, đó cũng là nguyên nhân khiến người đàn bà kia, một
hôm, tất tả bỏ lại chồng, con ra đi, biệt dạng!.! Khi con bà, vô
tình cho biết họ đã mục kích cảnh mẹ họ “…trên chiếc giường tre
quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt
ruồi” của gã thương hồ; để trả tiền khúc lụa màu đỏ, mà người
đàn bà được tặng bởi gã thương hồ bán vải!
Về phương diện văn chương, đó là một
trong trang văn xuôi đẹp của Nguyễn Ngọc Tư - - Cái đẹp của những
giọt lệ chắt ra từ nữ tính khao khát tấm lụa phủ thân! Nó cũng có
thể được ví như những giọt máu oan nghiệt tươm ứa trên môi, trên
ngực, trên thân thể người đàn bà nhẹ dạ:
“…Tôi chưa bao giờ thấy cái
màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má
ngó chúng tôi, hỏi: ‘Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?’ Tôi
nói, ‘Má lạ quá hà, nhìn không ra’. Má mừng quýnh, ‘Thiệt
hả?’ Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao
lại mừng?
“Một bữa tôi chiêm bao, chẳng
đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ
lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới
khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt
trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ
lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái
lỗ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa
trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra,
không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó
đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó,
giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.
“Đứa mười tuổi quay lưng lại,
đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy
rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người
dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã.
Rên xiết.
“Đó là hình ảnh ấn tượng cuối
cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ
bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần
giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối
đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ
hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi
không bị dính sình bùn.
“Suốt nhiều năm sau đó, tôi
không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức
hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải
má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà,
đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy,
hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng
khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…
“Má có rất nhiều hình ảnh đẹp,
và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp,
nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền,
má thảng thốt hỏi: ‘Mèn ơi, mắt con sao vậy?’ Tôi trả lời,
day day chậm rãi, ‘Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má.
Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa’. Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn
như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích
vì sao tôi lại hể hả.
“Và tôi luôn nghĩ rằng chính
vì câu nói đó mà má tôi ra đi.
(…)
“Sáng sau, thím (Tư) đi chợ,
tới bến tàu, cho hay ‘Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai’. Ông chủ
chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng,
và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên
đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn
cười, giọng ra vẻ giận, ‘Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha
nội?’ Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình
hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ
được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống
đất, run rẩy…
“Quãng hành trình về nhà có vẻ
rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay
đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái
khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm,
chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi
‘Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?’
“Coi kỹ thì má không đem theo
gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người
đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ
rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.
“Cha đem tất cả đồ đạc của má
đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy
khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành
những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt
bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ…”
Đôi người có ý so sánh văn xuôi Nguyễn
Ngọc Tư với hai nhà văn tiền bối Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam.
Riêng tôi, tôi không thấy một gần gũi
nào giữa ba tác giả ở hai giai đoạn văn chương, khác nhau quá xa
này. Họ chỉ có một điểm đồng quy là sử dụng tối đa ngôn ngữ Nam Bộ.
Ngoài ra, nếu Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam gặp nhau ở bối cảnh Nam Bộ
thời khai hoang, đất phèn chưa lắng thì, Nguyễn Ngọc Tư lại giới
thiệu vùng quê Nam Bộ trong giai đoạn đầu của nỗ lực hiện đại hóa,
với tất cả những chông chênh, lệch pha của một thứ học đòi tư
bản…mới.
Lại nữa, là phụ nữ, nên cách xử dụng
động từ, tính từ… của Nguyễn Ngọc Tư, như những cái liếc mắt sắc lẻm
dao cau - - Một ưu thế khác của Nguyễn trong cuộc trường chinh chữ,
nghĩa. Thí dụ:
“Cho dù người đàn ông ấy có
quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng
với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê
tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành
trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm
muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng
tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa
hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa
một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau
đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng
vợ gả chồng cho con cái.
“Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau
Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng
xái bảo, ‘Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi ông ta
sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực
rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên
mình cô Hai lại thấy sang quá trời…’
(Với tôi, động từ “khứa” trong
ngữ cảnh “…thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi
xuân đi...” Là một chữ không thể “đắt” hơn mà, ngay với thi ca,
chúng ta cũng ít gặp).
Cũng vậy, ở đoạn văn ngắn sau đây,
những tính từ được Nguyễn chọn dùng, cũng đậm tính thi ca. (Một
thiếu vắng trầm trọng nơi văn xuôi của những cây bút trẻ, hôm nay):
“…Những bữa ăn nối tiếp nhau
trong im lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng mình
đang ngồi trên cánh đồng của chín năm trước. Một cánh đồng
miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, một nhúm
mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu trên cao. Đường chân
trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm trâm
bầu. Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu. Mùi rạ mới
quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ
dưới bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng lay
như những chiếc chuông câm…”
♦
Vượt trên mọi bi kịch đã được Nguyễn
Ngọc Tư đẩy thấu đáy vực kiếp người vô nghĩa, người đọc tinh ý, sẽ
nhận ra, những trang văn cuối, trước khi khép lại “Cánh đồng bất
tận” thì, tinh thần nhân bản, truyền thống hiếu sinh của người
Việt, đã tỏa sáng như một vầng hào quang, một chiếc cầu vồng ngũ
sắc, nối liền hai chân trời: Đọa lạc cầm thú và, tính bản thiện ngời
ngợi lẩn khuất đâu đó, nơi mỗi con người Việt Nam mà, Nguyễn Ngọc Tư
là một biểu tượng. Đó là đoạn tác giả mô tả nhân vật nữ chính tỉnh
lại, sau khi bị đám “côn-đồ-ruộng” hãm hiếp. Cô hỏi người cha cuối
đời còn phải khứng chịu thêm oan nghiệt mới:
“- Không biết con bị có con
không cha?”
Và, một người khác, (không xưng tôi)
trong cô, lên tiếng:
“Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một
cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăn quăn đang ngụp
lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời
ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù
phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).
“Đứa bé đó, nhất định nó sẽ
đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé
không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và
vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi
nên tha thứ lỗi lầm của người lớn. /.”
♦
Phải chăng, Nguyễn Ngọc Tư muốn nói:
- Bản án thầm lặng mà thời gian dành những người càng sống lâu, sẽ
càng tạo thêm nhiều lầm lỗi?!? Và họ thực sự, đáng được tha thứ?
Du Tử Lê
(Garden Grove, Apr. 2015)
Nguồn:
http://www.dutule.com/D_1-2_2-148_4-6971_5-10_6-1_17-106_14-2_15-2/nguyen-ngoc-tu-hien-tuong-tieu-bieu-cua-40-nam-van-xuoi-viet.html |