TỪ
NGUYỄN TẤT THÀNH ĐẾN HỒ CHÍ MINH
(Sự hình thành
một chọn lựa)
Chương 4
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Các sự kiện trong chương sách này, tuy có tham
khảo từ nhiều nguồn tư liệu, nhưng chủ yếu vẫn dựa vào luận án
Nguyen Ai Quoc, The Commintern and The Vietnamese Communist Movement
(1919-1941)
của Sophie Quinn-Judge, một luận án tổng hợp mới nhất về mối quan hệ
giữa Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản, kể từ ngày ông tham gia (1920)
đến ngày QTCS chấm dứt hoạt động (1941). Trong luận án này, tác giả
đã xét duyệt lại tất cả các nguồn tư liệu chủ yếu mà những người
nghiên cứu về phong trào cộng sản ở Việt Nam đều biết trước đây –
như: a) Những tài liệu mật của cộng sản mà Mật thám Pháp đã tìm thấy
và được Nhà nước Pháp lưu giữ trong Kho lưu trữ Hải ngoại
(Centre d’Archives d’Outre-Mer, viết tắt: CAOM) ở thành
phố Aix-en-Provence, b) Những tài liệu trên sách báo do những tác
giả từ các nước khác nhau (chủ yếu từ châu Âu, Mỹ , Trung Quốc và
Việt Nam) sưu tập và công bố, c) Những hồ sơ của Quốc tế Cộng sản
lưu trữ tại Nga, được mở ra và cho phép sử dụng, những tài liệu này
trước đây do Viện Mác-Lênin quản lý về sau đổi thành Trung tâm Lưu
trữ và Nghiên cứu các Tài liệu Lịch sử Hiện đại (Center for the
Preservation and Study of Documents of Modern History, viết tắt:
RC). Trong những nguồn tài liệu được khai thác để hình thành luận
án nói trên, hiển nhiên sự đóng góp quan trọng nhất, mới mẻ nhất
chính là những tài liệu trong Hồ sơ QTCS mà tác giả đã khai
thác được năm 1992 khi bà làm việc tại Nga, sau khi Liên Xô sụp đổ.
Tác dụng của những tài liệu ấy đối với việc nghiên cứu về một
nhân vật đã thành “huyền thoại” như Hồ Chí Minh là quá rõ ràng. Hàng
loạt vấn đề chắc chắn sẽ được đặt lại và xem xét lại dưới ánh sáng
của những tư liệu đó: những suy đoán vô bằng, huyễn hoặc (đến từ
nhiều phía) trong chừng mực nào đó có thể sẽ được bác bỏ, những giả
đoán thực tế nhưng trước đây chưa đủ cơ sở có thể sẽ được làm sáng
tỏ để khẳng định, và cũng có thể một loạt những kiến giải mới sẽ
xuất hiện để tiếp tục thúc đẩy xa hơn việc nghiên cứu đề tài này.
Rất tiếc là những tài liệu ấy vẫn chưa được công bố nguyên bản, đầy
đủ – giống như những tài liệu của CAOM mà Daniel Hémery đã
công bố về “cuộc ra đi tìm đường cứu nước” năm 1911 của Hồ Chí Minh
lúc còn là Nguyễn Tất Thành – để những người nghiên cứu không có
điều kiều kiện (và cả may mắn) tiếp cận những tài liệu đầu tay ấy
vẫn có thể sử dụng được.
Do không trực tiếp có được những tài liệu đó, chúng tôi đã dựa
vào luận án nói trên (chủ yếu với Hồ sơ của QTCS được khai
thác) như một nguồn thứ cấp để viết nên chương sách này. Trong việc
lấy lại những ý kiến của tác giả, chúng tôi chỉ ghi tên tác giả cùng
với luận án đã dẫn (thí dụ: Sophie QuinJudge: Sđd); còn trường hợp
cần phải nêu ra một sự kiện quan trọng nâng đỡ cho một luận cứ riêng
biệt nào đó, để tránh cho người người đọc một cảm giác về sự khẳng
định vô bằng, chúng tôi sẽ chú thích thêm nguồn tài liệu do tác giả
đã chú thích, bên cạnh luận án đã dẫn của chính tác giả (thí dụ: RC,
495, 154, 556, p.17; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd). Dù có chú giải
theo cách nào đi nữa thì công việc của chúng tôi đều đặt trên giả
định về sự đích thực của tài liệu mà tác giả dẫn chứng. Trong nghiên
cứu, có thể đó là một thách thức vì có thể có nhiều cách hiểu khác
nhau về một tài liệu, nhưng do những điều kiện rất giới hạn của
mình, như đã nói, chúng tôi không biết làm gì hơn.
Chỉ thị 12-9-1927 về Đông Dương
1. Sau cuộc đảo chính tháng 4-1927 của Tưởng Giới Thạch,
Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Châu lên Thượng Hải, qua Vladivostok, khoảng
tháng 6-1927 thì trở lại Moskva. Trên đường đi, gặp Voitinsky (đại
biểu QTCS làm việc với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc), Nguyễn
được thuyết phục nên trở lại Thượng Hải để hoạt động trong đám lính
Pháp và Việt Nam đang làm việc ở đấy, nhưng anh trả lời rằng đối với
anh việc quan trọng hơn là tiếp tục công việc đang bỏ dở đối với
Việt Nam sau sự biến tháng 4-1927 ở Trung Quốc. Tại Moskva, Nguyễn
gặp nhóm 5 người Việt Nam đang học tại Đại học phương Đông (Nguyễn
Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Bùi Lâm, Trần Phú), viết một
báo cáo cho Nông hội Quốc tế về phong trào nông dân ở Quảng Đông,
trị bệnh một thời gian ở Crimée đến tháng 11-1927 sang Paris tìm
đường về Xiêm.
2. Trên đường sang Paris, Nguyễn đã mang theo chỉ thị đề ngày
12-9-1927 của QTCS trong đó nói rõ phương hướng thành lập Đảng Cộng
sản Đông Dương mà anh được giao nhiệm vụ thực hiện. Mặc dù ra đời
sau sự thất bại ở Trung Quốc năm 1927, nội dung hai trang chỉ thị
nói trên của QTCS vẫn chưa có gì thay đổi đối với đường lối mặt trận
thống nhất trong Đại hội 5 QTCS năm 1924 mà Nguyễn có tham dự: dựa
trên cơ sở của những tổ chức cách mạng quốc gia và những phần tử
cánh tả của những tổ chức ấy để hoạt động và thành lập đảng cộng
sản. Khẩu hiệu tranh đấu vẫn là độc lập dân tộc, ruộng đất cho nông
dân, quyền lợi của công nhân, tự do dân chủ trong sinh hoạt chính
trị …
Chỉ thị hướng dẫn một cách cụ thể những việc mà Nguyễn cần phải làm:
liên hệ với những “Việt kiều” tại Pháp tạo ra những hạt nhân cách
mạng, hợp tác với Đảng Cộng sản Pháp xây dựng chương trình hành động
cho Đông Dương, sau đó sẽ tìm cách chuyển cách mạng về bản địa. Chỉ
thị căn dặn rằng sau khi đã có kế hoạch, Nguyễn cần phải thảo luận
lại cho rõ với Ban Chấp hành QTCS trước khi quyết định xem nên về
Xiêm hay một nước khác nào đó kế cận Đông Dương để triển khai công
việc.
3. Khi sang Paris, do Đảng Cộng sản Pháp đang bị đàn áp,
Doriot, phụ trách Uỷ ban Thuộc địa của Đảng bị bắt, nên Nguyễn không
thể theo đúng được kế hoạch do QTCS đã vạch. Nguyễn cho biết đã tìm
cách liên hệ với Uỷ ban thuộc địa nhưng đã bị các thành viên tránh
né, ngay cả việc xin địa chỉ cũng không được.
Tháng 12-1927 Nguyễn qua Brussels để dự một hội nghị mà nhiều tác
giả đã cho rằng đó là Đại hội lần thứ nhất Liên đoàn chống đế quốc.
Thật ra không đúng vì Đại hội này đã họp vào tháng 2-1927 trước đó
cả năm rồi. Hội nghị mà Nguyễn dự có lẽ là cuộc họp chuyển tiếp của
Ban Chấp hành Liên đoàn diễn ra ngày 9-12-1927. Liên đoàn chống đế
quốc đã là một địa điểm liên lạc quan trọng, ở đó Nguyễn đã gặp bà
Tống Khánh Linh (vợ goá của Tôn Dật Tiên) cuối năm 1927 có đến
Berlin vận động thành lập một “Đảng thứ ba” cho Trung Quốc.
Nguyễn sang Berlin và ở đó từ giữa tháng 12-1927 đến tháng 5-1928,
chờ thêm chỉ thị và tiền của QTCS. Trong khi chờ đợi, Nguyễn nhận
trợ cấp của Cứu tế Đỏ 18 mác mỗi tuần, số tiền mà Nguyễn cho rằng
chỉ ăn cũng không đủ. Trong thời gian này, Nguyễn đã viết một báo
cáo về phong trào nông dân Quảng Đông, coi Bành Bái là anh hùng.
Quốc tế Nông dân không xuất bản, nhưng nhiều đoạn của tài liệu này
cũng đã xuất hiện trên một vài cơ sở in ấn khác.
4. Tháng 2-1928, QTCS họp toàn thể ban chấp hành, chuẩn bị
cho Đại hội lần thứ 6. Doriot, sau khi được thả, trên đường đi dự,
ghé qua Berlin, có gặp Nguyễn và hứa chú ý giải quyết vấn đề công
tác của anh, nhưng đến nửa tháng 4, Nguyễn vẫn không được tin tức gì
của Doriot lẫn Moskva. Liên hệ với Quốc tế Nông dân cũng không đi
đến đâu. Viết thư xin 500 đôla và một kế hoạch tổ chức thực hiện thì
được tổng thư ký Quốc tế Nông dân là Dombal trả lời vì hiểu quá ít
về Đông Dương nên không giúp được gì cho Nguyễn (về tiền bạc lẫn kế
hoạch), chỉ khuyên Nguyễn nên sử dụng kinh nghiệm về phong trào nông
dân Trung Quốc để tổ chức các hiệp hội.
12-4-1928, Nguyễn cầu cứu tới Humbert-Droz người Thuỵ Sĩ trong Ban
bí thư QTCS, phụ trách các thuộc địa của Pháp, với những lời lẽ thật
thảm thiết như sau:
“Đồng chí có thể tưởng tượng tình trạng tinh thần và vật chất của
tôi hiện nay như thế nào: biết rằng có nhiều việc phải làm, nhưng
chẳng làm được gì, ở không, không tiền bạc, sống qua ngày trong tình
trạng bị ép buộc phải ở không”.
Cuối cùng rồi cũng được việc: Humbert-Droz đã đồng ý cung cấp cho
Nguyễn chi phí cho chuyến đi và 3 tháng công tác với những lời dặn:
“Những gì mà chúng tôi gửi đồng chí sau này sẽ tuỳ thuộc vào tin
tức của đồng chí. Tôi nghĩ đồng chí cần khôn khéo hơn để tự lo liệu,
không cần nhờ đến sự giúp đỡ nào cả”
[1].
Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản
Tháng 5-1928, Nguyễn qua Thuỵ Sĩ, đến Ý, từ đó bằng tàu thuỷ đi
Bangkok. Trong khi Nguyễn lên đường, Đại hội 6 QTCS đã diễn ra – từ
17-7 đến 1-8-1928. Sự kiện này đã ảnh hưởng rất nặng nề đối với sự
nghiệp của Nguyễn trong một thời gian khá dài.
1. Nhìn vấn đề theo thời gian thì Đại hội 6 QTCS chỉ là biểu
hiện bên ngoài của quá trình tranh chấp quyền lực và đường lối cực
kỳ ác liệt trong nội bộ Đảng CS Liên Xô. Sau khi thanh toán xong
nhóm đối lập khuynh tả của Trotsky trong Đại hội 15 (cuối 1927),
Stalin đã tỏ ý muốn chấm dứt NEP, đẩy mạnh tập thể hoá nông nghiệp
và công nghiệp hoá để, trước tình hình phong trào gọi là “cách mạng
vô sản thế giới” ngày càng tỏ ra vô vọng, Liên Xô có thể tồn tại
được trong sự bao vây của những nước tư bản. Đường lối này không có
gì mới, nhiều điều đã được Trotsky đề xuất và đã bị kết án là “tả
khuynh”, cho nên dự định mà Stalin đưa ra đã gặp phản ứng của chính
những đồng minh chống Trosky trước đây (Bukharin, Rykov, Tomsky…)
[2]. Do chưa tạo đủ thực lực để
thanh toán phe chống đối mới xuất hiện này – được gọi là “Nhóm đối
lập khuynh hữu”–, Stalin đã tạm hoà hoãn và tìm cách chuyển vấn đề
sang phạm vi quốc tế với nội dung tương ứng: đẩy phe Dân chủ-Xã hội
về phía cực hữu, ngang hàng với bọn tư bản phản động và phát xít vì
đã giương cao chiêu bài “hoà bình” phục vụ cho cuộc chiến tranh sắp
tới của chủ nghĩa đế quốc. Nhiệm vụ chống Dân chủ-Xã hội do đó cũng
quan trọng như việc lập mặt trận thống nhất giữa “nhân dân lao động”
trong các nước tư bản với các nước thuộc địa để biến chiến tranh đế
quốc, trong trường hợp nổ ra, thành nội chiến, lật đổ tư bản, phát
xít, thiết lập quyền lực xô viết, bảo vệ Liên Xô.
2. Chủ trương này đã được Stalin nói rất rõ khi báo cáo Nghị
quyết Hội nghị toàn thể tháng 7-1928 của Ban chấp hành ĐCSLX cho
Đảng bộ Lenigrad ngày 13-7-1928
[3] , và giao cho Bukharin phổ
biến tại Đại hội 6 QTCS, nhưng lại để cho các đại biểu Liên Xô công
khai hạ uy tín bằng cách chỉ trích một số điểm của Đề cương mà
Bukharin đã trình bày. Qua báo cáo ấy cùng với Nghị quyết của Đại
hội, những nhà nghiên cứu đã ghi nhận mấy điểm quan trọng về đường
lối của QTCS đối với những nước phụ thuộc và thuộc địa như sau:
-
Chủ nghĩa đế quốc đang chuẩn bị gây chiến, nên
tất cả những phong trào chống đế quốc ở những thuộc địa phải
liên minh với Liên Xô và giai cấp vô sản ở những nước đế quốc để
chống chiến tranh, bảo vệ Liên Xô. Xét về mặt phát triển, hợp
tác và chấp nhận sự lãnh đạo của Liên Xô, những nước phụ thuộc
và thuộc địa có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
-
Những sai lầm trong sự hợp tác với Quốc dân Đảng
trong những năm 1925-1927 không bắt nguồn từ đường lối của QTCS
mà là do Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quá coi trọng thực lực của
giai cấp tư sản, nên mất cảnh giác, không giữ vững tính độc lập
của mình, sau đó khi sự biến tháng tháng 4-1927 xảy ra thì lại
làm ngược lại, coi thường thực lực của giai cấp tư sản, đưa đến
chỗ manh động khởi nghĩa gây ra tổn thất nặng nề. Dù vậy, tình
hình cách mạng ở Trung Quốc vẫn đi theo xu thế phát triển, Đảng
Cộng sản cần củng cố về chiều sâu lực lượng công nông để chuẩn
bị cuộc tấn công mới
[4].
-
Theo tinh thần của Nghị quyết, cùng với việc coi
phe Dân chủ-Xã hội ở những nước đế quốc là kẻ thù ngang hàng với
chủ nghĩa đế quốc, cũng phải chấm dứt việc thành lập mặt trận
thống nhất “từ bên trên” với các thế lực tư sản dân tộc
theo xu hướng cải lương ở những nước thuộc địa. Còn đối với
những thế lực
tiểu tư sản có thể cùng hành động thì phải hết sức đề cao
cảnh giác: chỉ hợp tác trong những thời gian nhất định và chỉ
trong điều kiện nắm được bá quyền cách mạng. Nhiệm vụ đặt ra cho
các đảng cộng sản nói chung là chuẩn bị khí thế, lấy tinh thần
“giai cấp chống giai cấp” làm phương châm hành động, xâm nhập
các nghiệp đoàn, tổ chức nông dân, chuẩn bị các Xô Viết có thể
hình thành bằng những cuộc vũ trang khởi nghĩa
[5].
3. Bấy giờ Việt Nam chưa có Đảng Cộng sản, phong trào cách
mạng Việt Nam lại do Đảng Cộng sản Pháp phụ trách, cho nên ba đại
biểu Việt Nam dự Đại hội 6 QTCS đã do Đảng Pháp giới thiệu. Một
người là Nguyễn Thế Vịnh (thuộc gia đình Nguyễn Thế Truyền và đã học
tại Moskva từ tháng 7 đến tháng 11-1927, nhưng sau bỏ học vì bệnh);
một người tên Ban (sau Đại hội một thời gian thì bỏ Đảng). Cả hai
người này cuối cùng không được Đại hội chấp nhận tư cách đại biểu;
theo một lá thư của một người Việt Nam ở Paris gửi Ban phương Đông
thì lý do là một người đã lên tiếng chỉ trích Uỷ ban Thuộc địa của
Đảng Pháp.
Đại biểu Việt Nam còn lại là Nguyễn Văn Tạo, vốn là một đảng viên
Đảng CS Pháp, đã tổ chức một nhóm cộng sản Việt Nam tại Paris vào
tháng 4-1928. Với bí danh An, đại biểu này đã báo cáo tình hình giai
cấp ở Việt Nam: sự phá sản của tiểu công nghiệp do cạnh tranh không
lại với những công ty của tư sản dân tộc và đế quốc, trong khi đó
thì nông nghiệp đình đốn, tất cả đã làm tăng lên gia cấp vô sản. Đọc
báo cáo của Nguyễn Văn Tạo, Sophie Quinn-Judge cho biết không thấy
nhắc đến hoạt động của của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội do
Nguyễn Ái Quốc khởi xướng ở Quảng Châu trong những năm 1925-1927.
Tác giả cũng cho biết những người Việt Nam đang có mặt tại Moskva
lúc bấy giờ là Trần Phú, Ngô Đức Trì, Lê Hồng Phong đã được mời tham
dự Đại hội chỉ với tư cách là quan sát viên
[6].
4. Những sự kiện trên đây cho biết ngay từ khi chuẩn bị, Đại
hội 6 QTCS đã có tác động ngay đến phong trào cộng sản Việt Nam.
Nhưng tác động ấy chỉ trở nên rõ ràng một năm sau khi sự chuyển
hướng về đường lối của Stalin bộc lộ một cách đầy đủ trong Hội nghị
toàn thể lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương và Ban kiểm tra trung
ương của Đảng Cộng sản Liên Xô họp vào tháng 4-1929, Stalin giành
được phần thắng đã tuyên bố khai trừ Bukharin và Tomsky khỏi mọi
chức vụ, cảnh cáo sẽ có những biện pháp mạnh hơn nếu những người này
cứ tiếp tục chống đối
[7].
Ba tháng sau, ngày 3-7-1929, Hội nghị toàn thể Ban chấp hành QTCS
họp lần thứ 10, Kuunisen thay thế Bukharin phụ trách QTCS đã có thể
khai triển đến tối đa đường lối chống khuynh hữu của Stalin trên
phương diện đối ngoại với báo cáo mang tên Hoàn cảnh quốc tế và
nhiệm vụ của QTCS, trong báo cáo này vấn đề kỷ luật trong QTCS
đã được đặt ra một cách quyết liệt: đảng nào không tuân phục chủ
trương đưa ra khỏi hàng ngũ những phần tử cơ hội, hữu khuynh đảng ấy
sẽ bị khai trừ khỏi QTCS. Kuunisen tuyên bố đường lối mới của QTCS
là “giai cấp chống giai cấp”, phong trào cộng sản là một khối thuần
khiết, một lực lượng vĩ đại của giai cấp vô sản cách mạng toàn cầu.
M. N. Roy, tại Đại hội 5, bị phê bình vì đã nghi ngờ chính sách mặt
trận thống nhất với giai cấp tư sản ở những nước thuộc địa thì lần
này lại bị phê bình vì đã thanh toán xong mối nghi ngờ đó
[8].
“Quả trứng cộng sản” sau Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản
Sự phát triển của phong trào cách mạng cộng sản Việt Nam trong những
năm 30 của thế kỷ 20, như vậy, cũng theo tình hình trong nội bộ Đảng
Cộng sản mà bộc lộ thành hai xu hướng đối địch nhau: một bên đại
diện cho Đại hội 6 và một bên đại diện cho Đại hội 5 QTCS. Và bởi vì
ở Việt Nam, đại diện cho Đại hội 5 là Nguyễn Ái Quốc và Thanh Niên
cho nên xu hướng này đã gánh chịu sự công kích cực kỳ gay gắt của
các những thành phần đại biểu cho Đại hội 6 trong suốt một thời gian
khá dài, đến cả sau Đại hội 7 QTCS (1935) cũng chưa chấm dứt.
1. Tất cả đều khởi đầu từ chủ trương “bônsêvích hoá” quá
nhiệt tình của nhóm Bắc kỳ
[9]. Sau khi tự động thành lập
một chi bộ cộng sản (đầu tiên), nhóm này đã vận động chuyển Thanh
Niên thành Đảng Cộng sản vì cho rằng Thanh Niên đã lỗi thời về ý
thức hệ và tổ chức, không phù hợp với khái niệm “đội tiền phong” của
Lenin. Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân được
cử đi dự Đại hội I Thanh Niên họp tại Hồng Kông từ ngày 1 đến
9-5-1929, đã đưa ra đề nghị nói trên. Nhưng Tổng bộ, được sự đồng ý
của Nhóm Nam kỳ và Xiêm, đã bác bỏ, viện lý do là chưa đủ điều kiện,
nên cần phải chuẩn bị
[10]. Trừ Dương Hạc Đính, số còn
lại đã bỏ ra về. Các nhóm khác ở lại tiếp tục họp sau đó ra tuyên bố
kết án nhóm Bắc kỳ là “trẻ con”, cần phải bị khai trừ vĩnh viễn vì
không còn xứng đáng đứng trong hàng ngũ cách mạng nữa.
Nhóm Bắc kỳ trở về đã trả đũa lại khá gay gắt. Họ đã ra một tuyên bố
kết án những người lãnh đạo Thanh Niên là “nhóm tiểu tư sản khởi
xướng ra những thứ cách mạng giả hiệu” vì những người này đã “gửi
đại biểu đi dự Hội nghị toàn quốc của Quốc dân Đảng chống cách mạng,
chống công nhân”. Tuyên bố kêu gọi đánh đổ bọn cách mạng giả hiệu,
bọn lừa bịp công nông, tổ chức ra một Đảng Cộng sản, lãnh đạo và
giúp giai cấp vô sản làm cách mạng
[11]. Vào ngày 17-6-1929, hơn 20
đại biểu của các chi bộ ở Bắc kỳ đã họp tại Hà Nội lập ra Đảng Cộng
sản Đông Dương với một chương trình hành động rập khuôn theo Cương
lĩnh của QTCS Đại hội 6
[12].
2. Trước sự lấn lướt của ĐCSĐD, đẩy lùi dần ảnh hưởng các
nhóm Thanh Niên ở Bắc và Trung, những Thanh Niên Nam kỳ còn lại đã
liên hệ và muốn sáp nhập vào ĐCSĐD nhưng bị từ chối. Được sự khuyến
khích của nhóm Thanh Niên hải ngoại ở Hồng Kông, nhóm Nam kỳ quyết
định giải thể Thanh Niên và chuyển thành một Đảng Cộng sản mệnh danh
là Annam Cộng sản Đảng (cuối tháng 8-1929)
[13] , đảng này được hầu hết
những thành viên của Thanh Niên còn lại thừa nhận. Và thế là xảy ra
cuộc tranh giành danh nghĩa quyết liệt giữa hai “đảng cộng sản”.
Nhóm “Đông Dương” vẫn dùng những luận điệu đả kích tổ chức Thanh
Niên đã tan vỡ để chỉ trích nhóm “An Nam”, gọi nhóm này những kẻ “cơ
hội ngả nghiêng”, hôm qua còn ra sức bảo vệ Thanh Niên, từ chối thảo
luận vấn đề thành lập Đảng Cộng sản, nay thấy mấy chữ “cộng sản” có
thể lôi kéo quần chúng thì cũng vội vã tổ chức ra một đảng mang tên
như vậy. Thực tế đó chỉ là những người cộng sản giả hiệu, họ dùng
mấy chữ “cộng sản” để phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của họ. Nhóm “An
Nam” cũng không để bị lấn lướt. Theo họ, những người trong ĐDCSĐ
không phải là một tổ chức cách mạng đích thực. Đó chỉ là một nhóm
bônsêvích vô tổ chức, quá khích, lệch lạc, ấu trĩ, so với những
những người cộng sản chân chính thì giống như một thứ “gà đội lốt
công”
[14]!
Một Đảng Cộng sản thứ ba cũng ra đời vào năm 1929 từ sự phân hoá của
Tân Việt Cách mạng Đảng ở miền Trung, đảng này khởi đầu vốn theo chủ
nghĩa quốc gia nhưng do một số người lãnh đạo như Lê Duy Điếm, Trần
Phú… tiếp xúc với Thanh Niên dần dần chịu ảnh hưởng nên đã lấy Thanh
Niên làm mẫu mực về cương lĩnh và tổ chức. Những do bản thân Tân
Việt bao gồm nhiều thành phần khác nhau nên nhiều lần xúc tiến hợp
nhất với Thanh Niên đã không thành. Sau Đại hội Thanh Niên tháng
5-1929 thất bại dẫn đến việc thành lập ĐCSĐD, Tân Việt đã chuyển
hướng, muốn quay sang sáp nhập với Đảng Cộng sản mới thành lập này.
Nhưng cuộc vận động cũng không xong: điều kiện của ĐCSĐD đòi Tân
Việt giải thể với tư cách là tổ chức, rồi sau đó sẽ gia nhập với tư
cách là những cá nhân là không chấp nhận được. Trước tình thế ấy, bộ
phận cánh tả trong Tân Việt đã ly khai tổ chức cũ để thành lập một
Đảng Cộng sản khác tên gọi là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
[15] , tuyên bố cùng ĐDCSĐ và
ANCSĐ “liên hợp thành thành một tổ chức cộng sản xứ Đông Dương để
cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất”
[16].
Nguyễn Ái Quốc và việc hợp nhất các “Đảng Cộng sản”
Sự ra đời của Đảng Cộng sản thứ ba này đã là nhát búa cuối cùng đóng
vào cái nắp quan tài Hội Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc thành lập năm
1925 và Đại hội Thanh Niên lần thứ nhất diễn ra vào tháng 5-1929
cũng là Đại hội cuối cùng của nó. Theo cách lý giải của những nhà ý
thức hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam về sau thì hiện tượng đó đã mang
ý nghĩa của sự “khủng hoảng trưởng thành của phong trào công nhân và
dân tộc ở Việt Nam”
[17]. Nhưng theo lời lẽ của
chính người đã tạo ra “phong trào” ấy là Nguyễn Ái Quốc thì đó là
“chính sách sai lầm của những người cộng sản” – những người này
trong khi làm cho “con chim non cộng sản” ra đời đã “phá huỷ gần hết
cái vỏ” của “quả trứng” đã cưu mang nó mà chẳng làm được gì hơn là
“sử dụng nhiều – nếu không nói là tất cả – nghị lực và thời gian
trong các cuộc đấu tranh nội bộ và bè phái”
[18].
Nhưng Nguyễn Ái Quốc có trách nhiệm gì và đã giải quyết như thế nào
tình trạng hỗn loạn cộng sản nói trên?
1. Chúng ta hãy đọc những dòng mà Nguyễn Ái Quốc đã gửi QTCS
ngày 18-3-1930 nói về thời kỳ anh công tác ở Xiêm:
A. 1) Nhận được chỉ thị của QTCS về công tác ở Đông Dương, tôi từ
giã nước Đức vào tháng 6 và đến Xiêm vào tháng 7-1928. Tôi đã làm
việc với một số người Annam di cư ở đấy tới tháng 11-1929.
2) Những điều kiện ở Xiêm (đúng hơn là cả ở Lào)
a) Dân cư rất phân tán, hầu hết theo đạo Phật, một số ít theo đạo
Thiên Chúa, chừng 10 hay 15 nghìn người Annam di cư ở Xiêm và cả ở
Lào. Hơn một nửa trong số họ đã nhiều thế hệ theo đạo Thiên Chúa.
(…)
B. Công tác của tôi ở Lào
1) Do những điều kiện của người Annam (nông dân tự do, thợ thủ
công, tiểu thương), họ chỉ có thể được tổ chức vào “Hội Ái hữu” với
tư tưởng yêu nước và chống đế quốc. Trước đậy họ có hơn 1000 người.
Nhưng hiện nay ít hơn vì những người Annam theo đạo Thiên chúa bị
các giám mục người Pháp đe dọa rút phép thông công nên họ đã rút ra
khỏi Hội Ái hữu.
2) Ba trường học đã được tổ chức. Một trường khác sắp được tổ
chức nhưng phải hoãn lại vì : a) Địa điểm gần người Pháp, b) Tỉnh
trưởng người Xiêm theo đạo Thiên chúa, c) Có một nhà thờ do người
Pháp làm cố đạo, dĩ nhiên là ông ta chống lại chúng tôi.
3) Một tờ báo, tờ “Thân Ái” sắp được xuất bản.
C. Đi về Annam
Đã hai lần tôi cố gắng về Annam, nhưng phải quay trở lại. Bọn
cảnh sát và mật thám ở biên giới quá cẩn mật, đặc biệt là từ khi xảy
ra vụ Annam “Quốc dân Đảng”
[19].
Chúng ta đều biết sau sự biến tháng 4-1927 ở Trung Quốc, Nguyễn Ái
Quốc đã nhất định về châu Á để tiếp tục hoạt động và trên đường về
Xiêm, anh đã mang theo chỉ thị 12-9-1927 của QTCS về việc thành lập
đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng qua báo cáo của Nguyễn về thời gian
công tác tại Xiêm chúng ta cũng thấy nhiệm vụ nói trên của anh đã
không được hoàn thành: dự định về nước bị cản trở, móc ráp với cơ sở
để chỉ đạo các hoạt động trong nước không có, tất cả công việc ở
Xiêm, qua báo cáo nói trên, cũng chẳng có gì quan trọng.
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần
Dân Tiên
[20] và Vừa đi vừa kể chuyện
của T.L
[21] cũng không cho chúng ta
thấy gì thêm: ngoài việc thành lập Hội Thân ái Việt Nam và tuần báo
Thân ái, mở trường học dạy trẻ con, tất cả những thứ còn lại đều
chỉ là những chi tiết trong những chuyện kể phiêu lưu cách mạng,
chẳng hạn như bị mật thám theo dõi đến nỗi phải tạm thời cắt tóc… đi
tu! Những kẻ sùng bái ông Hồ có cố gắng sưu tầm ra những chi tiết
cốt để làm cho thời gian đó trở nên quan trọng hơn nhưng vẫn không
thoát khỏi những chuyện tủn mủn tương tự. Chúng ta biết thêm được
hình ảnh “gầy gò” của Nguyễn – dưới bí danh Thầu Chín – bất ngờ xuất
hiện ở Phi Chít (Trung bộ nước Xiêm ) rồi đi về Odon (Đông Bắc Xiêm)
trong những buổi đọc báo, học tiếng Xiêm, lập tủ thuốc, diễn kịch
(bài ca Đức Thánh Trần…) cuốc đất, vác gạch, dịch sách (ABC Cộng
sản, Nhân loại tiến hoá sử)… hoà mình với quần chúng để vận động
[22] , nhưng tất cả đều chỉ giới
hạn trong một khu vực người Việt Nam không thuận lợi, chẳng có gì
tác động quan trọng đến tình hình trong nước cả. 16 tháng ở Xiêm mà
chỉ với những công việc như vậy thì một cán bộ Thanh Niên nào đó vẫn
có thể làm được.
2. Cũng trong báo cáo gửi QTCS ngày 18-2-1930 nói trên,
Nguyễn Ái Quốc cũng cho biết đã đi Trung Quốc để tiến hành hội nghị
hợp nhất như thế nào:
“Tôi đã cố gắng đi lần thứ ba khi một đồng chí từ Hồng Kông tới
Xiêm và tin cho tôi biết tình hình Hội An Nam Thanh Niên Cách mạng
bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái v.v…
Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó ngày 23-12. Sau đó tôi triệu
tập Đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam). Chúng tôi họp vào
ngày mồng 6-1.
Với tư cách là phái viên của QTCS có đầy đủ quyền quyết định mọi
vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng Đông Dương, tôi nói cho họ
biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một
đảng.
Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường
lối của QTCS.
Các đại biểu phải tổ chức một Trung ương lâm thời gồm 7 uỷ viên
chính thức và 7 uỷ viên dự khuyết. Các đại biểu trở về An Nam ngày
8-2”
[23].
Nhưng thực tế cho chúng ta biết sự việc đã không diễn ra hoàn toàn
đơn giản như Nguyễn đã viết.
-
Theo báo cáo thì dường như khi còn ở Xiêm, cùng
với việc không liên hệ gì với QTCS, Nguyễn Ái Quốc cũng không
biết nhiều về sự phân liệt trong phong trào cộng sản Việt Nam
sau Đại hội 6 QTCS. Nguyễn chỉ biết tình hình ấy khi có người
sang cho hay, và chỉ khi đó Nguyễn mới tìm cách đi giải quyết.
Và khi gặp gỡ các đại biểu trong Hội nghị, Nguyễn đã gây nghi
ngại không ít cho một số người: như chúng ta đã biết, trước Hội
nghị hợp nhất, nhóm Bắc kỳ chỉ muốn coi Nguyễn như một thành
viên Thanh Niên bình thường, và vì tổ chức này cần giải tán, nên
Nguyễn cũng không còn được coi đương nhiên là người lãnh đạo cao
nhất của phong trào. Và cũng chính vì vậy mà ngay trong Hội nghị
hợp nhất, một thành viên của “Đông Dương” đã đòi Nguyễn phải
trưng bằng cớ là người đại diện thật sự cho QTCS để chủ trì hội
nghị
[24].
-
Cũng theo báo cáo thì Hội nghị hợp nhất đã được
tổ chức theo đường lối của QTCS. Nhưng những diễn biến về sau
cho biết đường lối đó không còn phù hợp với đường lối do Đại hội
6 QTCS vạch ra. Như chúng ta đã biết tinh thần của hai đại hội
này khác nhau hoàn toàn cho nên, kết quả của Hội nghị hợp nhất
cũng rất bấp bênh. Những gì diễn ra sau đó đã chứng minh rằng
những người nắm giữ thật sự đường lối của QTCS sau Đại hội 6 là
Ngô Đức Trì và Trần Phú vừa tốt nghiệp xong trường Stalin từ
Liên Xô trở về chứ không phải là ai khác. Văn bản mới nhất mà
hai người này nắm được để định hướng cho phong trào cộng sản
Việt Nam là chỉ thị ngày 17-10-1929; nội dung của chỉ thị đó,
theo lời khai của Ngô Đức Trì với mật thám sau khi bị bắt, là
hướng dẫn thành lập ra những nhóm cộng sản trước rồi sau đó mới
lập ra Đảng. Chỉ thị cũng nói rõ là trong khi cần phải hợp tác
chặt chẽ vớí các nhóm cộng sản Trung Quốc thì phải tránh nhập
nhằng với những đảng quốc gia kiểu như Đảng Độc lập của Nguyễn
Thế Truyền mới thành lập ở Pháp.
-
Cùng với chỉ thị trên, Ngô Đức Trì và Trần Phú
cũng được QTCS cung cấp cho một tài liệu 48 trang tựa đề “Về
nhiệm vụ trước mắt của những người cộng sản Đông Dương” soạn vào
tháng 11-1929 trong đó nội dung của Đại hội 6 QTCS và Hội nghị
10 Ban chấp hành QTCS đã được diễn giảng rõ ràng. Đặc biệt nhất
là khi áp dụng vào thực tế, tài liệu đã phê phán Đại hội Thanh
Niên tháng 5-1929 là thiếu quan điểm giai cấp. Tài liệu chỉ ra
rằng tiểu tư sản không còn là “lực lượng cách mạng” nữa. Lực
lượng cách mạng nhất trong nông dân là bần nông và tiểu nông.
Phải vận động nông dân chống địa chủ (tô tức, thuế…). Quan hệ
với những đảng phái khác hoàn toàn chỉ là lợi dụng, khai thác.
Phải thành lập một đảng cộng sản bí mật để sử dụng những biện
pháp công khai và bán công khai. Chuẩn bị bạo động khi có điều
kiện
[25].
Kết quả Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành 10-1930
1. Chính là trên những tài liệu mới này, Ngô Đức Trì và Trần
Phú, nhân danh Đại hội 6 QTCS, đã triệu tập Ban Chấp hành Đảng Cộng
sản Việt Nam vào tháng 10-1930 phủ định toàn bộ những gì mà Nguyễn
Ái Quốc đã thực hiện trong Hội nghị hợp nhất trước đó 8 tháng. Cương
lĩnh tháng 2-1930 mà Nguyễn đưa ra trong Hội nghị hợp nhất đã bị
thay thế bằng những luận đề và nghị quyết phù hợp với Đại hội 6
QTCS: đấu tranh chứ không liên hiệp giai cấp nữa. Những phần tử yêu
nước có nguồn gốc trung gian sẽ bị thanh lọc. Trần Phú được bầu làm
Thư ký, Ngô Đức Trì và Nguyễn Trọng Nghĩa cùng với hai người khác
nữa là Thường vụ.
Theo Ngô Đức Trì (khi bị bắt đã khai với mật thám Pháp)
[26] sau Hội nghị hợp nhất,
Nguyễn và Trần Phú cùng đi Thượng Hải để báo cáo với Ban phương
Đông. Trần Phú trở về Hồng Kông đã mang theo một bức thư của Nguyễn,
trong thư này Nguyễn thú nhận Hội nghị hợp nhất đã được tổ chức vội
vã, có nhiều sai sót trong lãnh đạo do thiếu thông tin trong nước.
Nguyễn cũng đồng ý đổi tên Đảng thành ĐDCSĐ.
Với những kết quả như trên, có thể coi Hội nghị Toàn thể Ban Chấp
hành tháng 10-1930 giống như một đảo chính cung đình rất quen thuộc
trong những cuộc thanh lọc của những đảng cộng sản. Trong cuộc thanh
lọc ấy, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành đối tượng của sự phê phán, phủ
định quyết liệt.
2. Vì tầm quan trọng của vấn đề, ngoài những xử lý cá nhân
trong nội bộ, “vấn đề Nguyễn Ái Quốc” phải được công bố cho toàn bộ
phong trào. Điều này được thể hiện trong thư ngày 9-12-1930 của
Trung ương Thường vụ gửi các cấp đảng bộ, vạch ra những sai lầm của
Nguyễn về Hội nghị hiệp nhất, phê bình hội nghị ấy là “rất sơ sài”,
“có nhiều điều không đúng với chủ trương quốc tế”
[27]. Có thể tóm tắt nội dung
của bức thư ấy trong mấy điểm như sau:
-
Hội nghị hợp nhất không lấy tư tưởng làm nền để
“hiệp nhất” các nhóm cộng sản (“Đông Dương”, “An Nam”, “Cộng sản
Liên đoàn”) nên vẫn không chấm dứt được tình trạng hỗn tạp trong
hành động và tư tưởng trong đảng.
-
Lấy tên Đảng là Cộng sản Việt Nam là không đúng:
Việt Nam, Cao Mên, Lào cùng bị đế quốc Pháp thống trị, sinh hoạt
kinh tế “mật thiết liên lạc với nhau”-
-
Chính cương vắn tắt
của Hội nghị hiệp nhất mơ hồ về tính chất đấu tranh giai cấp.
Với địa chủ: không thể chia địa chủ thành “đại, tiểu và trung”
rồi cho rằng hạng này có thể theo, hạng kia có thể phản cách
mạng; tất cả bọn chúng đều là giai cấp bóc lột và liên kết với
đế quốc để bóc lột, vì vậy không thể chủ trương lợi dụng hay
trung lập hóa mà phải tiêu diệt, tịch thu tất cả ruộng đất của
chúng chia cho bần và trung nông (cố nông không nằm trong phạm
trù dân cày mà là vô sản).
-
Đối với tư sản: Cũng không thể mập mờ nói chuyện
“lợi dụng” những phần tử tư sản gọi là “chưa phản cách mạng” như
Chánh cương sách lược. “Ảnh hưởng của bọn tư bản trong quần
chúng công nông là rất nguy hiểm cho phong trào cách mạng. Bởi
vậy cần phải gỡ cái mặt nạ của bọn tư bổn trong quần chúng để
giành lấy quần chúng”
-
Những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc về việc “hiệp
nhất”:
“Đồng chí đứng ra chiêu tập H.n.h.n năm trước kia được Q.t
cho về tuỳ hoàn cảnh mà làm việc chứ chưa có được kế hoạch rõ
ràng gì. Khi đồng chí ấy về đến nơi thì thấy phong trào c.s tuy
mới nổi nhưng đã chia rẽ rồi nên tự ý hành động có nhiều việc
sai lầm không đúng với kế hoạch của Q.t. Vì đó mà có Hội nghị
hiệp nhất. Đồng chí ấy nay đã nhận rõ những sai lầm và cũng đã
đồng ý với T.ư mà sửa chữa những chỗ sai lầm lúc trước”.
Nội dung về “đấu tranh giai cấp” đã được Luận
cương chính trị
của Đảng trước đó (do Trần Phú soạn thảo) nói rõ hơn
[28] :
-
Tất cả giai cấp tư sản đều phản động dù là bộ
phận “hiệp tác” với đế quốc hay bộ phận “thoả hiệp” với đế quốc.
Riêng bộ phận “thoả hiệp này” được Luận cương kể tên: bọn
Huỳnh Thúc Kháng, bọn Phạm Quỳnh, bọn Ngọ báo… và được
“vạch mặt” khá kỹ là chỉ lợi dụng phong trào quần chúng để mưu
lợi ích riêng, đòi hỏi cải cách nhưng kỳ thật là “phá hoại phong
trào cách mạng của công nông”. Mục đích là làm cho công nông
“sanh mộng tưởng mà quên con đường cách mạng”.
-
Các đảng phải tiểu tư sản như (Quốc dân Đảng,
Nguyễn An Ninh…) dù là theo đường lối “quốc gia cách mạng” nhưng
rồi cũng hoá ra “quốc gia cải lương”. Các đảng phái ấy đều dính
dáng đến bọn địa chủ và tư bản: có theo cách mạng chống đế quốc
thì cũng chỉ vì quyền lợi của tư bản bản xứ, khi phong trào công
nông phát triển mạnh thì chúng sẽ bỏ cách mạng “chạy về cải
lương và hiệp tác với đế quốc chủ nghĩa”. Chỉ có thể “tạm thời
hợp tác” và “lợi dụng” có lợi cho cách mạng. Phải giữ vững tính
chất giai cấp của công nông trong hợp tác với những đảng phái
ấy, và trong khi hợp tác cũng phải “hết sức đánh đổ ảnh hưởng
của bọn ấy trong quần chúng”
[29].
3. Trong các đảng cộng sản, những sai lầm được vạch ra như
trên là thuộc về “đường lối” và “quan điểm”, cực kỳ trầm trọng. Cũng
chính vì vậy mà mặc dù Nguyễn đã tự kiểm điểm, Hội nghị Trung ương
toàn thể ở Sài Gòn ngày 12-2-1931 đã ghi vào chương trình nghị sự
một mục gọi là “Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” và đi đến chỗ chấm dứt vai
trò đại diện QTCS của Nguyễn ở Hồng Kông: thay vì liên lạc qua
Nguyễn thì Đảng CS ĐD trực tiếp với Ban phương Đông. Theo lời Ngô
Đức Trì thì do những lãnh đạo Trung và Bắc đã than phiền về việc
Nguyễn thường hay đòi họ phải báo cáo cho Ban phương Đông ở Thượng
Hải, việc này theo họ là nhiệm vụ của Ban Thường vụ. Hội nghị đề
nghị Nguyễn chấm dứt việc đòi hỏi đó; khi cần thiết Trung ương sẽ
báo cáo cho Ban phương Đông ở Hồng Kông, Nguyễn chỉ làm công việc
chuyển thôi.
Ngày 23-4-1931, Nguyễn trả lời Trung ương và qua thư này chúng ta có
thể hình dung sự việc như sau: sau Hội nghị tháng 10-1930, “trong đã
có Trung ương ngoài đã có Ban phương Đông”, nếu công việc của Nguyễn
chỉ là “thùng thơ” thì “người khác cũng làm được” cho nên Nguyễn xin
“đổi chỗ”. Vì vậy Ban phương Đông mới có thư định trách nhiệm cho
Nguyễn và trách nhiệm ấy, qua thư Nguyễn trả lời Trung ương, chúng
ta thấy bao gồm có việc “tham gia ý kiến” với trong nước và Ban
phương Đông, cho nên cần được trong nước gửi báo cáo ra, “không có
gì là vô lý và lộn xộn” như Trung ương đã nhận xét. Nguyễn đề nghị
Trung ương nên thảo luận lại “nhiệm vụ” của Nguyễn và cho biết ý
kiến
[30]. Như vậy, qua bức thư trên,
ta thấy Nguyễn vẫn được Ban phương Đông giao cho công tác trong đó
vẫn giữ một trách nhiệm nào đó với Đảng CS ĐD, nhưng Trung ương
ĐCSĐD lại phủ nhận vai trò này. Cuối tháng 4-1931, Trần Phú đã viết
cho Ban phương Đông báo rằng không còn dùng Nguyễn như người trung
gian nữa vì “đồng chí này quá vắn tắt và hay cho chúng tôi nhũng ý
kiến riêng không tham khảo với Ban”
[31].
Đại hội Macao và số phận Nguyễn Ái Quốc
1. Giữa lúc tình hình đang căng thẳng đó thì tháng 8-1931,
Nguyễn Ái Quốc bị bắt, cùng với đa số những người đang hoạt động tại
Trung Quốc (trong đó có Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thị Minh Khai) và 9 cán
bộ từ Moskva trở về
[32]. Trong khi Minh Khai được
đưa về Quảng Châu (sau được thả vì khai là người Trung Quốc), Hồ
Tùng Mậu được dẫn độ về Việt Nam và bị đày đi Côn Đảo (vì bị bắt
trong lãnh giới Pháp) thì Nguyễn bị giam giữ tại Hồng Kông (nơi
Nguyễn bị bắt) để chờ ngày ra toà. Trong thời gian này một tờ báo
cộng sản Anh có đưa tin Nguyễn đã chết vì bệnh lao và tin này đã
khiến nhiều người cộng sản ở nhiều nơi đã làm lễ truy điệu. Nhưng đó
chỉ là tin đồn. Nhờ có sự vận động của tổ chức Cứu trợ Đỏ, một đoàn
luật sư do Frank Loseby cầm đầu đến Hồng Kông, khôn khéo khai thác
những thủ tục xét xử phức tạp trong luật pháp Anh để bênh vực,
Nguyễn đã thoát khỏi áp lực của chính quyền thực dân Pháp đòi dẫn độ
về Việt Nam, cuối cùng đến tháng 1-1933, thì được tha. Sau một số
rắc rối, cuối cùng anh về được Moskva vào tháng 7-1934.
2. Lúc này tình hình thế giới đang có những chuyển biến quan
trọng. Năm 1933, Hitler đã lên cầm quyền tại Đức
[33]. Nhiều lĩnh tụ cộng sản các
nước muốn xét lại đường lối của Đại hội 6 QTCS, khuyến cáo không nên
đòi lật đổ toàn bộ giai cấp tư sản, không nên xếp phe Dân chủ-Xã hội
vào loại kẻ thù số một nữa vì đường lối đó sẽ làm yếu mặt trận chống
phát xít. Xu hướng này đã được thừa nhận trong Đại hội 7 QTCS họp
vào tháng 7-1935. Ở Liên Xô, sau việc nhóm đối lập hữu khuynh bị
thanh trừng xong, cuộc hợp tác hoá nông nghiệp đã hoàn thành, tình
hình tưởng có thể lắng dịu đi, nhưng nhân việc Kirov, bí thư
Leningrad bị ám sát vào cuối năm 1934, Stalin đã đẩy cường độ cuộc
thanh trừng nội bộ lên mức hết sức tệ hại. Trotsky cấu kết với đế
quốc để chống Liên Xô đã trở thành lý lẽ biện minh cho việc bắt bớ,
đầy ải hàng ngàn những phần tử đối lập cũ đã nhận lỗi và được phục
hồi sau những cuộc trấn áp trước.
Năm 1935 và 1936, cuộc thanh trừng tiếp tục và lan rộng dần, cho đến
1937 thì đã trở thành cuộc giết hại kinh hoàng: nó không chỉ nhằm
vào những nhóm chống đối đã có mà còn mở rộng đến toàn bộ hàng ngũ
những người bônsêvích kỳ cựu, những người mà Stalin cho là tạo ra
cái môi trường có khả năng tiếp tục sinh ra chống đối mới. Dưới
nhiều hình thức khác nhau – tra tấn, dụ dỗ, rún ép gia đình, giết
hại không xét xử , hoặc mở ra một số rất ít những cuộc xét xử để
những nạn nhân tự thú… – Stalin đã triệt tiêu 70% (98 trong tổng số
139) các uỷ viên và uỷ viên dự khuyết được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng trong Đại hội 1934, một Đại hội mệnh danh là “chiến
thắng”
[34].
Cuộc thay máu ấy không chỉ giới hạn trong nội bộ Đảng Liên Xô, nó
lan tràn ra các đảng cộng sản “anh em” mà Stalin nghi ngờ có khả
năng chống lại đường lối của mình. Cái mũ chụp lên đầu những lĩnh tụ
cộng sản này cũng không có gì khác hơn là làm tay sai cho Trotsky
phản cách mạng! Đặc biệt nhất là đối với những đảng viên từ nhiều
nước bị chủ nghĩa phátxít thống trị (Đức, Ba Lan…), phải chạy sang
Liên Xô xin tá túc: hàng vạn người trong hàng ngũ này đã bị bắn giết
hoặc vào các trại tập trung
[35].
3. Tình hình phức tạp ở Liên Xô và trên thế giới trên đây đã
ảnh hưởng rất nhiều đến Nguyễn Ái Quốc. Sau khi dưỡng bệnh ở Crimée,
tháng 10-1934, Nguyễn vào học tại Trường Lenin (được xem là nơi đào
tạo những cán bộ cộng sản nước ngoài nhưng thật sự cũng là nơi để
giáo dục lại những cán bộ mắc phải sai lầm). Bị kiểm điểm đối với
anh chắc chắn là điều không tránh khỏi
[36]. Nhưng không thấy có tài
liệu nói rõ hình thức kỷ luật đối với Nguyễn.
Vào thời kỳ này, trong khi Moskva chuẩn bị Đại hội 7 QTCS thì một sự
kiện quan trọng cũng đã xảy ra đối với ĐCSĐD: Hà Huy Tập thay mặt Lê
Hồng Phong, giả định như tình hình chưa có gì thay đổi, tổ chức Đại
hội ĐCSĐD tại Macao (từ 27 đến 31 tháng 3-1935), đẩy xa hơn nội dung
khuynh tả của Đại hội 6 QTCS về đường lối lẫn thanh lọc nội bộ
[37]. Đại hội đã bầu ra một Uỷ
ban Trung ương mới gồm 13 người (Hà Huy Tập là Tổng Bí thư) trong đó
Nguyễn Ái Quốc chỉ được coi như là uỷ viên dự khuyết và được chỉ
định đi dự Đại hội 7 QTCS cùng với ba đại biểu khác là Lê Hồng Phong
(cán bộ trong Văn phòng Hải ngoại ĐCSĐD), Hoàng Văn Nọn (người Tày)
và Nguyễn Thị Minh Khai
[38] – ba người này đã đến
Moskva vào cuối năm 1934. Nhưng cùng với việc đề cử đó, Hà Huy Tập
đã gửi cho QTCS báo cáo về “vấn đề Nguyễn Ái Quốc” tại Đại hội Macao
trong đó có những lời lẽ như sau:
“Ở Xiêm cũng như ở Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành
cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng cách
mạng-dân tộc, trộn lẫn với chủ nghĩa cải lương và duy tâm của Hội
Thanh Niên và đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Những tàn dư này rất mạnh và
tạo ra sự cản trở rất nghiêm trọng đối với sự phát triển của chủ
nghĩa cộng sản. Cuộc đấu tranh không thương xót chống lại những lý
luận cơ hội cũ của Quốc và Thanh Niên là cần thiết. Hai Uỷ ban Xiêm
và Đông Dương sẽ ra văn bản chống lại các xu hướng ấy. Chúng tôi đề
nghị đồng chí Line cũng viết bản tự kiểm và những thất bại đã xảy
ra”
[39].
Trong một thư 4 trang viết bằng tiếng Pháp gửi QTCS đề ngày
20-4-1935,Hà Huy Tập còn nói thêm về những sai lầm cực kỳ trầm trọng
của Nguyễn Ái Quốc trong lĩnh vực tổ chức:
“a) … Quốc biết Lâm Đức Thụ là mật thám nhưng vẫn dùng, b) Quốc
đã sai lầm khi đòi học viên phải nộp 2 bức ảnh, cho biết tên thật,
địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà…, c) trong nước cũng như ở Xiêm và trong
tù, người ta đã nói nhiều đến trách nhiệm của Quốc điều mà Quốc
không hề phủ nhận, d) những ảnh mà Quốc yêu cầu hiện đang nằm trong
tay mật thám Pháp, e) dần dà khi đường lối của Đảng càng rõ ràng thì
đảng viên ngày càng chỉ trích Quốc một cách nặng nề. Tổng thư ký của
Đảng CS Xiêm, trước đây theo Quốc nhiệt thành, nay là một trong
những người đã phát biểu rằng trước 1930, Quốc không phải là một
người cộng sản”
[40].
4. Với sự thay đổi đường lối của Đại hội 7 QTCS, Nguyễn Ái
Quốc chắc đã hy vọng mau chóng học tập để trở về hoạt động
[41]. Nhưng có lẽ do những báo
cáo của Hà Huy Tập nói trên, cộng thêm với không khí thanh trừng ác
liệt của Stalin trong thời gian đó, tình trạng của anh đã trở nên
khó khăn hơn.
-
Trong Đại hội 7 QTCS, trong khi ba người Việt Nam
được coi là đại biểu chính thức (có quyền biểu quyết) và Lê Hồng
Phong được bầu vào Ban Chấp hành QTCS, và trong khi hai đại biểu
Xiêm chỉ được xem là đại biểu tư vấn (không được bỏ phiếu) thì
Nguyễn Ái Quốc đã không là gì cả: không là đại biểu chính thức
mà cũng không là đại biểu tư vấn. Nếu có dự Đại hội thì có lẽ
chỉ với tư cách là cán bộ phụ tá hay cố vấn cho đoàn Việt Nam
thôi. Chính là Vasilieva, một cán bộ Ban phương Đông, đã quyết
định chuyện này chứ không phải là ai khác. Vasilieva đã ghi chữ
“không” dứt khoát, để trả lời việc Đại hội Macao đề cử Nguyễn
làm đại biểu trong QTCS, cùng với nhận xét sau đây: “Quốc phải
học tập nghiêm chỉnh trong hai năm và không được đảm nhận một
công việc nào khác, sau khi học xong, chúng tôi sẽ có kế hoạch
đặc biệt cho đồng chí”.
-
Sau Đại hội, trong khi Lê Hồng Phong rồi Nguyễn
Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn lần lượt trở về châu Á, thì
Nguyễn vẫn ở lại Liên Xô, học tại Trường Lenin, năm 1936 chuyển
sang bộ phận Đông Dương của Trường Stalin, làm việc dưới sự phụ
trách của Vasilieva và được Vasilieva nhận xét: “Đồng chí có khá
nhiều kinh nghiệm, nhưng cũng như nhiều đồng chí Đông Dương
khác, đồng chí vấp phải nhiều sai lầm, chúng tôi rất quan tâm
đến những vấn đề đó… đồng chí đang có những tiến bộ thấy rõ…”.
Không tìm thấy tài liệu cho biết Nguyễn dự định làm một luận án
về nông nghiệp như nhiều người đã viết và dường như anh cũng
chẳng tỏ ra thích thú lắm với công việc giảng dạy và nghiên cứu
này.
-
Cuối 1936, Vasilieva đề nghị lập một trường huấn
luyện tại Trung Quốc cho các cán bộ cơ sở ở Việt Nam, với dự án
3000 đôla, mỗi khoá 2 tháng cho 10 học viên, dự định đưa Nguyễn
Ái Quốc về phụ trách. Nhưng cuối bản kế hoạch này có ai đó đã
viết nguệch ngoạc: “Tất cả những đề nghị này đã bị bác bỏ sau
khi đã làm rõ vấn đề”. Nguyễn Ái Quốc đã có vấn đề. Vấn đề gì?
Trong hồ sơ QTCS không thấy nói rõ. Chỉ biết Nguyễn phải ở lại
Moskva tiếp tục làm việc tại Trường Stalin, 1937, trường này đã
được tổ chức lại với tên “Viện khoa học nghiên cứu những vấn đề
dân tộc và thuộc địa”, nhưng nội dung vẫn là đào tạo những cán
bộ cho các đảng cộng sản nước ngoài. Nguyễn công tác ở trường
này với tư cách vừa là giáo viên vừa là nghiên cứu sinh năm thứ
nhất Ban sử. Điểm học hình như cũng không lấy gì làm đặc biệt
lắm. Các môn Duy vật biện chứng, Cổ sử, Trung sử: trung bình.
Chỉ có Lịch sử hiện đại là xuất sắc. Trong khi học, được phân
công dạy môn Nghiên cứu Đông Dương bằng tiếng Việt
[42]. Đến cuối tháng 9-1938,
Nguyễn mới được chấp nhận cho về Trung Quốc công tác với tư cách
là phái viên của QTCS phụ trách Đảng CSĐD.
Chúng ta hãy đọc bức thư Nguyễn gửi Manuilsky ngày
6-6-1938
[43] sau đây để hình dung ra
tình cảnh của Nguyễn trong suốt khoảng thời gian “từ ngoài chỉ đạo
về nước” của anh tại Liên Xô:
Đồng chí thân mến,
Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hồng
Kông. Đó cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động
của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí
giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này.
Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc là giữ tôi ở lại đây. Hãy
giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi
muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình
trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài
của (sic) Đảng.
Tôi sẽ rất biết ơn đồng chí, thưa đồng chí thân mến, cho phép tôi
được hội kiến. Tôi tin rằng như vậy sẽ tốt hơn. Đã từ lâu rồi đồng
chí không gặp tôi. (…)
6-6-1938
LIN (Nguyễn Ái Quốc)
Vinh quang hay thất bại?
Qua những gì đã trình bày trên đây, chúng ta thấy đối với Nguyễn Ái
Quốc, các sự việc xoay quanh việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
đã không tràn ngập hào quang như những nhà ý thức hệ của Đảng hết
lời ca tụng – ít nhất thì cũng không phải là “kết quả của gần 10 năm
chuẩn bị rất công phu” mà Nguyễn đã bỏ ra“về các mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức”
[44] để hoàn thành công việc đó.
1. Như chúng ta đã biết, khi nhận chỉ thị 12-9-1927 của QTCS
về Xiêm tổ chức thành lập đảng cộng sản cho Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
đã không hoàn thành được nhiệm vụ. Hàng loạt câu hỏi có thể được đặt
ra và rất khó trả lời về ý nghĩa của những hoạt động của Nguyễn
trong thời gian này: a) Tại sao có tình trạng suốt 16 tháng ở Xiêm
(từ tháng 7-1928 đến 11-1929), không thấy có báo cáo nào của Nguyễn
gửi về QTCS
[45] ? b) Có phải vì không liên
lạc quá lâu với Liên Xô và QTCS từ Đại hội 6 nên khi cần hành động
Nguyễn đã không còn biết rõ vai trò của mình là gì
[46] ? c) Có lý hay không khi có
người cho rằng những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm chỉ là một
cách né tránh cơn dông bão Stalin trong những năm sau Đại hội 6 QTCS
mà anh đã cảm giác được?
2. Việc Nguyễn sang Trung Quốc thực hiện Hội nghị hợp nhất
tháng 2-1930 cũng chứa đựng nhiều câu hỏi tương tự: a) Một lĩnh tụ
đảng, một cán bộ của QTCS sao lại có thể lâm vào tình trạng không
bắt kịp đường lối mới (từ Đại hội V sang Đại hội VI) của QTCS là cơ
quan cấp trên của mình, cũng không nắm được tình hình trong nước là
địa bàn mình chỉ đạo? b) Tại sao trong tình thế chưa tìm hiểu mọi
việc đến nơi đến chốn mà vẫn hành động một cách vội vàng để sau đó
tự làm mất uy tín, bị đả kích nặng nề và cuối cùng bị gạt sang bên
lề một cách “đau buồn” trong một thời gian khá dài? c) Có thể tìm lý
do khách quan nào khác để giải thích những sơ suất trên đây ngoài
thái độ chủ quan của Nguyễn: xa rời thực tế nhưng tin rằng vẫn có
thể dùng uy tín cũ của mình để giải quyết những vấn đề cấp bách mới
nẩy sinh?
3. Những uẩn khúc đó không thể không dẫn chúng ta đến câu hỏi
rốt ráo hơn: phải chăng đối với Nguyễn, nhiệm vụ xây dựng nên một
đảng cộng sản cho Việt Nam đã là một thất bại? Và phải chăng do hành
động lúng túng đó, cũng là tất yếu cái hậu quả “đau buồn” mà Nguyễn
phải nhận từ nhiều phía? Từ cái QTCS ngả nghiêng mà Nguyễn đã nương
theo để nặn nên “quả trứng cộng sản”: chính cái QTCS đó chỉ sau mấy
năm đã phủ định tất cả những gì Nguyễn đã làm. Từ cả những con “chim
non cộng sản” háu ăn: sau khi bay nhảy được thì liền quay lại cào
cấu không thương tiếc cái thực thể đã đem đến cuộc sống cho chúng.
Phải chăng Nguyễn đã bị cuốn vào một guồng máy mà sự vận hành của nó
đã vượt khỏi mọi tính toán của bản thân anh?
Trước những vấn đề phức tạp trên đây, những tư liệu mới có được cho
đến nay dường như vẫn chưa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời thật dứt
khoát. Tuy vậy, có một điều mà chúng ta tin rằng không sai lầm nhiều
lắm khi khẳng định: cũng như nhiều lần khác, trước những khó khăn
lần này, Nguyễn đã tỏ ra rất khéo léo trong việc xoay sở để vượt qua
và tồn tại
[47] – kiên nhẫn đợi chờ thời cơ
thích hợp để thực hiện mục đích của mình.
© 2007 talawas
[1]RC,
495, 154, 556, p.17; Sophie Quinn-Judge: Nguyen Ai Quoc, The
Commintern and the Vietnamese Communist Mouvement (1919-1941),
Chapter IV, p. 118-121.
[2]Xem Leonard Chapiro: The
Communist Party of the Soviet Union, bản Pháp văn: De Lénine
à Staline, Gallimard, 1967, tr. 413-424.
[3]J.V. Stalin:
Works, Foreign Languages Publishing House, Moskva, 1954, Vol.
11, pp 206-207; Prepared for the Internet by David J. Romagnolo,
djr@marx2mao.org, September 1998.
[4]Trước Đại hội 6 QTCS (từ 17-7
đến 1-8-1928) khoảng một tháng, Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng sản
Trung Quốc cũng đã họp tại Moskva (từ 18-6 đến 11-7-1928) đi theo xu
hướng “chống hữu khuynh” của Stalin khá rõ rệt. Để đối phó với chính
biến của Tưởng Giới Thạch năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chủ
trương liên tục những cuộc khởi nghĩa, từ Vũ Xương, Vụ mùa, Quảng
Châu đến Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Phúc Kiến, Hà Nam, Thiểm Tây…
và tất cả đều bị đàn áp thảm hại. Đại hội 6 của Đảng CS Trung Quốc
họp ở Moskva rút kinh nghiệm, tuy xác định đường lối vẫn nằm trong
giai đoạn “cách mạng dân chủ tư sản” nhưng vẫn lấy thành phố làm
trọng tâm công tác, và do ảnh hưởng của Stalin, đã coi “giai cấp tư
sản dân tộc là một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất cản trở thắng
lợi của cách mạng” (Nguyễn Gia Như và Nguyễn Huy Quý: Lịch sử
Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 276-278).
Đại hội đã bầu ra Bộ Chính trị mới: Xiang Zhongfa (Hướng Thiên
Phát), Qu Qiubai (Cù Thu Bạch), Zhou Enlai (Chu An Lai), Cai Hesen,
Li Lisan (Lý Lập Tam), Xiang Ying (Vương Minh); trong số này có ba
người là Xiang Zhongfa, Cai Hesen, Li Lisan đã trở về Thượng Hải
trước khi Đại hội QTCS họp, và có thể chính những lãnh tụ này đã ảnh
hưởng đến phong trào cộng sản Việt Nam trước Đại hội 6QTCS. Điều này
cũng dễ hiểu: những cán bộ Thanh Niên trong thời kỳ này đều là những
người hoạt động lâu năm ở Trung Quốc, nhiều người công tác trong
Quốc dân Đảng hoặc Đảng Cộng sản Trung Quốc, có tham gia những cuộc
khởi nghĩa nông dân sau sự biến tháng 4-1927 (Sophie Quinn-Judge:
Sđd, tr. 123).
[5]Xem Hélène Carrère dEncausse
et Stuart Schram: Le marxisme et l'Asie 1853-1964, Armand
Colin, Paris, 1965, tr. 87-88.
[6]Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd,
Chapter IV, tr. 126.
[7]Stalin đã nói về nhóm
Bukharin bằng những lời lẽ như sau: “Hoạt động đối lập của nhóm đó
là toan xét lại đường lối của Đảng; nó tìm cách sửa lại đường lối
của đảng và chuẩn bị điều kiện để thay thế đường lối của đảng bằng
một đường lối khác, đường lối của phái đối lập, đường lối này không
khác gì hơn là đường lối của xu hướng hữu khuynh”. Đó không phải là
một nhóm bè phái thường mà là “một nhóm đáng ghét nhất và ti tiện
nhất trong tất cả các nhóm bè phái đã có trong đảng ta”. Sai lầm lớn
nhất của nhóm Bukharin, theo Stalin, là do họ không hiểu cái lôgích
đấu tranh giai cấp “mácxít” được Stalin diễn giải như sau: do bị
cách mạng đẩy vào đường cùng, bọn phản động càng giãy dụa điền
cuồng, cho nên cách mạng càng mạnh, phản động càng yếu thì đấu tranh
giai cấp càng gay gắt thêm. (Xem I.V Stalin: “Về xu hướng hữu khuynh
trong Đảng Cộng sản toàn Liên Xô”, Diễn văn đọc tại Hội nghị Toàn
thể Ban Chấp hành Trung ương và Ban Kiểm tra Trung ương của Đảng
Cộng sản (b) toàn Liên Xô, tháng 4-1929, trong I.V Stalin: Những
vấn đề của chủ nghĩa Lênin, Sự thât, Hà nội, 1977, tr. 261-343).
[8]Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd,
tr. 127.
[9]Gồm 7 người: Ngô Gia Tự, Trần
Văn Cung, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du (Phiếm Chu), Trịnh Đình Cửu,
Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân. Trong số những người này Dương Hạc Đính
đã là mật thám chìm cho Pháp, còn Nguyễn Tuân thì về sau đầu hàng,
khai báo và bị đồng chí cũ thanh toán khoảng 1930. Xem Huỳnh Kim
Khánh: Vietnamese communism, Cornell University, Ithaca and
London, 1986, tr.117.
[10]Trước sự nhất quyết của Nhóm
Bắc kỳ, nghe nói Lâm Đức Thụ đã phát biểu: “Với tư cách là chủ tịch
Đại hội, tôi ra lệnh chấm dứt mọi thảo luận việc thành lập đảng cộng
sản. Ai muốn nói chuyện đó có thể rời hội nghị và bàn ở một nơi
khác”. Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd, tr. 118.
[11]Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd,
tr. 119.
[12]Huỳnh Kim Khánh cho biết đã
tìm thấy trong Kho lưu trữ hồ sơ hải ngoại Pháp (AOM) hơn 30 tài
liệu và thư mật giữa ĐCSĐD và Tổng bộ Thanh Niên ở Hồng Kông trao
đổi về vấn đề giải tán Thanh Niên và thành lập Đảng Cộng sản. Tất cả
những văn bản được viết bằng mực vô hình đó, đã được bạch hoá (làm
lộ ra), chụp lại và dịch sang tiếntg Pháp. Trong thư gửi Tổng bộ
Thanh Niên ngày 9-10-1929, ĐCSĐD đã từ chối mọi hoà giải và hứa sẽ
xem xét sự gia nhập của những thành viên Thanh Niên vào Đông Dương
với tư cách là những cá nhân. Bức thư có thêm dòng sau đây: “Nếu
Vương (Nguyễn Ái Quốc) có trở về thì chúng tôi cũng thực hiện các
thủ tục với ông ấy giống như các thủ tục đối với các anh”. (Huỳnh
Kim Khánh: Sđd, Chú thích 93, tr. 182).
Mấy chi tiết trên đây được Phạm Xanh nhắc đến trong cuốn Nguyễn
Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
(Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 199) nhưng không cho biết tên
sách đã dẫn và đặc biệt nhất là không biết bằng cách nào mà lại có
thể diễn dịch nội dung câu tiếng Anh trong sách của Huỳnh Kim Khánh:
“Originally written in invisible ink, they were exposed,
photographed, and translated into French” thành: “Bản gốc được viết
bằng mực tím và được dịch ra tiếng Pháp” !!! Còn câu: “If Vuong
returns, we shall follow the same procedures toward him as toward
you” thì diễn thành: “Nếu Vương trở lại, chúng tôi sẽ tiếp tục trao
đổi các phương pháp với Vương cũng như với các anh” !!!
[13]Theo tài liệu của QTCS mà
Sophie Quinn-Judge đọc được thì cuối tháng 8-1929, khi Hồ Tùng Mậu
và khoảng 20 học viên Hoàng Phố được tha khỏi nhà tù Quốc dân Đảng,
họ đã quyết định giải thể Thanh Niên và thành lập An Nam Cộng sản
Đảng vì cho rằng tình hình mới buộc phải như vậy. Một chi bộ AnNam
CSĐ đã ra đời tại Hồng Kông, mục đích là để tạo ra một đảng chân
chính. “ĐCSĐD không phải là một đảng chân chính”. Những nhân vật
lãnh đạo Annam CSĐ: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Quảng Đạt và Lê Duy
Điếm, tuyên bố muốn thống nhất các thành viên cộng sản trong Thanh
Niên khắp Đông Dương, kể cả việc hợp nhất với ĐDCSĐ, tuy rằng vẫn
không ngớt chỉ trích đảng cộng sản này là “không chân chính”. (RC,
495, 154, 616, p. 62; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 145-146).
[14]Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd,
tr. 122.
[15]Như trên, tr. 122-123.
[16]Ngày 31-12-1929, Đại hội
thành lập ĐDCSLĐ dự định họp ở ga Thọ Trường, nhưng vì lộ nên dời
lên Chợ Thượng (Hà Tĩnh) họp trên một con đò dọc sông La xuôi về
Vinh. Tham gia Đại hội có 8 đại biểu: Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều),
Trần Hữu Chương, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đệ, Ngô
Đình Mẫn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội họp được hai ngày, khi đến bến đò
Trai (Hà Tĩnh) các đại biểu bị địch bắt. (Phạm Xanh:
Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
(1921-1930), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, Sđ, tr. 197).
[17]Trần Văn Giàu:
Giai cấp công nhân Việt Nam, Sự Thật, Hà Nội, 1961, tr. 441, dẫn
theo Phạm Xanh: Sđd, tr. 190.
[18]Hồ Chí Minh: “Báo cáo gửi
QTCS 18-2-1930”, trong Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 3,
tr.12.
[19]Hồ Chí Minh toàn tập,
T.3, Sđd, tr. 11-12.
[20] “Ngoài việc cuốc đất đi
buôn, ông Nguyễn còn làm công việc tuyên truyền và tổ chức. “Hội
Thân Ái Việt Nam” thành lập, một tờ tuần báo Thân Ái
được xuất bản. Trước kia ở Trung Quốc, ông Nguyễn từ phương Bắc
tuyên truyền về nước. Bây giờ ở Xiêm, ông tuyên truyền về nước từ
phương Tây” (Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoật động của
Hồ Chủ tịch, Nxb Văn học, Nà Nội, 1972, tr. 64).
[21]“Ở Xiêm, Bác giúp kiều bào
chỉnh đốn thêm những đoàn thể yêu nước và tổ chức thêm trường học
dạy các trẻ em” (T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb
Chính trị quốc gia – Nxb Thanh niên, Hà Nội 1994, tr. 34 ). T. Lan
cũng được xem là bút danh của Hồ Chí Minh.
[22]Lê Mạnh Trinh: “Những ngày ở
Quảng Châu và ở Xiêm”, trong Bác Hồ, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà
Nội, 2000, tr, 128-145.
[23]Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 3, Sđd, tr. 12.
[24]Thép Mới: Thời dựng Đảng,
Paris, 1976, tr. 114. Dẫn lại theo Huỳnh Kim Khánh: Sđd, tr. 182.
Người chất vấn đó là Trịnh Đình Cửu trong nhóm Bắc Kỳ (Xem Hoàng
Tùng: “Hồ Chí Minh, Liên Xô và Trung Quốc”, Diễn Đàn
(Paris) số 123 tháng 11-2002).
[25]Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd,
tr. 152-153.
[26]“Tháng 3-1931, trong lúc
Trung ương Đảng bí mật họp hội nghị ở Sài Gòn, Ngô Đức Trì bị bắt và
phản bội. Vì nó khai mà đồng chí Trần Phú và nhiều đồng chí khác bị
bắt. Suốt sáu tháng bị tra tấn dã man, tháng 9 năm ấy đồng chí Trần
Phú đã chết trong nhà tù” (T. Lan: Vừa đi vừa kể chuyện, Sđd,
tr. 48). Theo Sophie Quinn-Jugde thì Ngô Đức Trì bị bắt ngày
1-1-1931 cùng với toàn bộ Uỷ ban Nam Kỳ (Sđd, tr. 187).
[27]Văn kiện Đảng toàn tập,
Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 233-242.
[28]Văn kiện toàn tập,
T2, Nt, tr. 88-103
[29]Trong sự phê phán công khai
này kéo dài này, Nguyễn Ái Quốc đã bị nêu đich danh cùng với cuốn
Đường Cách mệnh mà Nguyễn soạn thảo ở Quảng Châu (một thời được
coi như tài liệu gối đầu giường của những người cộng sản) để đả
kích. Đặc biệt trong những bài viết ký tên là Hồng Thế Công đăng
trên Tạp chí Bônsêvích, cơ quan lý luận của ĐCSĐD, từ khoảng
1932 đến 1935. (Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd, tr. 184-185). Huỳnh Kim
Khánh cho rằng Hồng Thế Công có thể là bút danh của “một cán bộ cao
cấp của ĐCSĐD”, nhưng có thể đó là bút danh của Hà Huy Tập, người đã
chống Nguyễn Ái Quốc gay gắt nhất trong thời kỳ này.
[30]Hồ Chí Minh toàn tập,
T3, tr. 77-80.
[31]RC, 495, 32, p. 10; Xem
Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 183.
[32]AOM , SPCE 368; Xem Sophie
Quinn-Judge: Sđd, tr. 190.
[33]Nhiều tác giả cho rằng chính
chính sách của Stalin của Đại hội 6 QTCS liệt Đảng Dân chủ-Xã hội
vào loại kẻ thù số một nên đã tạo cho Hitler đủ số phiếu để thắng
cử.
[34]Con số Khouchtchev công bố
trong Đại hội XX ĐCS Liên Xô 1956 (Xem: Leonard Schapiro: De
Lénine à Staline, Sđd, tr. 466).
[35]Hiện tượng thanh trừng này
đối với các cán bộ cộng sản Việt Nam cũng đã được một tác giả nóí
đến như sau: “Cuộc đấu tranh chống những phần tử gọi là khiêu
khích được mở rộng ở các trường của QTCS vào lúc có người nêu lên
luận điểm trào lưu dân chủ xã hội là kẻ tòng phạm và anh em sinh đôi
với với chủ nghĩa phát xít. Tháng 4-1934, Đặng Đình Chục quê Nam
Định, mang bí danh Lê-ô, học ở trường Đại học cộng sản phương Đông
bị bắt. Một số học sinh người Việt Nam khác cũng bị buộc phải thôi
học” (Hồng Hà: Bác Hồ trên đất nước Lênin, Thanh Niên, Hà
Nội, 2000, tr. 302). Theo cái lôgích của đoạn văn trên đây thì những
người Việt Nam bị liệt vào hạng “khiêu khích” đó có dính dáng đến
“trào lưu dân chủ xã hội” và điều đó có nghĩa là trong phong trào
cộng sản Việt Nam bấy giờ đã tồn tại trào lưu “dân chủ xã hội”? Hay
ý tác giả muốn nói mấy chữ “khiêu khích” ấy chỉ là cái cớ để đàn áp?
Chúng ta không rõ – nhất là khi nguồn thông tin trên không xác định
nội dung và xuất xứ. Trong khi đó thì một nguồn tài liệu khác vẫn có
thể sử dụng để giải thích: những người bị thanh trừng kể trên là do
bị tố cáo làm gián điệp cho thực dân Pháp. Nhiều báo cáo ở Việt nam
gửi qua vào thời gian này đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn như trong
báo cáo ngày 28-12-1934 gửi QTCS về danh sách 37 học viên Việt Nam
đã rời Moskva qua Pháp hoặc về châu Á, Hà Huy Tập cho biết trong số
đó có đến 12 người đã là những kẻ phản bội hoặc trở thành mật thám
cho Pháp, chỉ có 10 người được xem là “cách mạng chuyên nghiệp” (RC,
495, 154, 676, p. 37; Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 205). Chúng ta
biết sự đầu hàng của các lĩnh tụ và việc xâm nhập của mật thám vào
nội bộ (trường hợp Lâm Đức Thụ, Dương Hạc Đính, Ngô Đức Trì, Nguyễn
Tuân…) đã trở nên vấn đề khá trầm trọng của phong trào cách mạng
cộng sản Việt Nam lúc ấy.
[36]Một báo cáo mấy năm sau của
Anatoly Voronin, một cựu thành viên của Bộ Quốc tế của Uỷ ban Xô
viết Trung ương, cho biết trước Đại hội 7 QTCS, một bộ ba đã được
thành lập, gồm Manuilsky, Khang Sinh, và Vera Vasilieva, để kiểm
điểm Quốc. Trong khi Manuilsky trung lập, Vasilieva bênh vực thì
dường như Khang Sinh đã kết án Quốc khá nặng nề (Xem Sophie
Quinn-Judge: Sđd, tr. 205).
[37]Hành động này không giống
trường hợp Nguyễn Ái Quốc bị thực tế vượt qua. Theo Sophie
Quinn-Judge thì đó là hành động nhất quán của Hà Huy Tập: khi Nghị
quyết của Đại hội 7 QTCS về đến Đông Dương sau này, Hà Huy Tập vẫn
tìm cách cuỡng lại, không thực hiện, cho rằng Đại hội QTCS mới không
hiểu rõ tình hình cụ thể của Việt Nam (Xem Sophie Quinn-Judge: Sđ,
tr. 220).
[38]Thư ngày 31-3-1935 của Hà
Huy Tập gửi QTCS đã nhắc đến Nguyễn Thị Minh Khai như là “vợ của
Nguyễn Ái Quốc”. Còn Minh Khai (bí danh là Fan Lan) đã khai trong lý
lịch dự Đại hội là “đã kết hôn” và tên chồng là “Lin” (bí danh của
Nguyễn Ái Quốc). Nhưng trong lý lịch của mình, không thấy Nguyễn
khai là đã có vợ. (RC, 495, 201, 35; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd,
tr. 201).
[39]RC, 495, 154, 688; Xem
Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 204.
[40]RC, 495, 154, 586, p. 4; Xem
Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 204.
[41]
Có lẽ với hy vọng về sự đổi thay của tình hình sau Đại hội 7 QTCS,
Nguyễn Ái Quốc đã viết thư cho Ban phương Đông ngày 16-1-1935, ký
LIN, phê phán khá gay gắt trình độ lý luận và kiến thức của các cán
bộ: do không đọc sách nên không hiểu thật rõ nhiều điều căn bản như
cách mạng dân chủ tư sản là gì, không hiểu tại sao phải kết hợp giữa
cách mạng phản đế với cách mạng ruộng đất… ; trong khi đó những
người trí thức có đọc sách và tự cho là có hiểu biết thì lại rơi vào
bệnh giáo điều, máy móc, bất chấp thực tế … phạm nhiều sai lầm. Tình
trạng trên càng trầm trọng hơn khi những chiến sĩ lão luyện đã bị tù
đày hầu hết và được thay bằng những người trẻ tuổi thiếu kinh
nghiệm. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 83-84).
[42]Cùng công tác ở đây trong
thời kỳ này có Nguyễn Khánh Toàn, và Toàn thì có vẻ trỗi bật hơn
trong nghề nghiên cứu, giảng dạy: giảng Kinh tế Chính trị, Lịch sử
tổng quát, Nghiên cứu các nước. Đến 1939 Toàn mới về Trung Quốc.
[43]“Thư gửi một đồng chí ở Quốc
tế Cộng sản”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, Sđd, tr. 90.
Manuilsky là Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1924 là
Uỷ viên Ban Chấp hành QTCS, 1928 là Bí thư Ban Chấp hành QTCS.
[44]Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 82.
[45]Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd,
tr. 128.
[46]Trong thư Nguyễn Ái Quốc gửi
Đại diện Pháp ở Quốc tế cộng sản ngày 27-2-1930, có đoạn như sau:
“Lúc này tôi chưa biết rõ vị trí của tôi. Tôi hiện là đảng viên Đảng
Cộng sản Pháp hay Đảng Cộng sản Việt Nam? Cho đến khi có lệnh mới,
tôi vẫn chỉ đạo công việc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng với danh
nghĩa gì? Tôi không tham gia Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vì
tôi chưa trở về Đông dương được, nhất là lúc này, chúng đã ban cho
tôi một cái án tử hình vắng mặt. Sự uỷ nhiệm công tá của Quốc tế
cộng sản cho tôi đã hết hạn chưa? Nếu chưa, tôi vẫn tham gia Ban
phương Đông ở đây? Tôi đề nghị các đồng chí nhắc Ban Thường vụ Quốc
tế Cộng sản cho quyết định về việc này” (Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 3, Sđd, tr. 22).
[47]Sophie Quinn-Judge cho rằng
sở dĩ Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi sự thanh trừng trong năm 1937 môt
phần có lẽ do Đông Dương không phải là vùng ưu tiên được Liên Xô
quan tâm, phần khác lại do Nguyễn đã tập được thói quen biết tỏ ra
khiêm tốn và ít tranh cãi trong những vấn đề lý luận gai góc (Sđd,
tr. 216).
Trở
lại Trang Lữ Phương
6-6-08
|