TƯỞNG
NHỚ MỘT NGƯÒI ANH EM Lữ Phương
3. Những Kẻ
Không Được Lên Thiên Đường!
1.
Trong bài “Các Mác – Một tình yêu bao la”, Đông La[1]
có nhắc đến tên tôi để công kích vì cho rằng cùng với số người
“chống đối” khác, tôi đã lên tiếng “phê
phán, phủ nhận toàn những nhân vật mà chế độ hiện thời đều cho là vĩ
nhân cả như Các Mác, Lê nin, Bác Hồ…”. Đối với các vị khác tôi
không biết có đúng không, nhưng đối với tôi thì đó là điều có thật,
nhưng tôi rất tiếc đã không thấy tác giả dẫn ra một câu nào trong
rất nhiều bài viết đã xuất hiện của tôi để chứng minh rẳng vì những
sai lầm mắc phải khi “chống đối” chủ nghĩa Marx, tôi có bị làm cho
“khốn đốn” thì cũng chẳng có gì gọi là “oan” như tác giả đã viết.
Trong khi đó, lại thấy trong bài của tác giả mấy dòng trích dẫn mà
tôi biết chắc là của tôi
[2],
nhưng được tác ghi chú trong ngoặc đơn bằng mấy chữ rất đáng ngạc
nhiên: “dẫn theo một tác
giả trên talawas mà tôi đã quên tên”! Nêu tên một tác giả để đẩy
người ta về phía “chống đối” mà không dẫn chứng, nhưng khi cần thì
lại dẫn chính tác giả ấy ra để chống … “chống đối” bằng cách “quên”
tên tác giả ấy, một cái lối làm việc như vậy không thể không nói là
cẩu thả và kỳ quái! Vậy mà đó cũng chính là cái phương pháp tác giả
đã vận dụng trong bài viết nói trên để giải quyết một “bài toán lớn”
cho đất nước (chữ hay dùng của tác giả) gọi là bảo vệ chủ nghĩa
Marx, công kích những người “chống đối”, qua đó bày tỏ sự ủng hộ của
mình với chế độ đương quyền.
Trong đoạn dẫn một số tài liệu “tham khảo” để chứng minh cho sức hấp
dẫn của chủ nghĩa Marx, tác giả có mượn một câu trong một cuốn sách
của J. Derrida –“Không thể không có Marx, không thể có tương lai nếu
không có Marx”– cho rằng tuy là “một triết gia tư sản” nhưng đã
“viết rất tốt” về Marx. Là người đã đọc và viết về cuốn sách ấy của
Derrida, tôi có đủ cơ sở để khẳng định rằng khi dẫn như vậy tác giả
chẳng hiểu gì về ý nghĩa thật sự trong câu văn đã dẫn của Derrida cả
bởi vì nếu tự mình đọc được và hiểu được cuốn sách này tác giả sẽ
thấy câu nói đó giả định hàng loạt những điều kiện, trong đó quan
trọng nhất là sự tan rã của những thứ gọi là “chủ nghĩa Marx trong
thực tế” (thí dụ các đảng cộng sản, phe xã hội chủ nghĩa…) cùng với
việc phủ định tất cả những mưu toan muốn biến tư tưởng của Marx
thành cái gọi là “chủ nghĩa Marx“ dưới bất cứ hình thức cố định nào
để chỉ giữ lại điều duy nhất cốt yếu là cái tinh thần phê phán triệt
để tất cả mọi thiết chế hiện tồn, và chỉ có trong những điều kiện ấy
thì Marx mới cần thiết cho thế giới hôm nay.
Khác hoàn toàn với những lời xưng tụng của những người tự xưng là
mácxít kiểu Trung quốc (Trung quốc cũng hay nhắc đến Derrida) và
Việt Nam hiện nay, những người đứng trước thảm trạng sụp đổ của hệ
thống các nước mệnh danh là “phe xã hội chủ nghĩa”, đang cố gắng duy
trì sự tồn tại cho được cái thực thể chính trị đương quyền của mình
và riêng ở Việt Nam thì có nhà “mácxít” Đỗ Mười cùng với cái chiến
dịch ca ngợi Derrida để “chống diễn biến hoà bình” do ông phát động
hồi còn là tổng bí thư Đảng cách đây đã có 12 năm, nay vẫn còn được
những người thừa kế tiếp tục ồn ào. Tôi cho rằng trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, nếu không thể hiểu được Derrida một cách trực
tiếp thì tác giả chỉ có thể đến với ông triết gia người Pháp này qua
con đuờng của đồng chí Đỗ Mười hoặc Tổng cục II và Bộ Quốc phòng chứ
không thể ở nơi nào khác.
Tác giả cũng dẫn một cả một đoạn dài trong
Bách khoa toàn thư
Wikipedia để tiếp tục việc “nói tốt” cho chủ nghĩa cộng sản;
không biết cách nào để tìm ra câu dẫn đó, tôi đã thử gõ từ khoá “chủ
nghĩa cộng sản” trong
Wikipedia tiếng Việt , thì gặp được một bài dài, nói đầy đủ từ
Marx cho đến Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông …, trong đó có một đoạn
như sau:
“Ý
tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là
chủ
nghĩa nhân đạo,
là phương tiện để giải
phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, chủ nghĩa
này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế
giới trong thế kỷ 20, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc
đấu tranh của nó là nhân tố chủ đạo của lịch sử loài người trong thế
kỷ 20.
Mặt khác, lý thuyết lý
tưởng hoá về chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là không hoàn
chỉnh, rất sơ sài so với tính chất đa dạng của cuộc sống và thậm chí
sai lầm nghiêm trọng nên khi ứng dụng vào cuộc sống thực tế, đã gặp
những khó khăn liên tiếp khó vượt qua. Để vượt qua các khó khăn đó
những người kiên quyết với chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã
đặt chủ nghĩa của mình là trên hết, bắt xã hội phải chịu các hy sinh
ngày càng lớn hơn để duy trì lý tưởng. Đến lúc đó thì lý tưởng cộng
sản đã biến chất từ phương
tiện để trở thành mục
đích tự thân và không còn tính chất nhân đạo nữa. Sự biến dạng
đã phát sinh những bất công và bất bình đẳng còn ghê gớm hơn rất
nhiều so với những cái xấu của chủ nghĩa tư bản mà nó muốn tránh”. Tinh thần của Wikipedia khi nói về chủ nghĩa cộng sản là toàn diện, có đúng có sai, có thành công và thất bại, đâu phải chỉ ca ngợi một chiều như tác giả đã xuyên tạc.
2.
Bên cạnh cái kiểu nghiên cứu cẩu thả, thủ chương đoạn nghĩa, khi
xưng tụng nhà triết học gọi là vô sản vĩ đại của mình, tác giả cũng
hay sử dụng cái thủ pháp lên gân dễ dãi. Để bày tỏ cái cảm tình thắm
thiết với K. Marx trong bài viết nói trên, tác giả đã “muốn” viết
tên nhà cách mạng vô sản này theo cách phiên âm ở Việt Nam hiện nay
là “Các Mác” bởi vì có
viết như vậy thì mới diễn tả đúng “cái
ngôn ngữ chính trị” của chế độ đương quyền ở Việt Nam được gọi
là “XHCN” và cũng đúng
với cái tinh thần của chế độ mệnh danh là “XHCN” đó! Một học trò
sùng bái vị thầy vơ vào của mình là điều hiểu được, nhưng tác giả
cũng nên biêt thêm rằng không thể vì tấm lòng yêu mến ấy mà quên đi
điều tầm thường này: một từ nước ngoài, phiên âm cách này hay cách
khác sang tiếng Việt, hoặc không phiên âm gì cả đều chỉ là sự quy
ước của một quan niệm ngôn ngữ hoặc là sự chọn lựa cho một lối biểu
hiện, ý nghĩa chẳng có gì mùi mẫn để có thể làm cho thành một bài
tụng ca!
Trong cái câu mào đầu của bài viết trên, tác giả cũng có một bốc
đồng rất…. vô tư. Đối với cái học thuyết của nhà cách mạng vô sản vĩ
đại nói trên, tác giả “áng
chừng” rằng nếu đã có một nửa nhân loại coi là “ánh
đuốc dẫn đến thiên đường” thì cũng có “một
nửa kia coi là ánh lửa hung bạo dẫn xuống địa ngục!”. Không thấy
tác giả nói rõ cái một nửa nhân loại muốn lên thiên đường ấy là
những ai, là những nước nào trong hơn 6 tỷ người đang sống trên hành
tinh này. Giả sử (giả sử thôi) như trong hình dung của tác giả, đó
là những nước còn lại sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ thì chẳng lẽ
bất cứ công dân nào đang sống trong nửa phần nhân loại ấy đều là
những người có được lòng tin vào cái “thiên đường” mà tác giả khẳng
định? Thực tế cho chúng ta biết rất rõ rằng, ngay cả những đảng viên
cộng sản hiện nay, nếu phải viện lý do để vẫn còn ở trong Đảng, họ
có thể nói đủ thứ (tốt nhất là nói theo các nghị qưyết) nhưng không
ai còn dám đem cái “thiên đường” ấy ra để phô diễn lập trường cả!
Tác giả thử làm một cuộc thăm dò với những người đồng chí xung quanh
mình thì biết, khỏi cần đi đâu cho xa xôi.
Với cái cách diễn đạt của tác giả như vậy, tôi không tin rằng tác
giả thấy cần thiết phải tìm đọc cho được những tài liệu nghiêm chỉnh
về Marx, nhất là trực tiếp với những trước tác đầy đủ của triết gia
này để tìm hiểu tư tưởng của ông một cách có căn cơ, trung thực.
Cách sử dụng ồn ào khái niệm gọi là “chủ nghĩa nhân đạo” của Marx –
mà tác giả đã xác định cho nó cái nội dung “xoá bỏ sự thống trị, bóc
lột để mang lại công bằng cho toàn thể loài người” và cho đó đương
nhiên đã là “điều tốt đẹp” không thể nào phủ nhận được – đã chứng tỏ
tác giả chỉ hiểu tư tưởng của Marx qua một số danh từ mòn sáo, bay
bướm, nhặt ra từ sách giáo khoa hoặc tài liệu của các lớp chỉnh huấn
sơ cấp của Đảng với cái kiểu lôgích về lập luận như sau: chủ nghĩa
Marx là “nhân đạo” và “tốt đẹp” như thế, là một học thuyết không có
mục đích nào khác hơn là “đem hạnh phúc cho toàn thể loài người” vậy
mà lại có những kẻ đi bôi nhọ, phủ nhận, xuyên tạc, chống đối, thế
thì những bọn đó là cái giống gì?
Thật sự thì, khái niệm “nhân đạo” không có gì xa lạ đối với những
học giả nghiên cứu về Marx, và cũng chẳng có ai khơi khơi đem mấy
chữ “nhân đạo” ấy ra mà phủ nhận (đoạn văn dẫn từ
Wikipedia ở trên đã
nói đến khái niệm “chủ nghĩa nhân đạo” theo nghĩa tích cực). Nhưng
khi nói như vậy, và chỉ biết nói như vậy thôi, thì không có ai đã
nghiên cứu cặn kẽ về Marx mà lại có thể cho mình đã biết đủ về chủ
nghĩa Marx, dù là đứng trên quan điểm của những người theo Marx hay
quan điểm của người phê phán Marx. Đối với những người theo Marx,
chủ nghĩa nhân đạo mácxít đã vượt hẳn những thứ chủ nghĩa nhân đạo
khác ở tính chất hiện thực của nó, chủ nghĩa nhân đạo ấy không phát
xuất từ bản thân lòng mong muốn cao cả của những triết gia muốn làm
điều tốt cho con người mà chính là trí tuệ của những triết gia nhìn
ra được những điều kiện hiện thực mà lịch sử đã mang đến để bản thân
con người đứng lên tự giải phóng mình một cách hiện thực.
Những điều kiện ấy không có gì bí mật trong những tác phẩm của Marx.
Đối với những người theo Marx thì đó là sự huỷ thể tất yếu của chủ
nghĩa tư bản đã phát triển đến mức tột cùng của nó với những mâu
thuẫn không dàn xếp được, nhất là những căng thẳng do chế độ tư hữu
gây ra, từ đó làm tất yếu nẩy sinh trong lòng nó một chủ thể mới có
khả năng đại diện cho cái nhân loại đau khổ vùng lên đào huyệt chôn
nó rồi sau đó trên nấm mồ của nó dựng nên một thế giới tương lai
vĩnh viễn không còn bất công, nghèo khổ, sầu đau. Nhưng đối với
những người phê phán thì tất cả những điều nói trên đã không mang ý
nghĩa gì hơn là những suy đoán lô gích, tư biện, xuất phát từ những
giấc mơ của những triết gia nuôi tham vọng đưa con người đến vương
quốc của những điều hoàn hảo (một thiên đường hạ giới trong hình
dung của một thời ấu trĩ), nhưng rồi cùng với thời gian và với sự
thay đổi do thời gian mang tới, những giấc mơ được xem là những khả
thể hiện thực đã trở thành những giấc mơ phản hiện thực thuần tuý,
cho nên khi mang ra thực hiện cuối cùng đã bị hiện thực đánh sập tan
tành
[3]. Như vậy, cái chủ nghĩa nhân đạo mácxit mà những người theo Marx thường gọi là “chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và khoa học” thì dưới con mắt của những người phê phán Marx lại hoá thành một thứ chủ nghĩa nhân đạo không tưởng, hoang đường! Trước cuộc tranh cãi dai dẳng kéo dài cả thế kỷ rồi mà chưa dứt trong hàng ngũ những người đã đọc Marx một cách nghiêm chỉnh ấy, tôi thấy Đông La không thuộc vào loại người nào cả, như tác giả đã nói ở một nơi khác: không “bảo thủ” cũng không “cấp tiến”, còn ở đây thì lại càng không là gì cả: không thể gia nhập vào hàng ngũ những nhà mácxít thứ thiệt mà cũng chẳng thể làm bạn được với những người phản-mácxít đàng hoàng – bởi vì khái niệm gọi tên là “chủ nghĩa nhân đạo” mà Đông La đã nhân danh Marx để ồn ào thật sự chỉ là một danh từ lôm côm, làm dáng, có lẽ chỉ có khả năng “chộ” được một ít người chưa bao giờ đọc và hiểu được một trang sách nào của Marx!
3.
Không có những kiến thức căn bản để hiểu Marx từ nguồn cội, tác giả
đã không thể nào lý giải được thoả đáng cái hiện tượng làm nhức nhối
không biết bao thế hệ những đệ tử của Marx từ khi Marx chết cho đến
nay: trên lý thuyết, chủ nghĩa xã hội mácxít thường được cho là
“khoa học”, “nhân đạo” rất ngon lành, nhưng khi đưa vào thực hành
thì lại tạo ra không biết bao điều kỳ quái, thậm chí đi đến chỗ “làm
ngược lại tinh thần nhân đạo của Marx” (như tác giả đã viết)
nghĩa là cũng rất ác độc, tàn tệ, để cuối cùng đẩy đội ngũ những
chiến sĩ đi xây dựng thiên đường cho nhân loại vào chỗ phân liệt,
chia rẽ, chửi bới, bắn giết nhau như những địch thù, từ trong phạm
vi riêng rẽ của từng đảng cộng sản đến cả trong phong trào cộng sản
quốc tế, giữa các trường phái, các quốc gia.
Hiện tượng này đã được giới nghiên cứu giải thích bằng nhiều cách,
nhưng không biết “nghe hơi nồi chõ” ở đâu, tác giả đã quy tất cả về
một điều quá đơn giản: rút lại chỉ tại người ta “hiểu chưa rõ, hiểu
sai, từ những khái niệm đến những nguyên lý cơ bản” trong lý luận
của Marx. Cách giải thích này không hoàn toàn sai, nhưng nếu sự ngộ
nhận đó có xảy ra thì thực sự cũng chỉ với những tay mơ về chủ nghĩa
Marx chứ không thể nào vận được vào những người hiểu rất rõ Marx như
Lenin. Về ông thầy của lý luận vô sản này, tác giả đã theo đuôi
những cái lưỡi gỗ tuyên huấn Đảng, hễ có dịp là ca ngợi hết lời sự
vận dụng tài tình của ông ấy vào cách mạng Nga để tạo ra kỷ nguyên
mới cho học thuyết Marx đi vào xây dựng trên phạm vi thế giới. Thật
sự thì với những ai hiểu rõ sự chuyển hoá của chủ nghĩa Marx từ lý
luận đến thực hành, đều cho Lenin mới là người mở đầu cho việc đưa
học thuyết Marx vào thực tế một cách thực dụng, vặn vẹo, tuỳ thời,
cho phép đường lối, bạn thù đổi thay xoành xoạch, cuối cùng không
tạo ra một cái gì khác hơn một chế độ mà khái niệm “XHCN” đi kèm
theo nó chỉ là cái nhãn trang trí đơn thuần.
Khi tiến hành cuộc cách mạng Nga, Lenin hiểu rằng, về mặt kinh tế,
nước Nga chưa có đủ điều kiện để có được một cuộc đổi đời mácxít
đúng nghĩa. Nhưng với sự nhạy cảm của một nhà chính trị tài ba, ông
đã biết khai thác nhanh chóng cái thời cơ suy yếu, rối loạn của nước
Nga quân chủ trong chiến tranh (thế giới lần thứ I), giành lấy chính
quyền, theo Marx thiết lập ngay nền chuyên chính vô sản trong một
nước mà giai cấp vô sản là rất yếu, đem áp dụng ngay chế độ công
hữu, tập thể cho một nền kinh tế chưa thoát ra khỏi thời trung cổ –
tất cả đều dựa trên sự thách thức của một niềm tin mà Lenin đã được
sư phụ chỉ dặn: sớm hay muộn ở những nước tư bản phát triển, cách
mạng xã hội chủ nghĩa phải khẳng định được mình trong thành công thì
cách mạng ở một nước chậm tiến như nước Nga mới có thể hoà nhập vào
dòng chảy của thời đại để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua
một nấc trung gian nào.
Nhưng sự thật đã diễn ra không chiều lòng người: không có cuộc cách
mạng vô sản nào ở phương Tây nổ ra để yểm trợ cho Lenin, cho nên
cuộc cách mạng ở Nga đã trở nên “tiên thiên bất túc”, từ đó về sau
đã phải đi theo con đường ngày càng xa rời sự chọn lựa ban sơ. Cuộc
chuyển mình có tính chất thế giới của Marx đã trở thành cuộc giành
chính quyền trong một nước riêng lẻ, không phải trong một nước đã
công nghiệp hoá xong mà là một nước lạc hậu nghèo nàn. Sự chuyên
chính của giai cấp vô sản theo nghĩa của Marx là sự chuyên chính của
một giai cấp đã chiếm đại đa số dân cư (do quá trình vô sản hoá) tự
mình nẩy sinh ra được ý thức về chủ nghĩa xã hội, nay đã trở thành
sự chuyên chính của một một thiểu số cầm quyền tự cho là đại diện
giai cấp vô sản với cái lý luận về chủ nghĩa xã hội do những trí
thức tư sản đem từ ngoài vào cải tạo lại những người mà nó đại diện.
Nhà nước chuyên chính thay vì theo Marx phải giảm dần vai trò để
cuối cùng tiêu vong thì lại trở thành một guồng máy quan liêu thống
trị và trấn áp, tồn tại không biết đến lúc nào mới hoàn thành sứ
mệnh của thời quá độ.
Như vậy, không phải người ta hiểu sai, làm sai lý luận của Marx mà
chính là người ta đã quá trung thành với Marx, nghĩa là cố đem áp
dụng cho được những nguyên lý của Marx vào những tình thế thiếu hoàn
toàn điều kiện để áp dụng, đó là theo cách giải thích của những
người theo Marx, nhưng đối với những người phê phán thì lại là việc
đem cái thiên đường mộng tưởng ra gò ép cuộc sống phải khuôn nắn
theo, và chính vì thế mà bị cuộc sống phản ứng lại theo đúng với bản
chất cứng đầu của nó. Và đó mới là nguyên nhân chính yếu đưa đến cái
lý luận gọi là “vận dụng chủ nghĩa Marx vào hoàn cảnh cụ thể ” mở
đầu với kinh nghiệm năm 1921 về Chính sách kinh tế mới (NEP) của
Lenin, sau này, qua bao nhiêu thí nghiệm tang thương, được một số
nước thể nghiệm lại dưới những khái niệm “thị trường xã hội chủ
nghĩa” ở Đông Âu, “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung quốc” ở Trung
quốc hoặc “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam hiện
nay. Những ai đã đọc Lenin đều biết nguồn gốc của những chuyển đổi ấy nếu được nhìn một cách thực tế thì sẽ thấy đơn thuần chỉ là chiến thuật về “những bước lùi” và “những thoả hiệp” mà nhà cách mạng vô sản xôviết này đã dạy cho các đệ tử của mình biết cách ứng xử khi rơi vào những những cơn nguy khốn để tránh khỏi phải mất tất cả, nhất là đưa đến chỗ làm sụp đổ guồng máy cầm quyền do mình giành được bằng máu. Thoả hiệp và thoả hiệp, dù đó là bọn kẻ cướp thì vì lợi của cách mạng khi cần thiết, chúng ta cũng phải biết thoả hiệp – Lênin đã dặn những người cộng sản rõ ràng như vậy 4. Không nhớ điều đó hay có thể cũng chẳng biết điều đó, tác giả Đông La đã không nhìn ra được thực chất của cái xã hội “đổi mới” ra đời “dưới sự lãnh đạo” của Đảng cộng sản hiện nay ở Trung quốc và cả Việt Nam chính là cái thực thể mà học thuyết Marx đã phủ định từ nền móng, không có tên gọi nào khác hơn là chủ nghĩa tư bản, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội mácxít, nên mới khen cái cái chế độ “XHCN” đã xoay chiều đó là “vì tinh thần nhân đạo, vì lợi ích cách mạng” một cách xun xoe hể hả!
4.
Đọc những gì Đông La thường chen vào các hàng chính luận để nói về
mình (nhất là trong những trang xoay quanh cuốn
Bóng đè của Đỗ Hoàng
Diệu), tôi biết được, vì rất nhiều lý do thực tế, tác giả có vẻ rất
thoả mãn với cái xã hội đã được “đổi mới” hiện nay. Thật ra điều này
chẳng có gì cần bàn luận để khen chê, nếu tác giả biết dừng lại ở đó
để lo việc thăng tiến cho đời sống (kể cả làm thơ để lấy tiếng),
không cần quan tâm đến chuyện mèo trắng mèo đen, xã hội hay tư bản
gì cả, điều mà hiện nay rất nhiều người xung quanh tác giả đang đeo
đuổi một cách vui vẻ. Dù sao so với thời ăn bo bo lúc trước, cuộc
sống hôm nay chẳng đã đã khá hơn nhiều rồi hay sao?
Vấn đề chỉ trở thành lộn xộn và kỳ cục khi không lượng sức mình tác
giả đã lao vào cuộc “thách
thức trí tuệ” đặt ra cho mình bằng một trò chơi chữ nghĩa rất
tào lao là đem cái lý luận về chủ nghĩa nhân đạo mácxít ra để biện
minh cho chế độ mà tác giả đang ủng hộ, bằng cách chỉ cho chúng ta
thấy rằng “mỗi bước đi” của chế độ ấy “đã được chiếu sáng” bởi tư
tưởng của nhà cách mạng vô sản vĩ đại mà nội dung tư tưởng ấy được
tác giả cho là “một tình
yêu bao la với con người”! Mỗi bước đi, có nghĩa là mỗi việc
làm, mỗi hành vi suốt từ ngày chế độ ấy ra đời cho đến nay đều thấm
đẵm cái tình yêu con người? Thế thì ý nghĩa của sự chiếu sáng ấy là
gì khi tác giả nói đến cái lịch sử làm sai lạc chủ nghĩa Marx, cái
lịch sử “thậm chí làm
ngược lại tinh thần nhân đạo của Các Mác”? Chẳng lẽ trong viết
lách trước sau muốn nói thế nào cũng được hay sao?
Giả sử như hôm nay ta đổi mới theo kiểu tư bản chủ nghĩa để khỏi ăn
bo bo ta gọi đó là “nhân đạo” nhưng hôm qua trong cải cách ruộng
đất, ta làm cho những cánh đồng miền Băc trắng xoá khăn tang thì
cũng là “nhân đạo”? Sau 1975, ta cải tạo tư sản, cải tạo “nguỵ quân,
nguỵ quyền”, hợp tác hoá nông thôn… đẩy bao người vào cảnh khốn khổ,
cuối cùng bất chấp hàm cá mập, vượt biển ra đi trên những chiếc
thuyền mong manh… tất cả những điều như thế cũng được chiếu sáng
bằng “tình yêu bao la
đối với con người” hay sao? Ấy là ta chưa kể đến những điều ta
đối xử với chính những đồng chí của ta: thí dụ như ta dựng nên từ
đầu đến cuối vụ án gọi là “xét lại chống đảng và gián điệp lật đổ
chế độ”, đưa biết bao những người cộng sản đã bỏ cả đời “đi theo
Đảng” vào tình cảnh phải sống oan khuất, tức tưởi, đau đớn cùng cực
– và như thế thì cũng gọi là “nhân đạo” sao?
Chắc sẽ có những người ái mộ tác giả cho rằng chì chiết làm gì cái
trò chơi chữ nghĩa thường hay bị quá đà dưới bàn tay lạnh của những
nhà thơ có trái tim nóng! Thôi thì cũng được. Nhưng bạn sẽ nghĩ gì
khi tác giả không chỉ lỡ đà trong việc ủng hộ chế độ bẳng thứ triết
học Marx ấm ớ mà còn đẩy đến tận cùng sự ủng hộ ấy bằng cách muốn
chận đứng tất cả những ai đã dám phê phán đến tận nền tảng cái đường
lối nhân danh Marx để gây ra bao đau thương cho con người mà tác giả
cũng không hề chối cãi về những sai lầm của nó. Một ai đó cũng có
thể nhắc chúng ta rằng, qua những gì đã viết, tác giả không phải là
người tán thành mù quáng chế độ đương quyền và do đó không hề chỉ
trích sự phê phán những sai lầm của chính quyền ấy, mà chỉ công kích
những người quá khích, phủ nhận sạch trơn thôi. Thì cũng được nhưng
với những những lý lẽ tầm phào về chủ nghĩa Marx như trên, với thái
độ lên gân dễ dãi, nói năng bừa bãi như vậy thì thuyết phục được ai!
Nhất là với những tên tuổi hầu hết tóc đã bạc phơ mà tác giả kể ra
như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần,
Dương Thu Hương, Hà Sĩ Phu, Lữ Phương v.v… Ngay những cái tên được
kể vì có liên hệ đến chủ đề mà tác giả đặt ra để công kích cũng là
quá tuỳ tiện, thiếu hẳn sự hiểu biết về toàn cảnh nên đã bỏ qua rất
nhiều nhân vật tiêu biểu đã có những phát biểu nghiêm chỉnh về chủ
nghĩa Marx cần được thảo luận như Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang,
Phan Đình Diệu, Đặng Quốc Bảo… Lại cũng thiếu hẳn cả một lớp trẻ
cùng lứa với tác giả như Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí
Quang, Phương Nam… cần phải quan tâm để tìm hiểu xem tại sao lớp
người lớn lên trong bầu không khí “nhân đạo” của chủ nghĩa Marx mà
nay lại quyết liệt đi theo con đường ngược hẳn với tác giả, trong
khi đó thì làm ồn lên về tác phẩm phi chính luận của một người viết
văn mới vào đời là Đỗ Hoàng Diệu với tập truyện
Bóng đè nội dung
không nói gì đến học thuyết Marx trừ cái tên “Karl” được dùng làm
biểu tượng phúng dụ. Điều này cho biết tác giả cũng chỉ lướt qua loa
các báo “chống diễn biễn hoà bình” trong nước hoặc một số bài trên
các website đấu đá hải ngoại chứ không hề tự mình tìm hiểu hiện
tượng mà mình đề cập một cách đàng hoàng, tới nơi tới chốn.
Nếu bỏ qua chuyện liệt kê tuỳ tiện nói trên và dựa vào cái danh sách
mà tác giả kể ra để bàn luận, những người am hiểu đã không khỏi ngạc
nhiên khi thấy tác giả đã nhét chung tất cả những tên tuổi ấy vào
cái giỏ gọi là chống chính quyền, chống chủ nghĩa Marx, không cần
phân biệt ai với ai. Trong số các người tác giả đã kể đúng là không
ít người chẳng biết gì về Marx hoặc “hiểu sai” Marx, uất hận chính
quyền nên chửi luôn Marx cho bõ ghét nhưng cũng có người chỉ phê
phán chính quyền mà không đả động gì đến học thuyết Marx, có người
lại nhân danh và dựa vào Marx để phê phán chính quyền, có người chỉ
nhắc đến Marx trong những bài viết, bài nói về chính trị, thời sự
nhưng có người lại đi sâu vào mặt học thuật, dựa hẳn vào những tác
phẩm của Marx để phân tích nghiên cứu.
Không tìm hiểu đầy đủ những con người và tác phẩm cụ thể của từng
người một trước khi lao vào luận chiến, tác giả bằng lòng với việc
lướt qua những phát biểu bị đưa ra khỏi những ý tưởng tổng thể của
những người bị phê phán, rồi dựa vào cái mớ kiến thức hời hợt, sai
sót, cẩu thả của mình về cái gọi là “ chủ nghĩa nhân đạo” của Marx
để vặn vẹo, bắt bẻ lăng nhăng, không tạo ra được ấn tượng gì khác
với những người đọc có hiểu biết là buộc phải chứng kiến một trò
thao tác chữ nghĩa om xòm, trống rỗng. Đối với một vấn đề có tính
chất học thuật, triết học, chính trị, khó khăn và phức tạp cần
nghiêm túc thảo luận mà tác giả lại viện đến cái phương pháp đả kích
kiểu “chống diễn biến hoà bình” như vậy thì nhiều lắm cũng chỉ đủ
làm bộc lộ trình độ và nhân cách thực tế của bản thân, không có chút
khả năng nào rọi sáng cho vấn đề mà tác giả đặt ra từ đầu, tưởng
chừng như rất là tâm huyết và trí tuệ.
Là một người có quen biết một số những vị được tác giả gọi là “chống
đối” suốt hơn 20 năm qua, hiểu khá rõ những ưu những nhược của họ
(về tính cách lẫn trình độ), tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy tác giả
quy cho họ cái động cơ rất lạ lùng là đã “bạo miệng” lên tiếng “chê
những nhân vật vĩ đại” chỉ với tham vọng muốn được “thành người vĩ
đại”! Và chỉ dựa vào cái động cơ hết sức vớ vẩn ấy, tác giả đã lớn
tiếng dạy dỗ các vị ấy bằng một cái giọng lếu láo cực kỳ, cho rẳng
những con người ấy chẳng có nghiêm chỉnh gì cả, mà chỉ xuất phát từ
thái độ “kiêu ngạo tiểu
nông, khí khái phong kiến, chưa biết mình, biết người, nên chẳng
khác gì hành động muốn lấy gang tay đo cao rộng của trời đất, lấy
bát ăn cơm đong nước của biển cả, để cuối cùng thân làm tội đời”!
Trong mô tả của tác giả, người ta không thể nào không hình dung ra những con người ấy như những Chí Phèo liều mạng, chống đối để chống đối, không còn liêm sỉ để biết mình nói đúng hay sai, điên điên khùng khùng, không còn biết sợ hãi là gì khi bị bỏ tù, có khi còn cầu mong đi tù để trở thành nổi tiếng! Có nghĩa gì đâu với những con người đó chuyện một chế độ nhân danh Marx để đưa đất nước lên “thiên đàng” nhưng chẳng làm được gì khác hơn là đẩy nhân dân vào nghèo đói, chuyên chế, nhục nhã trước thế giới vì luôn đứng vào hàng áp chót trong lĩnh vực tự do, dân chủ, nhân quyền…nhưng lại đứng vào hàng đầu trong những chuyện hối lộ, tham nhũng, ăn cắp của công…Tất cả những điều đó chẳng có gì đáng quan tâm với những con người như vậy bởi vì với những con người đó thì các trỏ múa may chơi trội để nổi danh mới là mục tiêu!
5.
Một thẩm định tâm lý tầm phào, suy bụng ta bụng người, bậy bạ hết cỡ
hay chỉ là một trò bôi nhọ thô bạo nhắm vào hàng ngũ những kẻ gọi là
“chống đối” cứng đầu, từ lâu đã làm cho chế độ đương quyền bực bội,
muốn tìm mọi cách để bịt miệng nhưng vẫn không được? Tác giả tỏ ra
không đồng ý với “cách
xử lý mang tính bạo lực của chế độ” với các vị ấy, nhưng rồi sau
đó lại cho rằng tuy vậy các vị ấy lại “không
bị oan hoàn toàn” thì điều đó có nghĩa là gì?
Thật khó lòng khi đọc những thứ lòng vòng, giả dối đó, chúng ta khó
có thể nghĩ khác đi về cái ý tưởng thật sự của tác giả: tuy những kẻ
chống đối ấy chẳng quan tâm gì đến những chuyện “vì dân vì nước” cả,
nhưng chỉ vì bốc đồng, háo danh dám liều mạng phủ nhận cái “thiên
đường” do Đảng tạo ra trong từng bước đi cho “nhân dân”, chỉ như vậy
thôi, họ cũng cần phải cho đi tù, quản chế, theo dõi, khuấy rối bằng
mọi cách cho đáng đời! Chẳng phải đó mới chính là nội dung thâm sâu
của cái hành vi gọi là “thách thức trí tuệ” của tác giả hay sao?
Chẳng phải với thứ luận điệu đó tác giả đã hùa theo một số tờ báo chuyên nghề làm chiến tranh chính trị của nhà nước đương quyền để công kích những tên tuổi mà tác giả đã kể ra hay sao? Mọi thứ dường như đã trở nên rõ rệt: cái lối nói nhăng nói cuội về “tình yêu bao la” của “Các Mác” cùng với niềm tin về một thiên đường bánh vẽ được tác giả bốc lên mây xanh cuối cùng đã không dấu nổi cái thực chất ton hót chính trị cực kỳ tồi tệ của nó!
talawas 11.2.2006
1
talawas 24-1-2006. [Ghi chú tạm của Trần Hữu Dũng:
Trang web talawas không truy cập được (một cách
hợp pháp!) từ Việt Nam. Tôi sẽ chuyển bài này về trang
viet-studies khi tôi trở về Mỹ] 2 Đây là nguyên văn đoạn văn trong bài viết của tôi về Derrida mà Đông La chỉ rứt ra những chữ in đậm để sử dụng và cho rằng … đã quên tên tác giả:“Những gì Derrida trình bày về “10 vết lở” của thế giới hiện đại trong chương III cuốn sách của ông đã được những nhà lý luận cộng sản Việt Nam coi đó là chủ đề chính tạo thành một thứ tuyên ngôn chống chủ nghĩa tư bản quyết liệt: thất nghiệp, mất không gian sống, chiến tranh thị trường, tình trạng nghèo khổ phổ biến ở vùng Nam bán cầu, sự đe dọa khủng khiếp của công nghiệp vũ khí và bom hạt nhân, chiến tranh sắc tộc tràn lan, sự lộng hành của các thế lực tội ác có tổ chức, tình trạng luật pháp quốc tế bị một số cường quốc thao túng.” (Lữ Phương: “Về một bóng ma của Marx”, talawas 14-10-2004).
3
“Cuộc đấu tranh giữa hai hình thái “Tư bản” và “Chủ nghĩa Xã
hội” là cuộc đấu tranh khốc liệt của nhân loại trong thế kỷ 20.
Ban đầu vì sự mới mẻ của ý tưởng và vì những lý do chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội đặc trưng của thời kỳ đó mà chủ nghĩa
xã hội đã thắng thế trên phạm vi lớn của thế giới. Cuộc đấu
tranh của hai phe là nguyên nhân chính của các sự kiện trên thế
giới. Trong quá trình phát triển của mình, chủ nghĩa tư bản đã
thích nghi được với những thách thức của thời đại và đã vượt qua
được đối thủ và giành được quyền tồn tại. Chủ nghĩa xã hội (chủ
nghĩa cộng sản), do những điểm yếu chí mạng không thể khắc phục
được của mình, đã mất hết sức quyến rũ và bị xã hội từ bỏ” (Bài
của Wikipedia đã
dẫn).
4
Nguyễn văn câu của Lenin:”Nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải
thoả hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thoả hiệp” (Lênin
toàn tập, tập 41, Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 24). 3-8-08
|