TỪ
NGUYỄN TẤT THÀNH ĐẾN HỒ CHÍ MINH
(Sự hình thành
một chọn lựa)
Chương 2
Đến với chủ nghĩa cộng sản
Điểm xuất phát: Cái nôi Phan Châu Trinh
Cuộc đời chính
trị của Nguyễn Tất Thành chỉ thực sự bắt đầu khi từ Anh trở lại Pháp
với cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc ký dưới bản Những yêu sách của
nhân dân Annam, đại diện cho “Nhóm những người Annam yêu nước”,
gửi Hội nghị Versailles vào tháng 6 năm 1919. Về sự kiện này Trần
Dân Tiên, tác giả cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch đã viết như sau:
“Ông
Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Paris và ở các
tỉnh ở Pháp. Với danh nghĩa này, ông đã đưa những yêu cầu ra
trước hội nghị Versailles (…) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu
cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường
viết, vì lúc bấy giờ, ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng
nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không
tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy
cho nhóm thanh niên là trẻ con”
[1].
Chủ đích của đoạn
văn trên là khá rõ rệt: cái nhóm “thanh niên” mà Nguyễn Ái Quốc đã
nhân danh để gửi bản Yêu sách tám điểm cho Hội nghị
Versailles vào tháng 6 năm 1919 là tổ chức do Nguyễn Ái Quốc “sáng
lập”
[2], hoạt động riêng biệt,
không được các ông Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường ủng hộ. Tham
khảo nhiều tài liệu khác, chúng ta thấy sự việc không hoàn toàn như
vậy.
a. Bà Thu Trang trong cuốn Nguyễn Ái Quốc, những năm tại Paris
(1917-1923)
[3], căn cứ vào lời một nhân
vật trong cuốn sách của Trần Dân Tiên
[4], cho rằng Nguyễn Tất Thành
đã từ Anh trở lại Pháp vào 1917 và như vậy thì có thể Nguyễn Tất
Thành đã góp phần lập ra Hội những người Annam yêu nước. Vì theo bà,
thì vào khoảng cuối năm 1916, Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường đã
lập ra hội này để kế tục Hội Đồng bào Thân ái lập ra 1912 đã ngưng
hoạt động. Tuy vậy, do chưa tìm thêm được bằng cớ xác nhận Nguyễn
Tất Thành đã đến Pháp năm 1917– đặc biệt không thấy có báo cáo nào
của Mật thám Pháp về việc Nguyễn Tất Thành ở Paris vào thời gian đó
– nên người ta vẫn chỉ coi đó là một giả thuyết.
Cũng có một giả thuyết khác nữa về năm đến Pháp của Nguyễn Tất
Thành. Giả thuyết này cũng căn cứ vào Hồ Chí Minh nhưng không phải
là Hồ Chí Minh-Trần Dân Tiên mà là Hồ Chí Minh-Nguyễn Ái
Quốc: khi bị Sở Cảnh sát Paris gọi đến xét hỏi vào năm 1919 và
1920, Nguyễn Ái Quốc khai đã đến Pháp tháng 6-1919
[5] và cũng chính cái thời điểm
1919 sang Pháp đó mà 20 năm sau (1938), Nguyễn Ái Quốc đã khai với
Quốc tế Cộng sản, còn những năm về trước (1917-1918) thì đang làm
việc cho một nhà giàu ở Brooklyn (Mỹ)
[6]. Cũng chẳng có gì ngăn cản
người ta tin hay không tin vào giả thuyết này (những lời khai của Hồ
Chí Minh với “ta” hay với “địch” thường bất nhất
[7]), nhưng dù thế nào đi nữa
thì việc Nguyễn Ái Quốc tự cho mình đứng ra lập “Hội những người
Annam yêu nước” và hoạt động không cần sự hợp tác của Phan Châu
Trinh và Phan Văn Trường là điều hoàn toàn tưởng tượng
[8].
b. Câu chuyện Nguyễn Ái Quốc bị chỉ trích “trẻ con” là chuyện có
thật. Nhưng lại không thật hoàn toàn: chỉ có Phan Châu Trinh, do là
bậc cha chú, mới hay chỉ trích Nguyễn thôi. Và cũng chỉ trích trong
một hoàn cảnh khác, không dính dáng gì đến bản Yêu sách tám điểm
năm 1919. Một mật thám mang tên “Edouard” đã thuật lại một cuộc
tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc tại căn nhà số 6
Villa des Gobelins (nơi Nguyễn Ái Quốc đã về ở chung với hai ông họ
Phan) về đề tài người dân bản xứ có thể đòi hỏi gì ở toàn quyền
Maurice Long vừa mới sang Việt Nam thay Albert Sarraut (về làm Bộ
trưởng Bộ thuộc địa). Nguyễn Ái Quốc nói:
“Tại sao
hai mươi triệu đồng bào ta không làm gì để buộc Chính phủ phải
cho chúng ta quyền làm người? Chúng ta cũng là người và chúng ta
phải được đối xử như vậy. Những ai từ chối coi chúng ta là những
người bình đẳng là kẻ thù của chúng ta”.
Phan Châu Trinh
đã trách Nguyễn Ái Quốc là quá bộp chộp:
“Anh muốn
đồng bào tay không của chúng ta làm gì để chống lại những người
châu Âu với những vũ khí của họ. Tại sao dân chúng phải chết vô
ích mà không có kết quả nào”
[9].
Sự tường thuật
trong báo cáo của mật thám “Edouard” đề ngày 20-12-1919, sau cả nửa
năm ngày Nguyễn Ái Quốc công bố Yêu sách tám điểm. Có thể đây
là những dấu hiệu khởi đầu để Nguyễn Ái Quốc vượt khỏi Phan Châu
Trinh, nhưng ý nghĩa của sự “không tán thành” ấy của Phan Châu Trinh
chẳng liên quan gì đến sự ra đời của “Hội những người Annam yêu
nước” cả.
c. Việc Trần Dân Tiên kể về sự kiện bấy giờ Nguyễn Ái Quốc chưa viết
được tiếng Pháp nên phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ khá nhiều bài
báo
[10] là đúng
[11]. Nhưng khi nhà viết tiểu
sử đó cho rằng trường hợp Yêu sách tám điểm của Nhóm những
người Annam yêu nước sáng kiến là do Nguyễn Ái Quốc, còn Phan Văn
Trường chỉ viết ra nhưng lại cùng với Phan Châu Trinh “không tán
thành hoạt động của nhóm” thì lại không phải là sự thật.
Sự thật là bản Yêu sách ấy là do Phan Văn Trường viết bằng
tiếng Pháp, Phan Châu Trinh chuyển ra Hán văn, và Nguyễn Ái Quốc thì
được giao cho dịch ra văn vần viết bằng chữ “quốc âm”
[12], Yêu sách này hình
thành được là do sự thoả thuận của nhiều người nhưng xét về nội dung
thì biểu hiện hoàn toàn lập trường của nhóm Phan Châu Trinh và Phan
Văn Trường vào thời điểm ấy. Chỉ đọc một đoạn của bản Yêu sách
do Nguyễn Ái Quốc dịch ra “quốc âm” trích dẫn sau đây, chúng ta có
thể dễ dàng nhận ra điều đó:
“Pháp dân
nức tiếng xưa nay,
Đồng bào, bác ái, sánh tày không ai!
Nỡ nào ngoảnh mặt ngơ tai,
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Dân Nam một dạ ước mơ,
Lâu nay từng núp bóng cờ tự do…”
d. Không phải chỉ
nội dung mà ngay cái tên Nguyễn Ái Quốc ký dưới Yêu sách ấy,
sau này được Nguyễn Tất Thành giữ luôn làm tên hoạt động, lúc ban
đầu cũng chỉ là một bí danh tập thể, do hai ông Phan tạo ra, chứ
không phải do Nguyễn Tất Thành tự đặt. Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn
thì bí danh này
“có thể là
tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường
của nhiều người Việt, chứ không phải là họ của Tất Thành).
Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des
Patriotes Annamites thấy ký dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám
điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của
Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một
thời gian mà thôi”
[13].
Điều “có thể” đó
đã được bà Phan Thị Minh nói rõ hơn trong câu chuyện do mẹ bà kể lại
hồi bà còn nhỏ về việc Phan Châu Trinh (từ Pháp về) gặp lại Nguyễn
Sinh Huy tại Sài Gòn như sau:
“Sau gần
15 năm cách biệt, hai người bạn tâm giao mới lại gặp nhau: một
người trên giường bệnh, gần kề cõi chết, người kia bao nhiêu năm
lang bạt, cảnh giác tránh né mọi sự khủng bố của thực dân đối
với cha đẻ của một lãnh tụ yêu nước lừng danh lúc này đã về đến
Quảng Châu. Hai vị đã tâm sự nhiều ngày về người con trai yêu
quý. Cụ Sinh Huy vui mừng khôn xiết với lời ngợi khen và niềm
tin tưởng của cụ Châu Trinh dành cho con mình. Cụ Phan kể: Trước
đó chúng tôi đã có vài bài ký danh Nguyễn Ái Quốc, nhưng ít ai
chú ý. Chỉ sau khi có tờ truyền đơn của dân Nam gởi đến Hoà đàm
Versailles và công bố rộng ra thì mới được chú ý. Bộ Thuộc địa
và Cảnh sát Pháp đã đưa giấy đến cho tôi, đòi Nguyễn Ái Quốc ra
trình diện. Chúng ngỡ tôi sẽ ra. Tôi đã bảo Tất Thành ra làm
chúng rất ngạc nhiên. Đó là lần đầu tiên chúng xáp mặt Tất Thành
với tên hoạt động là Nguyễn Ái Quốc”
[14].
Nếu chuyện trên
đây của bà Phan Thị Minh là sự thật thì “cái điểm xuất phát” của
Nguyễn Tất Thành về mặt chính trị khi bắt đầu hoạt động ở Pháp lại
càng được khẳng định rõ rệt hơn: Nguyễn Tất Thành trở thành được
Nguyễn Ái Quốc nổi danh với bản Yêu sách tám điểm là hoàn
toàn do sự sắp xếp của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường
[15].
Môi trường yêu nước và khuynh tả
a. Cái “điểm xuất phát” ấy, tuy sau này bị những người sùng bái Hồ
Chí Minh có ý xem thường khi nhìn lại, nhưng thật sự đã đóng vai trò
rất quan trọng trong việc hun đúc nên rất nhiều nhà yêu nước thuộc
thế hệ mới, trong đó có bản thân Hồ Chí Minh.
Đối với Việt Nam, từ 1911 trở đi, cùng với Quảng Châu, nơi hoạt động
của Phan Bội Châu từ Nhật chạy giạt sang, Paris đã trở thành một
trung tâm cách mạng ở hải ngoại (duy nhất ở châu Âu) từ khi có sự
hiện diện của Phan Châu Trinh. Nhờ uy tín đã tạo ra trong nước, khi
mới sang Pháp, Phan Châu Trinh đã tìm ngay được sự hợp tác của Phan
Văn Trường
[16]; nhờ đó, ngoài việc tiếp
tục cuộc đấu tranh từ trước, ông đã cùng với Phan Văn Trường lập ra
được Hội Đồng bào Thân ái
[17], quy tụ những người Việt
Nam lúc bấy giờ còn rất ít tại Pháp. Đây chính là cái cơ sở ban đầu
để những tổ chức khác nối tiếp, ngay sau đó là Hội những người Annam
yêu nước (1917). .
Có một điều đặc biệt khác khá quan trọng cần chú ý: cũng như ở Quảng
Châu, những hoạt động của những người Việt Nam yêu nước ở Paris bấy
giờ đã diễn ra một cách công khai, có gì khác thì chỉ là nếu ở Trung
Quốc, Phan Bội Châu dựa được vào cuộc cách mạng cộng hoà vừa ra đời
của Tôn Dân Tiên thì ở Pháp những hoạt động của Phan Châu Trinh và
Phan Văn Trường lại diễn ra ngay cái đầu não của một đế quốc theo
đuổi một chính sách thực dân khắc nghiệt. Trong tình thế ấy, những
người không có những điều kiện như Phan Châu Trinh và Phan Văn
Trường chắc chắn sẽ không thể nào hoạt động được theo cái cách mà
các ông đã hoạt động. Đặc biệt nhất là với Phan Châu Trinh: vừa được
chính quyền mẫu quốc tranh thủ, mua chuộc
[18] đồng thời lại được khá
đông những nhà hoạt động văn hoá, chính trị (Babut, Marius Moutet,
Jules Roux…) trong Hội Nhân quyền và Đảng Xã hội, dựa vào những
nguyên tắc của nền dân chủ và dân quyền của Cách mạng Pháp, ủng hộ,
giúp đỡ.
b. Dù 1917 hay 1919 thì khi trở lại Paris, Nguyễn Tất Thành đã gặp
tất cả những thuận lợi mà hai ông Phan đã tạo ra sẵn cho anh. Không
bị những lo liệu vì sinh kế trói buộc (trong một thời gian anh đã
sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Châu Trinh và một người trong nhóm
là Khánh Ký
[19]), anh còn được Phan Châu
Trinh đẩy ra ngay phía trước, trực tiếp đảm nhận công việc của một
người lãnh đạo mới. Có thể nói không có sự yểm trợ của nhóm các ông
Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường thì không thể có sự xuất hiện của
Nguyễn Tất Thành với danh nghĩa Nguyễn Ái Quốc.
Cái môi trường chính trị khách quan ở “mẫu quốc” lúc bấy giờ cũng đã
hỗ trợ Nguyễn Ái Quốc không ít. Không những anh có thể đọc được các
thứ sách báo mà trong nước anh từng cho biết là bị cấm đọc (anh hay
nói đến Rousseau, Montesquieu) mà còn có thể dựa vào những điều sở
đắc được trong những thứ sách báo ấy để chống lại chủ nghĩa thực
dân, không chỉ bằng viết lách, tuyên truyền mà còn có bằng những
phương tiện khác như biểu tình, kiến nghị , tổ chức, lập hội… được
luật pháp của chế độ cho phép nữa.
Cái môi trường hoạt động ấy, tuy bị nhiều người coi là “cải lương”,
nhưng ở Pháp vào lúc bấy giờ đã mang tính chất khuynh tả rất rõ rệt.
Ở đây ngay cả những chỉ trích, đòi hỏi ôn hoà với chính sách thống
trị của chủ nghĩa thực dân cũng chỉ tìm được sự ủng hộ nơi những
người hoạt động như Hội Nhân quyền và Đảng Xã hội như chúng ta đã
biết. Vấn đề vận động cho chủ quyền dân tộc ở đây tất yếu đã gắn
liền với lập trường khuynh tả về xã hội, cái đà xuất phát ấy là bước
khởi đầu rất quan trọng đối với Nguyễn Tất Thành. Người ta không lấy
làm lạ khi thấy Nguyễn Tất Thành sau khi trở thành Nguyễn Ái Quốc
một thời gian ngắn, đã là đảng viên của Đảng Xã hội Pháp. Khi hỏi vì
sao gia nhập đảng này, anh đã trả lời một câu mà về sau anh sẽ còn
lặp lại trong nhiều trường hợp khác:
“Chỉ vì
đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy
nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: tự do,
bình đẳng, bác ái”
[20].
Tất cả những cái
khác dường như anh không quan tâm lắm như về sau này anh cho biết:
“Tôi tham
gia Đảng Xã hội Pháp chẳng là vì các ‘ông bà’ ấy – hồi đó tôi
gọi các đồng chí của tôi như thế – đã tỏ đồng tình với tôi, với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì,
công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì,
thì tôi chưa hiểu”
[21].
Có lẽ vì vậy mà
hoạt động của anh vẫn chưa có gì thật sự mới mẻ: người ta thấy anh
vẫn thường đi chung với Phan Châu Trinh trong những cuộc họp do Đảng
Xã hội tổ chức, Yêu sách tám điểm vẫn được anh sử dụng trong
vận động tuyên truyền. Nhưng cũng nhờ việc tham gia Đảng Xã hội mà
những quan hệ chính trị của anh bắt đầu trở nên rộng rãi hơn và tích
cực hơn. Những người anh tiếp xúc đã vượt ra ngoài các vị trong Hội
Nhân quyền từng ủng hộ Phan Châu Trinh. Với danh tiếng một lĩnh tụ,
không những anh đã quen những nhân vật nổi tiếng trong Đảng Xã hội
như Marcel Cachin, Paul Vaillant Couturier, Léon Blum, Raymond
Lefèvre, Jean Longuet, Gaston Monmousseau… mà còn cả những chính
khách từ những nước Á, Phi tìm đến nước Pháp nhân Hội nghị
Versailles sau Chiến tranh Thế giới lần Thứ nhất để vận động độc lập
cho đất nước của họ.
“Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”
a. Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trở nên sôi nổi đặc biệt có lẽ
từ khi anh bắt đầu tham gia các hoạt động của Uỷ ban Quốc tế Ba của
Đảng Xã hội thành lập vào những tháng cuối năm 1919. Với sự bồng bột
của tuổi trẻ
[22], có lẽ nhận thấy cuộc vận
động kiểu Phan Châu Trinh từ trước đến nay quá chậm chạp, ôn hoà,
anh đã bắt đầu nghiêng sang những giải pháp đấu tranh triệt để hơn,
cách mạng hơn. Anh tham gia tích cực hoạt động của Uỷ ban Quốc tế
Ba, đi quyên tiền cứu trợ nạn đói ở Nga, rải truyền đơn chống lại sự
can thiệp vũ trang của chính phủ Pháp vào nước Nga. Ngoài việc thu
thập tư liệu viết Những người bị áp bức chống chủ nghĩa thực
dân, anh cũng đã bắt đầu quan tâm đến chủ nghĩa cộng sản và đã đăng
đàn nói chuyện về đề tài này nhiều lần
[23].
Chúng ta không biết trong những buổi diễn thuyết đó anh nói gì,
nhưng cho đến tháng 7-1920, khi lần đầu tiên anh tiếp xúc với tác
phẩm của Lenin có tên là Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đăng trên L'humanité của
Đảng Xã hội (ngày 16-6-1920) thì như anh thuật lại sau này, ngay cả
chữ nghĩa trong văn bản nói trên anh cũng chỉ hiểu loáng thoáng
thôi. Nhưng dù vậy nó đã có tác dụng quyết định toàn bộ sự chọn lựa
chính trị của anh từ đó cho đến hết cuộc đời: trong Đại hội Tours
cuối năm 1920 anh đã theo một bộ phận của Đảng Xã hội Pháp bỏ phiếu
tán thành tham gia Quốc tế Ba để trở thành cộng sản. Và lý do của
quyết định lần này cũng không khác lần anh vào Đảng Xã hội trước
đây: “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc
địa”
[24]. Và chỉ vì lý do ấy thôi,
ngay từ hôm ấy, như anh cho biết về sau, anh đã trở thành người học
trò tuyệt đối trung thành của Lenin:
“Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta’”
[25].
b. Chúng ta cũng
không biết sau đó Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu thêm các vấn đề liên
hệ đến chủ nghĩa Lenin như thế nào nhưng đến tháng 5-1921, người ta
thấy xuất hiện trên La Revue Communiste số 15
[26] một bài tham luận của anh
bàn về đề tài: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung
và ở Đông Dương nói riêng không?”.
Câu trả lời của bài viết hiển nhiên là: được! Nhưng không phải chỉ
như vậy: vì hoàn cảnh lịch sử, chủ nghĩa cộng sản còn có thể thâm
nhập vào châu Á “dễ dàng hơn là châu Âu”! Lý do: a) Triều đại nhà Hạ
(2205 trước CN) đặt ra chế độ lao động bắt buộc, b) Khổng tử (551
trước CN) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về
tài sản, 3) Luật pháp Annam cấm mua bán toàn bộ đất đai! Với truyền
thống đó châu Á có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản không cần
phải đi qua chủ nghĩa tư bản.
D. Hémery khi đọc lại bài viết này đã cho rằng “ông Hồ Chí Minh
tương lai dám gợi ý trái với quan điểm chính thống của Quốc tế, rằng
mảnh đất tốt cho chủ nghĩa cộng sản phát triển là châu Á”
[27]. Thật sự thì đây không
phải chỉ là quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Mahendra Nath Roy, đến từ
Ấn Độ, đã từng phát biểu trong Đại hội II Quốc tế Cộng sản (mùa hè
1920) về tầm quan trọng quyết định của cách mạng vô sản ở những nước
phương Đông đối với cách mạng vô sản phương Tây
[28]. Không biết Nguyễn Ái Quốc
đã nghe nói đến ý kiến trên đây chưa, nhưng bài viết của anh tỏ ra
đã có những điểm đồng tình với xu hướng ấy trong cuộc tranh luận về
vần đề chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc lúc bấy
giờ
[29].
Điều mà chúng ta ghi nhận ở đây là khác hẳn những phân tích thực tế
của Roy, Nguyễn Ái Quốc lại dựa vào truyền thống châu Á để biện
luận. Nhưng về mặt này anh lại tỏ ra quá khiên cưỡng: đem chế độ lao
động cưỡng bức, chế độ công hữu về ruộng đất và cả… Khổng tử ra
thuyết minh cho sự tất yếu về con đường cộng sản mác-xít đối với
châu Á! Rõ ràng sự hiểu biết của anh về cách mạng vẫn còn quá “cảm
tính” như sau này anh nói
[30]. Anh không thấy được cái
vực thẳm giữa các thứ công xã tiền tư bản chủ nghĩa và cái “thế giới
đại đồng” hậu tư bản chủ nghĩa của Marx là ghê gớm đến như thế nào.
Niềm tin của anh về cái mà anh gọi là “chủ nghĩa cộng sản” dường như
quá dễ dãi: không biết dựa vào đâu anh hy vọng được vào cái khả năng
Đảng Xã hội Nhật có thể “ngăn cản nước Nhật trượt dài đến vực thẳm
của hiện tượng phương Tây hoá không thể cứu vãn” cùng với cái viễn
cảnh vô cùng tươi sáng về một nước Trung Hoa “được tổ chức lại và vô
sản hoá” theo con đường cách mạng của Tôn Dật Tiên!
Có lẽ Nguyễn Ái Quốc không có ý định hình thành lý luận cho một mô
hình cộng sản châu Á. Với sự hiểu biết vào lúc bấy giờ, anh không
thể làm điều đó được và dường như, xét về tính cách của anh, anh
cũng không muốn làm điều đó. Mục đích của anh thiết thực hơn nhiều:
anh chỉ muốn khẳng mạnh mẽ định lòng tin mới mà anh đang có được để
kêu gọi sự giúp đỡ của những đồng chí châu Âu đối với Đông Dương.
Giúp đỡ những gì? Anh viết:
“Cái mà
chúng tôi thiếu để trở thành cộng sản là những điều kiện cơ bản
nhất để hành động:
Tự do báo chí
Tự do du lịch
Tự do dạy và học
Tự do hội họp (tất cả những cái này đều bị những kẻ khai hoá
thuộc địa ngăn cấm chúng tôi một cách dã man)”
[31].
Nhưng về mặt này
chúng ta cũng thật khó mà hình dung ra một cái gì đó có thể đơn giản
hơn: có tự do mới có thể thành cộng sản, còn không có tự do thì sao!
c. Thật sự thì tuy đã trở thành cộng sản rồi, Nguyễn Ái Quốc vẫn
chưa vượt cái chân trời trong bản Yêu sách tám điểm! Vì cái
đảng cộng sản mà anh mới góp phần sáng lập ra chưa phải là chính
đảng nào khác hơn là Đảng Cộng sản Pháp ở châu Âu, hoạt động trong
lòng một chế độ dân chủ. Anh vẫn cứ phải theo những phương thức hoạt
động của một đảng khuynh tả từ khi còn hợp tác với Phan Châu Trinh:
vận động và tuyên truyền là chính. Nhưng do quần chúng Việt Nam ở
Pháp lúc bây giờ không nhiều
[32] lại ngán ngại những gì quá
gay gắt nên anh phải đến với quần chúng Pháp. Ngoài việc xin vào Hội
Tam điểm, anh còn thường xuyên dự những buổi sinh hoạt của Câu lạc
bộ Faubourg để thảo luận đủ thứ các loại đề tài, đại loại như “Thầy
thuốc là một lũ lang băm hay là những ân nhân của loài người” hoặc
“Phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên”… Trong những cuộc họp ấy, khi
có dịp anh thường lái câu chuyên sang vấn đề… tội ác của thực dân!
Chẳng hạn trong lần thảo luận về thôi miên, anh đã phản đối kịch
liệt vì anh cho rằng “thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp
và bóc lột chúng tôi”
[33]!
Tuy vậy vào thời kỳ này, anh cũng đã thực hiện được một số công việc
đặc biệt khi tham gia Đảng Cộng sản Pháp như sau:
-
Thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp quan tâm và giúp đỡ
thiết thực phong trào đấu tranh chống thực dân ở Đông Dương.
Trong các buổi họp chi bộ, hoặc hội nghị của Đảng, hễ có dịp là
anh nêu ra vấn đề để nhắc nhở phê bình. Cuối năm 1922, tham gia
Ban Nghiên cứu Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, được cử làm
Trưởng ban Đông Dương.
-
Liên hệ với đại biểu những xu hướng chống thực
dân ở một số nước Á Phi để lập mặt trận quốc tế những nước bị
trị mà biểu hiện cụ thể là thành lập “Hội Liên hiệp Thuộc địa”
cuối năm 1921 với cơ quan ngôn luận là Le Paria. Tổ chức
mới này đã trở thành cơ sở hoạt động mới của Nguyễn Ái Quốc,
thay cho Hội những người Annam yêu nước cũ.
“Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội”?
a. Việc Nguyễn Tất Thành dần dần tách rời khỏi cái “điểm xuất phát”
để mang cho danh xưng Nguyễn Ái Quốc nội dung “cộng sản” là điều rất
hiển nhiên. Phan Châu Trinh, người nâng đỡ anh suốt một thời gian
dài, tuy có bộc lộ thái độ “không tán thành” anh nhiều điểm, nhưng
ông vẫn giữ thái độ cởi mở và quan hệ tốt với anh. Ông chỉ phê bình
cái phương pháp hoạt động mà ông gọi là “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi
thời đột nội”
[34] mà anh đang theo đuổi
thôi. Trong bức thư đề ngày 18-2-1922 từ Marseille
[35], ông đã viết cho anh những
dòng mang tính chất tổng kết về cái nhóm yêu nước trong đó có anh
như sau:
“Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (Phan Văn
Trường) đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa
cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của
tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp ngoạ ngoại
chiêu hiền, đãi thời đột nội của anh, và cả cái lý thuyết thâu
nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà anh đã nói với anh
Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi,
tôi chẳng giận tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi đã thấy rằng:
tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ
với anh Phan” .
Phan Châu Trinh bày tỏ sự khâm phục của mình với Nguyễn Ái Quốc
nhưng ông cho rằng cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời
đột nội” – mà ông diễn tả tóm tắt là “quanh quẩn bên này”, “viết bài
đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên
nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước”–, cái phương pháp mà
anh đang theo đuổi ấy sẽ làm cho tài năng của anh “lần hồi mai một”
“phí công mà thôi”. Trong thư, Phan Châu Trinh biết rõ Nguyễn Ái
Quốc đang tôn thờ chủ nghĩa của hai ông “Mã, Lý”, nhưng không bày tỏ
ý kiến gì về việc đó mà chỉ khuyên anh nên đem cái chủ nghĩa ấy về
bên nhà “quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết” rồi “hô
hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế”
– như vậy sẽ “hay biết chừng nào”, “ắt là thành công”.
b. Những ý kiến của Phan Châu Trinh trong bức thư nói trên đã giúp
chúng ta nhìn lại rõ hơn những hoạt động của Nguyễn Tất Thành-Nguyễn
Ái Quốc trong thời gian anh trở lại Pháp. Bà Thu Trang đã chia
khoảng thời gian ấy thành hai giai đoạn: 1) Thời gian đầu đến 1920:
từ Anh sang Paris học hỏi, phần nào chịu ảnh hưởng của Phan Châu
Trinh, 2) Từ 1920 đến 1923 (trước khi sang Nga): tìm đường đến với
chủ nghĩa cộng sản, mở rộng môi trường hoạt động, tách rời khỏi ảnh
hưởng của Phan Châu Trinh
[36].
Cái mốc biến chuyển tuy có rõ rệt nhưng trong thực tế phương thức
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong cả hai giai đoạn nói trên đều
chưa có gì khác nhau lắm. Như chúng ta đã biết, tất cả đều diễn ra
trong cái môi trường chính trị của “mẫu quốc”, được truyền thống của
một định chế dân chủ cho phép, được một số người Pháp cấp tiến giúp
đỡ, trong một cộng đồng “Việt kiều” ít ỏi, nên những hoạt động dù đã
chuyển biến từ “xã hội” (tả) sang cộng sản (“cực tả”) đi nữa, tất cả
đều chưa thoát khỏi giới hạn của những điều kiện đã quy định chúng:
các cuộc vận động đều chỉ nhằm vào tác dụng đánh động, tố cáo, kêu
gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài từ nhiều nguồn, chứ chưa đụng chạm trực
tiếp gì đến những vấn đề nội tại là vấn đề then chốt của mọi công
cuộc giải phóng.
Việc Nguyễn Ái Quốc trở thành cộng sản và tham gia – kể cả sáng lập
– Đảng Cộng sản Pháp cũng không đưa đến những bước đi vượt bậc được.
Về mặt này, những hoạt động nói trên của Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ lặp
lại những toan tính ban đầu của những bậc cha chú của anh là Phan
Bội Châu và Phan Châu Trinh: trước tình trạng bế tắc hoàn toàn về
viễn cảnh của đất nước, nội lực bên trong chưa có gì, việc đi ra
ngoài tìm một “quới nhơn” để dựa dẫm, giúp đỡ là điều không tránh
khỏi. Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật, rồi sau là Trung Hoa. Phan
Châu Trinh muốn dựa vào nước Pháp của Cách mạng 1789. Bây giờ Nguyễn
Ái Quốc muốn dựa vào Đảng Cộng sản Pháp đã theo Đệ Tam Quốc tế. Sự
khác nhau chỉ là những lực lượng cụ thể, không có gì bảo đảm về sự
hiệu nghiệm tất yếu do các thực thể ấy mang lại.
Cả một thời gian dài, sau khi gia nhập, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn
nhân danh “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin để
phê bình và kêu gọi Đảng Cộng sản Pháp quan tâm thiết thực đến các
thuộc địa. Nhưng những đề nghị của anh về việc giúp đỡ này vẫn không
có gì khác hơn là tuyên truyền và tố cáo! Trong khi đó thì Đảng Cộng
sản Pháp vừa mới hình thành, đường lối chưa rõ rệt, phương tiện hoạt
động bị giới hạn, dù có cố gắng đến thế nào đi nữa cũng không thể
làm cho tình thế các thuộc địa khá hơn ngoài việc đẩy mạnh việc…
tuyên truyền và tố cáo! Lý do: Đảng chỉ là một đảng quần chúng, một
đảng chưa có ngân sách và guồng máy của một đảng đã cầm quyền như
đảng ở Nga. Hoạt động trong một môi trường chính trị như vậy, Nguyễn
Ái Quốc không biết làm gì khác hơn là “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi
thời đột nội” như Phan Châu Trinh đã miêu tả rất chính xác.
Sự chọn lựa Đệ Tam Quốc tế của Nguyễn Ái Quốc trong những năm ở Pháp
do đó chỉ là một bước dò đường tiếp nối sau cuộc ra đi và sau những
ngày được ấp ủ trong cái nôi của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường.
Sự chọn lựa chưa thể mang đến một điều gì thật quan trọng cho Việt
Nam như những người sùng bái Hồ Chí Minh đã cho là như vậy. Chúng ta
hãy giả định điều sau đây: nếu Nguyễn Ái Quốc cứ ở luôn tại Pháp thì
liệu anh có trở thành Hồ Chí Minh sau này không? Nếu anh ở luôn ở
Pháp thì anh sẽ có gì khác với những người đồng thời với anh, cũng
đã sang Pháp và trở thành “khuynh tả” như anh, những Phan Văn
Trường, Nguyễn An Ninh
[37], Nguyễn Thế Truyền
[38]…?
Nhưng cũng may lần này câu hỏi giả định của chúng ta vẫn không được
đặt ra trong thực tế. Trong thực tế, sau thời gian thể nghiệm một mô
thức hoạt động cộng sản kiểu châu Âu, vì một lý do chẳng có gì là
tất định, Nguyễn Ái Quốc đã rẽ sang một bước ngoặt quyết liệt: có lẽ
nghe lời khuyên ngày 18-2-1922 của Phan Châu Trinh, anh đi sang Nga
dự một hội nghị trong một thời gian ngắn rồi sẽ tìm đường về nước
hoạt động. Nhưng chính trong chuyến đi này anh đã tạo ra được những
quan hệ mới với phong trào cộng sản quốc tế, từ đó lao hẳn vào một
hướng đi có chất lượng khác hoàn toàn: anh không còn hoạt động trong
môi trường văn hoá châu Âu nữa. Anh trở về với cái thế giới phương
Đông xưa cũ của anh, có lẽ vì đó mà anh mới có được điều kiện để từ
giã thật sự cái nôi Phan Châu Trinh đã ấp ủ anh từ ngày hướng về
phương Tây, anh bỏ nước ra đi.
© 2007 talawas
[1]
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Văn Học, Hà Nội, 1975, tr. 28-29.
[2] “Người đã sáng lập ra
Hội những người Annam yêu nước, gửi đến Hội nghị Vécxây Yêu
sách của nhân dân Annam t…” t. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập
1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, Chú thích số 23, tr. 492.
[3] Thu Trang: Nguyễn Ái
Quốc tại Paris (1917-1920), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr. 60.
[4] Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 27.
[5] Xem Phan Thị Minh: Phan
Châu Trinh qua những tài liệu mới, Đà Nẵng, 2001, Quyển 4, tr.
240.
[6] Xem Sophie Quinn-Judge:
Sđd, tr. 27-28.
[7] Cũng trong bản khai với
Quốc tế Cộng sản 1938, Nguyễn Ái Quốc đã cho biết ngày sinh của ông
là 1903 (trong khi ngày công bố chính thức: 1900), mẹ ông mất 1910
(thật ra là 1901). Xem Sophie Quinn-Judge: Như trên, tr. 27.
[8] Nhóm những người Annam yêu
nước năm 1920-1921 “tập hợp độ 15 người tích cực yêu nước, gồm Phan
Châu Trinh, Phan Văn Trường, những người xuất dương đầu tiên và
những phần tử trẻ nhất, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh
và Nguyễn Thế Truyền kể từ 1922” (D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác, Nguyễn Trọng Cổn lược dịch, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2001, tr.26).
[9] Sophie Quinn-Judge: Sđd,
tr. 24-25.
[10] “Ông Nguyễn không đủ tiếng
Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết
thay. Ông Trường viết gỉỏi nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông
Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 31)
[11] Thu Trang đã phân tích bài
“Thư trả lời ông Outrey” (Le Populaire, 14-10-1919) và bài
“Vấn đề người bản xứ Đông Dương” (L'humanité, 2-8-1919) và
cho rằng tuy ký tên Nguyễn Ái Quốc nhưng văn phong và cách lập luận
là của Phan Văn Trường (Xem Thu Trang: Sđd, tr. 92-96).
[12] Nguyễn Ái Quốc: “Việt Nam
yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 438-439.
[13] Xem Thu Trang: Những
hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp (1911-1925), Nxb Văn nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, Chú thích 11, Chương năm, tr. 150.
[14] Phan Thị Minh: “Thử xác
định thêm năm nào Hồ Chí Minh đến Pháp và xuất xứ của danh hiệu
Nguyễn Ái Quốc”, trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris
(1917-1923), Sđd, tr. 422-423.
[15] Phan Châu Trinh và Phan
Văn Trường được chính quyền Pháp trả tự do vào tháng 7-1915, (vì
không đủ bằng chứng kết tội hai ông về việc nhận tiền của Đức để
chống Pháp), luôn bị mật thám theo dõi, khó hoạt động, nên có người
đã cho rằng có thể vì đó hai ông “đã chủ động kéo” Nguyễn Tất Thành
sang Pháp để “chuẩn bị cho một cuộc chuyển giao thế hệ”, từ việc lập
ra “Hội những người Annam yêu nước” (1917) đến việc công bố Yêu
sách tám điểm (1919). Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua
những tài liệu mới, Nxb Đà Năng, 2001, Quyển 4, tr. 247. Thiết
tưởng đây vẫn chỉ là một giả thuyết.
[16] Kém Phan Châu Trinh 3
tuổi. Quê ở làng Vẽ (Hà Nội). Vào làm toà Khâm sứ Bắc Kỳ, cuối 1908
được tuyển sang Paris làm phụ giảng tiếng Việt ở Trường Ngôn ngữ
phương Đông. Xin học luật và xin nhập Pháp tịch. Từ 1910, thuê một
căn hộ nhà số 6 Villa des Gobelins, những năm sau thành nơi ở của
nhóm Việt Nam yêu nước tại Pháp trong đó có Phan Châu Trinh và
Nguyễn Ái Quốc. Phan Văn Trường có hai anh ruột (Phan Tấn Phong,
Phan Trường Khiêm) có liên can đến vụ ném bom ở Hà Nội năm 1913.
(Xem Thu Trang: Sđd, tr. 47 và 58). Cuối năm 1923, rời Pháp về nước
và hoạt động ở Sài Gòn. Mất 1933, 58 tuổi.(Xem Phan Thị Minh:
Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, Nxb Đà Nẵng, 2001, Quyển
3, Tập 1, tr. 114).
[17] Hội do Phan Văn Trường làm
chủ tịch. Ra mắt ngày 18-1-1912 tại trường Parangon nơi có đông sinh
viên Việt Nam học. Phát biểu tại buổi Hội ra mắt có Phan Châu Trinh,
Phan Văn Trường và Jules Roux. Không khai báo với sở cảnh sát.
Thường họp ở tiệm cà phê hay tiệm ăn Tàu. (Xem Thu Trang: Sđd, tr.
48).
[18] Chính sách của chính quyền
Pháp đối với Phan Châu Trinh vào những năm ông mới sang Pháp bao gồm
có việc trợ cấp sinh sống, tìm cách sử dụng làm chuyên gia nghiên
cứu một số vấn đề ở Đông Dương, nhưng đồng thời cho mật thám và cử
người ở bên cạnh theo dõi thường xuyên . (Xem Phan Thị Minh: Phan
Châu Trinh qua những tư liệu mới, Sđd, Quyển 3, tập1, tr.
53-56).
[19] Tên thật là Nguyễn Văn
Xuân, làm nghề buôn máy ảnh, thường đi lại bên Đức lúc bấy giờ.
[20] Hồ Chí Minh - Biên niên
tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 60.
[21] Hồ Chí Minh: “Con đường
dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, bài viết cho tạp chí Các vấn đề
phương Đông (Liên xô) 1960, trong Hồ Chí Minh Toàn tập,
Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr. 126.
[22] Một mật báo tháng 1-1920
đã ghi lại những lời lẽ sau đây của Nguyễn Ái Quốc với một “Việt
kiều”: “Bây giờ anh lại trách tôi là quá mạnh. Hỏi thử các anh đã
làm gì từ năm năm nay? Chẳng một ai biết đến Annam cả. Nếu cần phải
“ba gai” hay làm cả những gì vớ vẩn để thiên hạ biết đến, chúng ta
cũng phải làm. Nếu ai hỏi tôi nhóm người cách mạng ở đâu, tôi sẽ trả
lời họ là 20 triệu người bên ấy, họ đã phản đối hàng ngày mà bị dìm
đi. Nói cho cùng ai làm gì tôi? Bỏ tù tôi ư? Lưu đày tôi ư? Hoặc cắt
đầu tôi, điều ấy có xảy ra tôi cũng bất cần!”. (Xem Thu Trang:
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, Sđd, tr. 130-131).
[23] Hồ Chí Minh - Biên niên
tiểu sử, Sđd, tr. 78, 80.
[24] Trần Dân Tiên, Sđd, tr.
44.
[25] Hồ Chí Minh: “Con đường
dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Sđd, tr. 127.
[26] Hồ Chí Minh Toàn tập,
Tập 1, Sđd, tr. 33-36.
[27] D. Hémery: Từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Sđd, tr. 29.
[28] Hélène Carrère d’Encausse
et Stuart Shram: Le Marxisme et l’Asie 1853-1964, Armand
Colin, Paris, 1965, p. 199.
[29] Trong phiên họp thứ 8 Đại
hội V Quốc tế Cộng sản, 23-6-1924, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu một
luận điểm tương tự: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc
độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở
thuộc địa hơn là chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho
các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ
nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản
cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí
lại khinh thường thuộc địa” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1,
Sđd, tr. 274).
[30] “Lúc bấy giờ tôi ủng hộ
Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu
hết tầm lịch sử quan trọng của nó.” (Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi
đến chủ nghĩa Lênin”, Sđd, tr. 126).
[31] Hồ Chí Minh Toàn tập,
Tập 1, Sđd, tr. 36.
[32] Thống kê của chính phủ
Pháp cho biết số lượng ngưới Việt Nam có mặt ở Pháp và Bắc Phi đến
30-3-1923 là 8.245 người. (Xem D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước
đến chủ nghĩa Mác, Sđd, tr. 17).
[33] Hồ Chí Minh – Biên niên
tiểu sử, Sđd, tr. 117.
[34] Ngồi ngoài gọi kẻ giỏi ra,
đợi thời mà vào thình lình. Ý nói: gọi người ra ngoài giúp mình để
đợi thời cơ mới về.
[35] Xem Thu Trang: Những
hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Sđd, tr.
176-181.
[36] Thu Trang: Nguyễn Ái
Quốc tại Paris, Sđd, tr. 47-48.
[37] Nguyễn An Ninh sinh ngày
6-9-1900 tại Chợ Lớn. Gia đình tiểu địa chủ. Học tiểu học tại Taberd
và trung học tại Chasseloup-Laubat (Sài gòn). Từ 1918 đến 1920, học
luật tại Đại học Hà nội, sang Pháp học tiếp và tốt nghiệp tại Paris
năm 1921. Trong thời gian ở Pháp có tham gia phong trào chống thực
dân với Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Du lịch
nhiều nơi ở châu Âu để mong tìm một ý thức hệ cho Việt Nam. 1923 về
Sài Gòn lập ra báo La cloche fêlée. Khởi đầu chủ xướng đường
lối hợp tác Pháp Việt, nhưng 1924 quay sang phổ biến tư tưởng của
Tagore và Gandhi. 1925, La cloche fêlée thường trực giới
thiệu những tác phẩm của những nhà lý luận cộng sản như Zinoviev,
Bukharin, Karl Radek, Gabriel Péri và những bài đã in trong
L'humanité của Đảng Cộng sản Pháp. 1926, in toàn bộ Tuyên
ngôn cộng sản. Tháng 5-1926, Nguyễn An Ninh bị bắt, La cloche
fêlée đình bản. (Xem Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese communism
1925-1945, Cornell University Press, Ithaca and London, 1982,
Chú thích 26, tr. 49-50).
[38] Nguyễn Thế Truyền sinh
17-12-1898 ở Hành Thiện (Bắc Kỳ). Uỷ viên Tiểu ban Thuộc địa của
Đảng Cộng sản Pháp. Cộng tác với tờ Le Paria. Viết lời nói
đầu cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Theo
cảnh sát Pháp, từ 1925 và 1927, anh là nhà hoạt động tích cực nhất
trong phong trào cách mạng Việt Nam ở Pháp, là linh hồn của phong
trào vùng Paris. Nhưng năm 1926 hoặc 1927, anh cắt đứt với Đảng Cộng
sản, lập ra Đảng Việt Nam Độc lập và trở về Sài Gòn ngày 9-1-1928.
Trở thành người theo chủ nghĩa dân tộc, sống ở Bắc Kỳ, rồi lại sang
Pháp từ 1934 đến 1938. (Xem D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến
chủ nghĩa Mác, Sđd, Chú thích 3, tr. 26).
Trở lại Trang Lữ
Phương
30-5-08
|