BIÊN SỬ NƯỚC,
NGUYỄN NGỌC TƯ –
QUEN MÀ LẠ
(Đọc
Biên sử nước, tiểu thuyết
của Nguyễn Ngọc Tư-Nxb Phụ nữ Việt Nam 2020)
Bùi Công Thuấn
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn tôi quý mến
ngay từ ngày đầu chị xuất hiện. Đọc
Biên Sử Nước, tôi vẫn gặp một
khuôn mặt văn chương đậm nét Nam bộ nhưng lại rất mới lạ. Nguyễn Ngọc Tư
tạo ra một thế giới nghệ thuật đầy ẩn dụ cùng với nhiều phá cách trong
kiến tạo tiểu thuyết hư cấu (Fiction) hướng đến kiểu
tác phẩm tư tưởng khiến
Biên sử nước không dễ đọc. Ở
góc nhìn này, Nguyễn Ngọc Tư có những đóng góp giá trị cho nghệ thuật
tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
MỘT THẾ GIỚI CỦA
NHỮNG ẨN DỤ
Có thể nói toàn bộ hệ thống hình tượng,
kể cả những chi tiết miêu tả rất thực trong
Biên Sử nước đều có thể đọc
như những ẩn dụ.
Chương đầu và chương cuối vỏn vẹn chỉ
có mấy dòng:
Chương 1:
đã tới bên sông
“Ngày hai ngàn không trăm
bốn mươi sáu, Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim. Người đàn bà sẽ lấy nó
đã tới bên kia sông, tay
bồng đứa nhỏ”.
Chương 11:
rời
“Ngày hai ngàn không trăm
bốn mươi sáu, kẻ tự xưng là Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim. Người đàn bà
sẽ lấy nó đang qua sông, tay
bồng đứa nhỏ”
Toàn bộ 11 chương tiểu thuyết viết về
người đàn bà tay bồng đứa nhỏ
đi lấy trái tim của Đức Ngài.
Người đọc không thể biết ngày 2046 là
ngày tháng năm nào, người đàn bà bồng đứa nhỏ là ai, con sông được nói
đến là con sông ở vùng nào, cả nhân vật Đức Ngài cũng không có bất cứ
chi tiết nhân thân xã hội. Mở đầu,
người đàn bà đã tới bên kia sông.
Kết thúc tác phẩm, người đàn bà
đang qua sông, nghĩa là hành trình đi
lấy trái tim của Đức Ngài
chưa xảy ra. Câu chuyện còn bỏ ngỏ.
Trong tiểu thuyết có nhiều địa danh,
nghe rất quen thuộc, nhưng nếu bạn đọc tra bản đồ địa lý thì không hề
có. Đó là cù lao Lẻ, xóm Lầy, Đất
Giồng, đồi Tro, bến Gò, Vạn Thủy, thị trấn Xép, Yên Xuyên, Hà Đô, đồn
binh núi Biên. Nhân vật Tôi kể:
Anh Hai mất tích ở biên giới Trung-Mông
(tr.18).
Hai địa danh
Yên Xuyên, Hà Đô, nghe như
tên một nơi nào đó ở Trung Quốc (Trung Quốc có: Ngô Xuyên, Đồng Xuyên,
Hán Xuyên, Lợi Xuyên, Nghi Đô, Thành Đô…). Tôi chưa rõ dụng ý của tác
giả, nhưng nghĩ rằng, vì là địa danh hư cấu nên bạn đọc không cần phải
xem nhà văn viết về vùng đất nào. Cũng có thể là một trò chơi chữ. Bởi
nếu người đọc lần theo các địa danh thì sẽ phát hiện ra gốc của địa danh
trong truyện là gốc miền tây: Yên Xuyên (miền tây có
Long Xuyên), Hà Đô (miền tây
có Hà Tiên và
Tây Đô tức là Cần Thơ), núi
Biên (có Tịnh Biên, một huyện
miền núi An Giang giáp Cambodia); Đất Giồng (miền tây có
Giồng Trôm
- một huyện của tỉnh Bến Tre;
Giồng Riềng - một huyện của tỉnh Kiên Giang)…
Đứa nhỏ trên tay người đàn bà là con
của Phú, nó không biết cười
(chương 3), con chị Tùy là đứa nhỏ rịn nước (chương 5), con chị Khùng
chỉ khóc, khóc không ngừng nghỉ (chương 7), con của Cẩm bị ghẻ (chương
9). Trẻ con vốn hồn nhiên hay cười nhưng những đứa trẻ trong
Biên sử nước phải chăng là ẩn
dụ cho trẻ con hôm nay. Chúng đã bị tước đọat mất sự hồn nhiên. Hình hài
và nhân tính trở nên méo mó. Và đó là nguyên nhân người mẹ phải đi tìm
trái tim người để chữa bịnh cho con.
Tại sao chỉ có trái tim người mới chữa
được bịnh cho những đứa trẻ ? Nói cách khác chỉ có trái tim người mới
giúp những đứa trẻ trở lại làm người?
Trái tim là biểu tượng của sự sống, tình yêu thương. Thông điệp
của nhà văn là chỉ có tình yêu thương đối với trẻ mới đem lại cho trẻ sự
hồn nhiên (nhân tính). Trong Biên
sử nước, tất cả mọi người mẹ đều đến cù lao Lẻ để lấy trái tim Đức
Ngài, nhưng họ mới chỉ “đang sang
sông”, chưa lấy được trái tim ấy, nghĩa là những đứa trẻ vẫn đang
trong trạng thái mất nhân tính (nụ cười là biểu hiện đẹp đẽ của nhân
tính, tiếng khóc là nối thống khổ không thể kìm nén). Nhưng nếu giả như
họ lấy được trái tim ấy thì thế nào? Đức Ngài trong
Biên sử nước chỉ là một “màn
lừa đảo kinh thiên động địa”(chương
4-tr. 43),
tái tim của Đức Ngài cũng chỉ là
Trái Tim Lừa Đảo. Sự mất nhân tính của thế giới này không có phương
thuốc nào chữa được! Đó là một thông điệp bi thiết.
Chương 9 miêu tả nhân vật tôi sống
trong một Thế giới chỉ ruồi và
cứt ruồi, nhân vật Tôi và Cẩm chỉ ăn chữ. “Có
lần cổ (Cẩm) lấy một cuốn sách, bảo mình cứ chọn ăn những chữ thừa không
quan trọng thử coi. Nghĩa là nếu chúng mất đi, cũng chẳng ảnh hưởng gì
tới câu chuyện. Rốt cuộc cuốn sách chỉ còn lại không tới 100 chữ. Cẩm
nói mình đã bỏ bụng một đống chữ chẳng bổ béo gì”
(tr.112). “Thế
giới ruồi”
và “người ăn chữ” là ẩn dụ
hàm chứa thông điệp gì? Chúng ta hiểu rằng trong thế giới hiện thực,
ruồi xuất hiện nhiều ở bãi rác. “Thế
giới ruồi” là thế giới của rác, của những cái dơ bẩn. Con chữ trên
trang giấy là những ký hiệu mang thông tin. “Ăn
chữ” chứ không phải là ăn giấy, ăn mực. “Ăn
chữ” là ăn thông tin. Phải chăng đó là thông điệp nhà văn nói về
thảm cảnh con người trong thế giới thông tin rác, thế giới của sự dơ bẩn
tràn ngập? (Việc giải mã ẩn dụ này có thể không đúng với chủ ý của nhà
văn, nhưng trong cách đọc hiện đại, ý nghĩa của tác phẩm là những gì
người đọc lấp đầy văn bản).
Chương 5 (nước lên) kể lại việc chị Tùy
mở vòi nước giặt đồ rồi quên khóa, chị vội chạy theo trai, khiến cho
nước chảy ngập lụt. Cả thành phố căng ra chạy lụt. Mọi nỗ lực khóa vòi
nước lại đều thất bại. Tỉnh phải bó tay. Bao sớm chiều người ta chỉ còn
biết đứng thở dài nhìn vùng nước nở rộng…Trong thực tế, một vòi nước
giặt quần áo không thể làm ngập lụt thành phố được. Hình ảnh ấy là một
ẩn dụ. Và ẩn dụ ấy có ý nghĩa gì? Chị Tùy chạy theo trai là chạy theo
tình yêu. Chính tình yêu làm ngập lụt đời sống. Nhưng đến chương 8 (cưới
bóng), chị Tùy lại bị người yêu là Viễn bỏ rơi
(tr. 97)
vì thế trận ngập lụt ấy mới gây họa cho mọi người. Phải chăng tình yêu
cũng gây họa. Nếu vậy thì bi kịch này của nhân loại đến bao giờ mới
thoát ra được!
Biên sử nước là thế
giới ẩn dụ chứa đựng nhiều thông điệp tư tưởng của Nguyễn Ngọc Tư. Điều
này làm cho tác phẩm dù rất mỏng (125 trang in) vụt lớn lên vượt trội so
với tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
NHÂN VẬT TÔI VÀ SỰ
PHÁ CÁCH TRẦN THUẬT
Trong suốt tác phẩm, nhân vật Tôi là
người kể chuyện người đàn bà tay
bồng con đi tìm trái tim người. Trong tiểu thuyết truyền thống, nhân
vật Tôi chỉ là một người. Tôi hoặc là tác giả, hoặc là một nhân vật
trong truyện mà tác giả nhập thân vào. Trong
Biên sử nước, nhân vật Tôi ở
mỗi chương là một nhân vật khác với Tôi ở chương trước. Trong cách kiến
tạo tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, nhân thân của Tôi được giữ rất bí mật.
Tôi chỉ được nhận biết khi truyện kể về gần cuối chương. Chương 9 và
chương 10, người đọc không thể nhận ra Tôi là ai. Điều này tạo thêm một
nguồn hấp dẫn.
Chương 2, nhân vật Ta là Đức Ngài ngồi
trên ngai nhìn nhân gian quỳ lạy ở dưới.
Chương 3, Tôi là Phúc Dương, người
trùng tên với rất nhiều tên Phúc, có lẽ là một nhà báo đi tìm hiểu và
viết phóng sự về cô gái tên Phúc
mắt bò, bạn học cũ.
Chương 4, Tôi là “sư mẫu”, ngoài 80
tuổi, là nhân chứng duy nhất vạch trần “màn
lừa đảo kinh thiên động địa”của thằng Báo trong việc dựng thằng Phủ
lên thành Đức Ngài để lừa thiên hạ.
Chương 5, Tôi là thằng nhỏ mồ côi đi
theo ông Từ. Tôi đi tìm chị Tùy, người đã mở vòi nước rồi quên, làm ngập
lụt thành phố.
Chương 6: Tôi là em chị Thu. Nghe tin
báo chị Thu (Trà Thị Thu) tới miệt Vạn Thủy lấy trái tim của người cầm
đầu một tà giáo nào ở đó, Tôi đi tìm chị Thu.
Chương 7: Tôi (thằng tù số 280) kể
chuyện Bốn thằng tù với một chị
đàn bà đã loạn trí còn phải mang đứa nhỏ trên tay”. Mãi sau này khi
nghe tin người đàn bà ẵm con đi tìm tim Đức Ngài, tôi nghĩ đó là chị
Khùng.
Chương 8. Chị Tùy (nhân vật ở chương 5) kể
chuyện mình bị Viễn bỏ rơi và chuyện hạnh phúc của vợ chồng anh Xây.
Chương 9, Tôi là người ăn chữ, có vợ và chia tay vì chị vợ không chịu
nổi việc Tôi ăn chữ. Có lẽ Tôi là thợ sửa ống nước. Tôi là người kể
chuyện Cẩm.
Chương 10, Tôi kể truyện Mi một cô gái
quậy phá trong cơn mộng du. Tôi có 2 đời chồng, chồng trước gốc Nhật,
chồng sau hay hút thuốc. Nhưng Tôi lại là một người đàn bà bị tai nạn xe
hơi, chưa tỉnh.
Sự phong phú kiểu nhân vật Tôi (người
kể chuyện) trong Biên sử nước
có ý nghĩa gì? Nguyễn Ngọc Tư đã phá cách hẳn cách kể chuyện quen thuộc
của tiểu thuyết. Sự khác biệt nhân vật người chuyện ở mỗi chương làm
phân rã cốt truyện tiểu thuyết khiến cho mỗi chương trở thành một truyện
ngắn riêng biệt. Điều đáng chú ý người kể chuyện là người đi tìm kiếm
người đàn bà bồng con, là nhân chứng cho mọi sự kiện. Họ rất khác nhau
về nhân thân xã hội. Đó là một nhà báo, một đứa nhỏ mồ côi, một thằng tù
trốn trại, một người ăn chữ
có lẽ là thợ sửa ống nước, một người bị tai nạn xe hôn mê chưa tỉnh (vậy
mà vẫn kể chuyện được. Có lẽ Tôi hôn mê phần ý thức, còn phần tiềm thức
vẫn hoạt động, nhà văn miêu tả dòng chảy ý nghĩ miên man trong tiềm thức
của nhân vật này); một bà già ngoài 80 tuổi được gọi là “sư mẫu”,là nhân
chứng, và đặc biệt là chị Tùy, một người đàn bà mất tích ở chương 5 lại
trở thành người kể chuyện ở chương 8.
Tất cả các nhân vật
Tôi đều có câu chuyện riêng góp vào làm đầy thêm câu chuyện về
người đàn bà bồng con đi lấy trái
tim Đức Ngài. Những câu chuyện của Tôi mở rộng biên độ không gian,
thời gian của tiểu thuyết. Truyện không chỉ ở xóm Lầy, cù lao Lẻ, Vạn
Thủy mà ở Núi Biên cách nhà Tôi
non ngàn cây số (tr.71), hoặc biên giới Trung-Mông (tr.18), Tôi sống
trong cái thư viện bị ruồng bỏ, cách với ngoài kia loạn lạc
phải tới một ngàn năm ánh sáng.(tr.104)
Quan sát nhân vật Tôi, người đọc phát hiện ra tác giả giao cho nhân vật
một sứ mệnh chuyển tải thông điệp. Nhân vật Tôi (sư mẫu) là người vạch
trần trái tim Đức Ngài có thể chữa bách bịnh chỉ là một trò lừa bịp: Tôi
là nhân chứng. Nhân vật Tôi (Phúc Dương) là một phóng viên, người gỡ rối
ai là Phúc mắt bò trong 117
người tên Phúc. Nhân vật Tôi (đứa nhỏ mồ côi, em chị Thu và người tù số
280) chỉ chạm tới bóng dáng người đàn bà bồng con đi tìm trái tim
người). Sau cùng là Tôi, người mất trí trong một tai nạn xe hơi, kể
chuyện Mi quậy phá trong cơn mộng du. Vậy tiến trình từ Tôi (sư mẫu) đến
Tôi (người mất trí) có ý nghĩa gì? Cái chân lý tưởng đã nắm được với
nhân chứng rành rành ấy (sư mẫu) trở thành một điều không có thật và
không có cơ sở để tin (người mất trí kể chuyện), nói cách khác, những gì
tưởng là chân lý thì chẳng là gì cả. (Và nếu có thì nó nằm trong ký ức
của người mất trí). Thông điệp này đẩy đến tận cùng sự hoài nghi về thực
tại hôm nay. Thực tại này chỉ có sự lừa gạt, dối trá, tin đồn, chỉ có sự
méo mó, tha hóa (người ăn chữ, người nhai tóc, trẻ không biết cười, một
thế giới ruồi, gián và tai họa (những giấc mơ mọc cánh của Tôi-chương 5)
Nhân vật Tôi-người kể chuyện làm cho tiểu thuyết
Biên sử nước trở nên khó đọc,
Cần phải nhìn ra sự phát triển của nhân vật tôi từ đầu tới cuối tác phẩm
mới thấy được những thông điệp ẩn dấu mà nhân vật chuyển tải. Nhân vật
Tôi cũng tạo ra sự cuốn hút của việc truy tìm. Tôi cũng kể rất nhiều
chuyện đời thường làm cho những ẩn dụ trở nên tư nhiên như thể đó là
hiện thực.
Và dù Tôi làm phân rã cấu trúc
Biên sử nước thì Biên sử nước
vẫn là một tiểu thuyết chặt chẽ về cấu trúc (do sự phát triển vai trò
của vật Tôi), thống nhất chủ đề tư tưởng và tư tưởng. Đó là tài năng
kiến tạo tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
NGƯỜI ĐÀN BÀ BỒNG
CON
Người đàn bà bồng
con đi tìm trái tim Đức Ngài
(tim người) làm thuốc chữa bịnh cho con là một hình tượng kết nối các
chương, thể hiện thống nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm để tạo nên tiểu
thuyết Biên sử nước.
Sự mới mẻ ở hình tượng này là, không chỉ có một nhân vật người đàn bà
bồng con mà có nhiều người đàn bà khác nhau. Họ trở thành đối tượng của
sự truy tìm nhưng không gặp.
Chương
3, Phúc Dương truy tìm người đàn bà bồng con đi lấy trái tim Đức Ngài.
Nhưng có đến hàng trăm người tên Phúc. Sau khi thu thập thông tin, cô
nghĩ là Phúc Mắt bò, một bạn
học cũ. Nhưng Phúc Dương mới chỉ tìm thấy một tấm hình có
Phúc mắt bò mà chưa gặp lại
được người bạn này. Chương 5: thằng nhỏ mồ côi đi theo ông Từ là người
được cử đi tìm chị Tùy, người đã mở vòi nước rồi quên, làm ngập lụt
thành phố. Nhưng cũng chưa tìm được. Chương 6: (Tôi) em chị Thu nghe tin
báo chị Thu (Trà Thị Thu) tới miệt Vạn Thủy lấy trái tim của người cầm
đầu một tà giáo nào ở đó, Tôi đến nhà chị Thu (trước kia là nhà tôi).
Nhưng không thấy. Chỉ thấy hình bóng chị trong đoạn phim do canera cửa
hàng tiện lợi ghi lại và được Hy là nhân viên cửa hàng chép vào điện
thoại cho Tôi. Chương 7: Tôi (thằng tù số 280) trong khi vượt ngục, đã
tiếp cận được chị Khùng, được chị Khùng cho ăn. Sau này, khi nghe tin có
người đàn bà bồng con đi lấy tim
người làm thuốc thì Tôi nghĩ ngay là chị Khùng. Chương 8, vợ anh Xây
có lẽ nghe lời độc địa của chị Tùy đã đi tìm trái tim người để chữa bịnh
không con. Chương 9: Bữa đài loan tin có
người đàn bà ôm con đi lấy tim
người làm thuốc, tôi biết là Cẩm” (tr.116). Cẩm là người trôi dạt.
Cẩm đến sống chung với tôi trong một thư viện bỏ hoang, cả hai cùng ăn
chữ.
Như vậy hình tượng “người đàn bà
bồng con đi lấy trái tim người làm thuốc chữa bịnh” có chung những
đặc điểm sau dây: Những người đi truy tìm họ đều chưa tìm được họ, nhưng
có tiếp cận được trong một hoàn cảnh nào đó, và khi nghe tin về
người đàn bà bồng con đi lấy trái
tim người thì đoán chừng là người họ đã gặp. Tất cả đều chưa gặp mặt
người đàn bà bồng con, mà chỉ thấy một vài dấu tích một vài “nghe nói”
và đoán chừng. Hình ảnh “người
đàn bà bồng con” gợi ra nhiều liên tưởng trong đời sống tâm linh
Việt.
Trong Biên sử nước, mỗi người
đàn bà (được phỏng đoán là người
bồng con đi lấy trái tim người) đều có một hoàn cảnh đặc thù và
chuyển tải một thông điệp riêng.
Phúc Mắt bò nổi tiếng ở trường vì bị
mắc kẹt với
đáy quần loang máu, khi ướt khi khô đanh. Tuy vậy, Phúc là một
học sinh giỏi Toán toàn quốc, lấy bằng bác sĩ chuyên khoa 2 ở Hà Đô. Mẹ
Phúc khoe với mấy bạn hàng ngoài chợ:
“Con nhỏ sắp lấy bằng giáo sư”.
Sau làm thu ngân cho một của hàng bách hóa tự chọn. Giờ chạy theo cả
những ông thầy bùa ngải xác cậu cốt cô (tr.32), đó là điều không ai hiểu
được. Nhưng thông điệp của nhà văn rất rõ ràng: người mẹ chấp nhận từ bỏ
tất cả để tìm phương thuốc chữa bịnh cho con với một niềm tin tuyệt đối.
Chị Thu (Chương 6): “không ra đàn
bà cũng chẳng ra đàn ông. Cái mũi gom cao và đôi mắt hai mí…cơ mặt cứng
lạnh, mớ tóc xơ rối, dáng người khô khòng, chị ít cười”(tr.72). Đi
dạy học, chị mặc áo dài xanh da trời. Ở nhà chị nuôi gián. “Học
trò của chị Thu cũng không mấy yêu quý cô giáo dạy môn Ngữ văn”(tr.73).
Dường như người đàn bà này không hợp với môi trường sống của mình, phải
chăng vì thế chị Thu làm bạn với gián?
Người đàn bà tên Cẩm (chương 9) là người ăn chữ. Cẩm chui ra từ
một cái thùng rác úp ngược. Bồng
trên tay một tiếng khóc xanh yếu, cổ mệt lả…”; “Sau này Cẩm kể cô không
mục đích nào, chỉ đi vậy thôi, ‘hơn ngồi một chỗ chờ chết’”(tr.105).
Cô là đàn bà với vòm
háng ấm, đôi đầu vú nhỏ, búi mông cứng.107
Cẩm sống trôi dạt,
chỉ ăn chữ. Cẩm nói mình đã bỏ
bụng một đống chữ chẳng bổ béo gì”(tr.112).
Dường như nhân vật này thể hiện tư tưởng hiện
sinh của tác giả: Đời sống bản chất là vô nghĩa. Sống là đi về cõi chết?
Các nhân vật này đều thể hiện tư tưởng về “sự
biến mất của con ngườ” trong cõi đời này. Nhân vật Tôi khi theo dõi
dấu tích chị Thu đã nghĩ về mình:“Hình
ảnh cuối cùng của tôi trước khi
biến mất khỏi cõi đời, cũng sẽ được một con mắt điện tử nào đó giữ
lại 30 ngày, rồi tự động tan đi
không dấu vết. Ai sẽ ngồi xem lại hình ảnh tôi” (tr.75).
Tất cả các nhân vật người đàn bà
bồng con đi tìm trái tim người chỉ được ghi nhận qua dấu tích họ để
lại (Gián trong nhà chị Thu; vòi nước chảy và quần áo giặt của chị Tùy,
ấn tượng về tiếng móng tay gãi
miết vào da bật máu trên da của Cẩm.…), qua một vài mối quan hệ của
họ với người này người kia, và qua những thông tin ai đó nói (bọn học
trò trường Yên Xuyên nói về Phúc
mắt bò, người mẹ nói về Phúc...). Cuộc truy tìm họ là vô vọng (Thằng
nhỏ mồ côi được giao nhiệm vụ tìm chị Tùy phải leo lên cột địện tránh
nước lụt để định hướng).
Sự biến mất vô vọng của người đàn
bà bồng con đi tìm trái tim người chỉ là
một cuộc ra đi chưa đến đích
(còn “đang sang sông”) hay là
một thái độ phản kháng?
Về lý do chị Tùy ra đi, người ta trách mẹ chị Tùy rằng: “Phải
dì bớt bạc đãi con Tùy đi một chút thì đâu tới nỗi”(tr.48). Có nghĩa
sự ra đi của chị Tùy là phản kháng lại sự bạc đãi của người mẹ. Cẩm nói
về sự trôi dạt của mình: “chỉ đi
vậy thôi,‘hơn ngồi một chỗ chờ chết’”(tr.105), tức là phản kháng lại
sự tù đọng hiện sinh. Phúc mắt bò
từ bỏ nghề bác sĩ để làm thu ngân cho một cửa hàng, từ bỏ sự chữa tri y
khoa cho đứa con không cười bằng cách tin vào thầy bùa ngải xác cậu cốt
cô, phải chăng Phúc phản kháng lại một xã hội thực dụng (chỉ có tiền) và
văn minh phương Tây (cách chữa bịnh bằng Tây Y)? Điều này bạn đọc có thể
thấy rõ rất nhiều người chữa bịnh tà bằng cách tìm đến các thầy bùa. Ở
chương 10, nhân vật Mi và Tôi kéo đổ tượng đài ở trung tâm thành phố
(tr.120). Mi ném đá vào đèn ở quảng trường, mở tung những trụ nước cứu
hỏa, cài thuốc nổ đánh sập một chân cầu…phải chăng đó là sự phản kháng
vô chính phủ về những tiêu cực trong đời sống (chẳng hạn phản khác việc
xây tượng đài bê tông cốt tre)
Không thể hiểu khác, qua hình tượng
người đàn bà bồng con đi tìm trái
tim người, nhà văn ca ngợi tình yêu thương con của người mẹ, đồng
thời bày tỏ thái độ phản kháng xã hội về nhiều mặt, thể hiện ý thức về
Hiện sinh và về sự tồn tại của một con người trên cõi nhân gian này, cõi
nhân gian đầy ruồi, đầy gián, đầy lọc lừa. Con người tồn tại trong vô
vọng, như giữa mênh mông nước không có gì bám víu, không gì ngăn được sự
ngập lụt. Hệ thống hình ảnh ẩn dụ có ý nghĩa biểu tượng chứa đựng những
thông điệp còn ẩn rất sâu dưới lớp vỏ chữ nghĩa, đó là một đặc sắc của
Biên sử nước.
NGUYỄN NGỌC TƯ
QUEN MÀ LẠ
“Tụi tui ăn chữ.
Xin bạn đừng có tầm thường
như những người tôi từng biết, họ hoặc nhìn tôi như kẻ điên hoặc dán vào
tôi cái nhìn ngờ vực, nghĩ ăn chữ chắc có ám chỉ gì. Nhưng
ăn chữ chẳng mang tầng nghĩa
ngầm nào khác. Nó đơn thuần như bạn ăn cơm. Nghĩa là nhai nuốt bằng
răng, tận hưởng hương vị qua gai lưỡi, và tiêu hóa chúng trong dạ dày,
thấm hút chút dưỡng chất vào thành ruột. Ở ngoài kia có nhiều người ăn
chữ kiểu như tôi, chỉ là chúng ta không biết đó thôi” &tr.105)
Phải chăng Nguyễn Ngọc Tư đang đối thoại trực tiếp với chúng ta và hóa
giải cái cách chúng ta bẻ khóa mật ngữ của tác phẩm? Chúng ta nhận ra
Biên sử nước là một thế giới
ẩn dụ, Nguyễn Ngọc Tư bảo “chẳng
mang tầm nghĩa ngầm nào khác”, nhưng xin thưa, khi tác phẩm đã được
công bố và được đọc, thì nghĩa tác phẩm thuộc về diễn giải của người
dọc. “Tác giả đã chết”
(Roland Barthes).
Trong
Biên sử nước, nhiều lần nhân
vật đối thoại trực tiếp với người đọc như vậy. Đây là một chia sẻ trải
nghiệm: “Bạn
biết đó, khi bạn không nhà cửa chẳng mẹ cha, sống nhờ cơm miễu Thánh thì
phụ nữ là thứ gì đó xa tận bên kia biển…Với đàn bà, nhìn thẳng vào họ
thôi cũng khiến tôi thấy mình không xứng đáng”(tr.58).
Cách viết của mỗi chương là ghi lại dòng “ý
nghĩ miên man” (tr.76) của nhân vật Tôi. Nhân vật tôi ở hiện tại,
rồi ký ức xuất hiện. Quá khứ đồng hiện với hành động ở hiện tại. Nhân
vật để cho ý nghĩ của minh trôi đi từ chuyện này sang chuyện khác, tạt
ngang rồi tạt dọc, xa lạc chỗ khởi đầu ở hiện tại, sau đó quay về hiện
tại. Người đọc chỉ lơ đãng một chút là không còn biết mình đang ở đâu
giữa rừng chi tiết truyện, và sẽ rối tung lên không biết bám vào đâu để
lần ra manh mối chính. Điều này khiến cho độc giả không thể đọc nhanh.
Thú thực là mỗi chương tôi phải đọc lại vài lần mới thoát ra được cái
rắc rối của cấu trúc truyện. Và trong khi nghe Nguyễn Ngọc Tư kể chuyện,
tôi gặp đâu đó các miêu tả độc thoại nội tâm của Hemingway (Ông
Già và Biển Cả), ở chỗ khác tôi lại thấy những dòng miêu tả rất lạ
theo cách miêu tả Hiện tượng luận
(Husserl), thực sự là thú vị. Thú vị ở văn bản đang đọc, tức là những gì
nhà văn dệt nên bằng văn chương và thú vị với một tác phẩm văn chương đã
hội nhập với văn chương thế giới đương đại.
Nói thế để nhấn mạnh điều này Nguyễn
Ngọc Tư muốn viết một tác phẩm tư tưởng. Vì thế nếu muốn tìm “giá
trị phản ánh hiện thực” của tác phẩm theo cách đọc cũ, người đọc sẽ
thất vọng. Biên sử nước chỉ
kể những chuyện đời thường trong dân gian: chuyện gái bỏ nhà theo trai
(chị Tùy), chuyện tù vượt trại
(chương 7), chuyện
một bà già bị mấy giỏ xoài đè chết (tr. 19), anh xe ôm kể chuyện vợ ghen
(tr. 23), chuyện “Được làm đàn bà
tới bến rồi đó, sướng không?!”(tr.26), chuyện con nít bị ghẻ (con
của Cẩm), chuyện một nhiếp ảnh gia biến mất ở Núi Biên (tr.70), chuyện
trẻ con khóc (tr. 84), chuyện một cô gái nằm vắt ngang đường tàu tự tử
(tr.96), chuyện phụ nữ bị nghén ăn lá mục (tr.100), chuyện hôn nhân đổ
vỡ (tr. 108)… những chuyện như thế chẳng phản ánh vấn đề chính trị xã
hội nào của hiện thực hôm nay. Thấp thoáng có vài vấn đề như, xây tượng
bê tông cốt tre (tr. 120), chuyện buôn thần bán thánh (Đức Ngài), chuyện
đồng tính (chuyện Tôi là người đàn bà có hai đời chồng với Mi-tr.120),
nhưng đó cũng không phải là những vấn đề “nóng” của xã hội Việt Nam hôm
nay.
Điều thú vị là, Nguyễn Ngọc Tư trình
bày tư tưởng rồi lại phủ định tư tưởng ấy, giống như
Biên sử nước là một thế giới
ẩn dụ nhưng tác giả lại bảo “chẳng
mang tầng nghĩa ngầm nào khác”.
Người đàn bà đi tìm trái tim người để chữa bịnh cho con với một lòng yêu
thương và một niềm tin tuyệt đối. Tác giả khẳng định chỉ có tính yêu
thương (trái tim) mới chữa lành mọi bịnh tật, mới cứu rỗi nhân tính. Thế
nhưng ngay sau đó nhân vật “sư mẫu’ là một nhân chứng sống đã nói rõ Đức
Ngài chỉ là một trò lừa gạt. “Trái tim” của kẻ lừa gạt làm sao chữa được
bịnh. Thế nghĩa là chẳng có tình yêu thương nào chữa lành tình trạng
nhân tính bị tha hóa!
Nguyễn Ngọc Tư nói về sự biến mất của
một con người như một tất yếu:
“Hình ảnh cuối cùng của tôi trước khi
biến mất khỏi cõi đời, cũng
sẽ được một con mắt điện tử nào đó giữ lại 30 ngày,
rồi tự động tan đi không dấu vết.
Ai sẽ ngồi xem lại hình ảnh tôi”
(tr.75) và trong
truyện là rất nhiều trường hợp con người biến mất (Phúc
mắt bò, Cô Long, chị Thu, chị Khùng, Cẩm…). Thế nhưng, người ta vẫn
thấy dấu tích của họ, họ đang lang thang nơi này nơi kia, và không phải
họ không để lại những hậu quả. Chị Tùy bỏ đi để nước chảy ngập cả thành
phố, Chị Thu đi để lại cái nhà đầy gián. Cô Long bỏ đi đến nỗi thằng Phủ
phải giả làm Đức Ngài để gây tiếng vang “sao
cho ở phương trời nào con nhỏ kia cũng nghe thấy” (tr.43).
Nghĩa là con người “biến mất”
vẫn tồn tại. Phải chăng đây là sự mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn
Ngọc Tư?
Cũng vậy, khi Nguyễn Ngọc Tư nói đến
một vài hiện tượng xã hội nhưng ngay sau đó lại phủ định những gì mình
vừa kể. Chuyện xây tượng đài bê tông cốt tre, hoặc tình trạng con ông
cháu cha quậy phá (nhân vật Mi, chương 10). Phần sau câu chuyện, tác giả
lộ ra rằng đó là chuyện kể của một người hôn mê vì tai nạn xe chưa tỉnh,
và Mi quậy phá khi cô mộng du, nghĩa là của hai kẻ không có ý thức.
Chuyện chỉ xảy ra trong tiềm thức của một người đã mất hết ý thức. Vậy
tiếng nói phản kháng ấy có giá trị gì với thực tại?
Có thể lý giải sự mâu thuẫn của Nguyễn
Ngọc Tư là do nhà văn thể hiện tư tưởng nhưng không dựa trên một hệ
thống triết học nào. Nhà văn cũng không viết với khuynh hướng
văn chương dấn thân
(J.P.Sartre-1905-1980), vì thế những thông điệp tư tưởng của Nguyễn Ngọc
Tư trong Biên sử nước chỉ có
ý nghĩa như một tiếng nói trách nhiệm trước một thời đại mà nhân tính bị
hủy hoại trầm trọng, tình yêu thương không còn khả năng cứu chữa bệnh
tật của con người. “Chúng ta
không biết mình đang sống trên những mục rã nào” (tr.120).
Tôi nghĩ tiếng nói trách nhiệm ấy thật đáng quý.
Biên sử nước có cách
đặt tên khá lạ. Những thở dài
mang vị muối, Dấu nước, gọi
vang, nước lên, những kén, tiếng khóc từ trời, cưới bóng…Tất cả tên
chương đều không được viết hoa. Có điều gì đó rất trái với quy luật ngôn
ngữ thông thường. Lẽ ra phải viết “những
cái kén” hoặc “tiếng khóc
thấu trời”. “Thở dài” là
một động từ, “những” là số số
từ, chỉ đứng trước danh từ, không thể đứng trước động từ (Những
thở dài). Sự “lạ hóa” cả
ở nội dung nhan đề ”cưới bóng”.
Sự “lạ hóa” cách viết nhan đề
cũng là một phá cách của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư. Nó tạo ra sự “gây hấn”
với người đọc ngay khi tiếp cận tác phẩm. Nhan đề “Biên
sử nước” là một gây hấn như vậy. Người đọc thường nghe “biên
niên sử” của một triều đại. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư viết “Biên
sử nước”, vậy nên được hiểu thế nào? Biên niên sử của nước hay bên
lề (đường biên) lịch sử của nước, hay là ghi chép về (biên chép) lịch sử
của nước? Tác phẩm không hề chứa đựng các nội dung này.
Thôi thì cứ nghe theo lời nhà văn, cách đặt tên tác phẩm, tên chương: “chẳng
mang tầng nghĩa ngầm nào khác”. Chẳng qua là một trò chơi chữ thú
vị, vậy thôi! Nói như thế thì trả lời thế nào về chức năng của nhan đề?
Nhan đề chứa đựng nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. “Biên
sử nước” nhất định chứa đựng những điều ấy, không phải chỉ là một
trò chơi chữ đơn thuần. Phải chăng nhan đề ấy gợi ra vấn đề nước ở đồng
bằng sông Cửu long một thời ngập lụt (“chan
nước đi hàng mấy trăm cây số”. tr.53) mà bây giờ đối mặt với sự khô
cạn? Cho nên người ta không thể cười được, như đứa trẻ kia chỉ khóc
không ngơi? Tìm mãi một con đường giải quyết như không thấy (như tìm
người đàn bà bồng con)?
Tôi rời cuốn sách mà lòng ngổn ngang, dường như tôi đuổi theo những gì
Nguyễn ngọc Tư viết giống như mấy người tù chạy theo thằng 551, tưởng nó
dẫn đường trốn trại, ai dè nó chạy theo một con chim thằng chài, một con
chim xanh biếc, và thằng 551 hỏi ngược lại những người tù rằng ”Nhưng
sao tụi mày lại chạy theo” (Chương 7-tr.79). Những người tù trốn
trại chạy theo thằng 551 là vì ngộ nhận, còn tôi chạy theo
Biên Sử nước, chẳng lẽ…!
***
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn có những nỗ lực khám phá sáng tạo liên
tục, rất quen ở phong cách nhưng mới lạ ở nghệ thuật và tư tưởng. Thế hệ
nhà văn đồng thời với Nguyễn Ngọc Tư giờ trở thành những cây viết chủ
lực của văn chương Việt, họ đã làm thay đổi hẳn dòng chảy văn chương
Việt và tiếp cận với văn chương thế giới. Những đóng góp về thi pháp và
tư tưởng của Nguyễn Ngọc Tư trong Biên sử nước là một trường hợp cụ thể.
Xin chúc mừng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Tháng 11/2020 Trở về trang chủ Nguyễn Ngọc Tư
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 7-11-20 |