Khoảng
giữa thập niên 1990, Lữ Phương có viết 3 bài về Chủ
nghĩa xã hội mác-xít. Những bài này đã được nhiều người
sao chép (có chỗ thiếu, sai) và chuyền nhau đọc. Được
anh Lữ Phương cho phép, viet-studies xin đăng lại
đây bản gốc của tác giả, có tu chỉnh chút ít, để các bạn
làm tư liệu. |
Lữ Phương
Bài 3:
Chủ nghĩa xã hội mácxít &
chủ nghĩa xã hội hiện thực
Do chỉ là kết
quả của một quá trình tư biện, khi đưa vào thực hành, chủ nghĩa Mác
bị thực tế chứng thực là không tưởng, nên các xu hướng mácxít ra đời
sau này đều phải liên tục lấy những thực tế mới nẩy sinh để giải
thích lại, cũng vì vậy mà thay vì là cơ sở lý luận để thống nhất thì
lại trở thành nhân tố chia rẽ, đối địch giữa các đảng cộng sản
với nhau, trong phạm vi quốc gia lẫn quốc tế. Nhìn chung lại, chúng
ta thấy có hai xu hướng chính yếu.
– Trước nhất là xu hướng xét lại hữu khuynh – biểu hiện rõ rệt nhất ở
những nước quê hương của chủ nghĩa tư bản mà cũng là cái nôi của chủ
nghĩa Mác. Ở những nơi này cuộc cách mạng vô sản đã không xảy ra như dự đoán, người ta đã phải giải thích lại học thuyết Mác theo chiều
hướng cải lương: có thể giữ lại tất cả những kết luận của Mác về sự
sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và vai trò của giai cấp vô sản
trong việc hình thành xã hội tương lai, nhưng phải loại trừ khỏi chủ
nghĩa Mác những khái niệm cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản và
thay vào đó là đấu tranh nghị trường trong khuôn khổ luật pháp tư
sản.
– Chủ
trương trên đây đã bị những người mácxít “chính thống” cho là “phản
bội”. Theo Lênin, cái cốt tủy của chủ nghĩa Mác vẫn là cách mạng bạo
lực và chuyên chính vô sản chứ không phải là cái gì khác. Ý kiến này
tưởng chừng như khá trung thành với Mác
[1], nhưng nếu xét về thực chất thì không hoàn toàn như vậy:
khác với thứ chủ nghĩa xét lại hữu khuynh từ bỏ những gì không thể
áp dụng của Mác vào những hoàn cảnh không thể áp dụng được, Lênin đã
đi ngược lại bằng cách áp dụng cho kỳ được những mục tiêu của Mác
vào những hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ với những điều kiện thực tế đã
làm nẩy sinh ra bản thân chủ nghĩa Mác. Đó chính là thứ
chủ nghĩa xét lại tả khuynh. Đi sâu hơn vào chủ nghĩa xã hội
hiện thực của Lênin chúng ta sẽ thấy rõ điều đó.
Điều kiện tiên quyết để cuộc cách mạng Nga gọi được là mácxít
1. Đặc
điểm quan trọng nhất của cuộc cách mạng gọi là “vô sản” Nga vào năm
1917 là đã xảy ra trong một nước mà bản thân cuộc cách mạng ấy không
có những tiền đề vật chất và những điều kiện chính trị tổng quát để
gọi được là vô sản, trong đó quan trọng nhất là một nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã phát triển đến tột cùng. Lập luận mácxít chính
thống cho rằng cuối cùng mà xét thì cuộc cách mạng ấy vẫn là kết quả
của những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế
giới, lập luận ấy chỉ có thể hiểu được theo ý nghĩa gián tiếp: sau
khi xoa dịu được những mâu thuẫn của thời kỳ tích luỹ ban đầu ở
những nước tư bản, chủ nghĩa tư bản đã làm cho những mâu thuẫn ấy
trở nên căng thẳng hơn ở những vùng mà nó muốn tạo ra theo “hình ảnh
của nó”[2]. Nói cách khác, trong khi làm dịu đi được cái tình thế cách
mạng trực tiếp ở những trung tâm, chủ nghĩa tư bản lại tạo ra cái
tình thế ấy ở những vùng ngoại vi; nó phóng chiếu vào tâm trí những
con người ở vùng đất này một hình mẫu phát triển mới: hiện đại
hóa xã hội theo con đường phi tư bản chủ nghĩa, lật đổ chế độ
phong kiến, tiếp thu hoàn toàn văn minh phương Tây về kỹ thuật nhưng
vượt qua về chế độ chính trị. Hiện tượng này, vào cuối đời mình, Mác
đã cảm nhận được. Trong lời tựa Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
xuất bản bằng tiếng Nga năm 1882, Mác và Ăngghen đã viết:
“Tuyên ngôn cộng sản có nhiệm vụ tuyên bố sự diệt vong không tránh khỏi và
sắp xảy ra của chế độ sở hữu tư sản. Nhưng ở Nga, bên cạnh sự hoạt
động ráo riết của chủ nghĩa tư bản đang phát triển nhanh chóng và
chế độ ruộng đất tư sản đang hình thành thì quá nửa số ruộng đất là
sở hữu công cộng của nông dân. Bây giờ, thử hỏi công xã nông thôn
Nga, cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đất
nguyên thủy, có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ
nghĩa về sở hữu ruộng đất không, hay là trước hết, nó cũng phải trải
qua quá trình tan rã như nó trải qua trong tiến trình lịch sử của
phương Tây (...). Ngày nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là
thế này: nếu cuộc cách mạng ở Nga báo hiệu một cuộc cách mạng ở
phương Tây và nếu hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ
công cộng ruộng đất ở Nga hiện nay sẽ có thể là sự khởi điểm của một
sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”
[3].
2. Việc Mác và Ăngghen hình dung ra cuộc cách mạng vô sản cho
những nước chưa phát triển phải được lĩnh hội như một sự bổ sung
trong phạm vi thực hành: cuộc cách mạng ấy có thể là sự báo hiệu
cho cuộc cách mạng thế giới sắp xảy ra theo nghĩa là cuộc
cách mạng mácxít đã đến độ chín muồi, nó chỉ là cuộc cách mạng
thứ hai (ở những nước lạc hậu nghèo nàn) và phải được yểm trợ
bằng cuộc cách mạng thứ nhất (ở những nước phát triển) thì
mới hòa nhập được vào xu thế chung của thế giới để chuyển thẳng
lên hình thái xã hội cao hơn điểm xuất phát của nó. Luận điểm
của Mác và Ăngghen về hai cuộc cách mạng yểm trợ cho nhau như
vậy là khá rõ rệt. Khi Lênin lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản ở Nga,
ông cũng đã dựa hoàn toàn vào luận điểm trên đây của Mác và Ăngghen.
Không cần chờ đợi mà phải linh hoạt nắm lấy thời cơ thuận lợi tiến
hành ngay việc lật đổ chính quyền – “dù chưa có những tiền đề kinh
tế khách quan để thực hiện chủ nghĩa xã hội”
[4]
– để sau đó nương theo thời cơ ấy chuyển sang cách mạng vô sản, hy
vọng thế giới sẽ nổ ra cuộc cách mạng thứ nhất qua đó sẽ giải quyết
được những khó khăn do tình thế đặc biệt ở Nga tạo ra
[5].
3. Là
người hiểu Mác, hiển nhiên Lênin không thể nào không nhận ra cái
tình thế “ngược đời”
[6] trong cuộc
cách mạng mà ông đã khai sinh với những khó khăn hầu như không lường
trước được
[7]: không việc
nào không phải làm đi làm lại, vì tất cả đều phải mò mẫm
[8], tất cả đều
không thể tìm thấy trong cuốn sách nào cả
[9]. Thật ra cũng
có lúc Lênin đã đem những nguyên lý cộng sản của Mác ra áp dụng.
Chẳng hạn như sau khi cách mạng vừa mới thành công, ông đã chủ
trương ngay tức khắc xóa bỏ thị trường
[10], phân phối
theo sản phẩm
[11], trao đổi
bằng hiện vật giữa thành thị và nông thôn
[12], biến toàn bộ
xã hội thành một guồng máy kế hoạch hóa duy nhất
[13], cho rằng có
thể mở rộng sự quản lý nhà nước đến tất cả mọi người, không trừ
một ai, làm cho quần chúng vừa trở thành là người lập pháp vừa
là người hành pháp, vừa là quân đội toàn dân thay thế cho quân đội
nhà nghề
[14] – tất cả
những chủ trương đó ông đều cho là “có thể thực hiện được”, là “khoa
học” – kể cả cái khẩu hiệu “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”[15]. Nhưng sau
một thời gian, ông nhận ra ngay những tai hại cực kỳ nguy hiểm của
những thí nghiệm mang tính sách vở đó. Chính sách Kinh tế Mới (NEP)
năm 1921 đã ra đời trong tình thế đó: trong nước thì thỏa hiệp với
trung nông, chấp nhận cho thương nhân được phục hồi và tự do kinh
doanh; còn đối với tư bản nước ngoài thì chủ trương mở cửa buôn bán,
trao đổi. Không ít đồng chí của Lênin đã gọi đó là sự “tiến hóa về
phía tư bản chủ nghĩa” thì ông đáp lại rằng đó là sự “dọa dẫm” hoàn
toàn “phi lý về mặt lý luận”
[16]. Bởi vì thực
chất của NEP đối với Lênin không phải là sự đầu hàng, là từ bỏ
nguyên tắc mà chỉ là một bước lùi
tạm thời – nhanh chóng và có trật tự – để những người cộng sản củng
cố lại đội ngũ, chờ dịp mở lại những cuộc phản công. Chủ nghĩa tư
bản được cho phục hồi vì vậy cũng chỉ là kết quả của một thứ “nghệ
thuật thỏa hiệp” rất quen biết với cái tư duy lêninnít về chính trị:
khi thắng kẻ thù không được thì phải biết “cống nạp” ngay cho nó để
đừng mất tất cả
[17], khi đánh
trực diện không thành công thì phải biết quay sang đánh bằng “bao
vây”, đánh bằng “hầm hào”
[18]. Sự chọn lựa
mang ý nghĩa kinh tế đó vì thế cũng chính là một chọn lựa chính trị
cụ thể: chủ nghĩa tư bản đó chỉ được phép hoạt động trong điều kiện
bị kiểm soát hoàn toàn, bị khống chế hoàn toàn bằng luật pháp cách
mạng, trong chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa
[19].
4. Từ những kinh nghiệm trên đây, luận
điểm về thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của Lênin đã hình
thành tương đối có hệ thống vào giai đoạn này. Điểm cốt yếu của luận
điểm ấy là: trong một nước nghèo nàn lạc hậu, phải tìm ra những “mắt
xích trung gian”, “những chiếc cầu nhỏ”, những “nửa quá khứ nửa
tương lai” để đi lên chứ không thể nhảy vọt tức khắc. Luận điểm ấy,
sau một thời gian rất ngắn, khoảng một năm trước khi Lênin mất, đã
được ông phát triển thêm với những đề nghị khá táo bạo. Chẳng hạn
nếu vào năm 1921, ông cho rằng
“không nhất định phải coi chế độ độc
quyền nhà nước là chế độ tốt nhất theo quan điểm xã hội chủ nghĩa”
[20] thì năm 1923,
khi nằm trên giường bệnh, ông đã đẩy suy nghĩ ấy đến chỗ “phải
thừa nhận là quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi
về căn bản”
[21].
Ngoài việc chủ trương những loại sở hữu trung gian – đặc biệt chú
trọng đến các hợp tác xã – coi đó là những hình thức có thể thay thế
cho sở hữu nhà nước độc quyền về mặt kinh tế, ông cũng đã có những ý
kiến khá mạnh mẽ về mặt chính trị. Thí dụ như vấn đề công đoàn: công
đoàn theo ông không còn chỉ là cái “dây chuyền” để đảng quan hệ với
quần chúng từ trên xuống dưới như ông đã quan niệm trước đây mà còn
phải có cuộc sống độc lập với nhà nước – nó có thể dùng “áp lực”, kể
cả quyền bãi công để chống lại những sai lầm và bệnh quan liêu của
chính nhà nước của nó để tự bảo vệ và đồng thời bảo vệ nhà
nước của nó
[22]. Cấu trúc của
nhà nước ấy cũng không còn nguyên vẹn là thứ nhà nước công nông như
cũ: những Nepmen với tư cách là giai cấp tư sản sinh ra trong
NEP cũng được thừa nhận như một thực tế để trong chừng mực nào đó có
thể tham gia nhà nước công nông
[23]. So với những
gì mà ông đã quan niệm trước hoặc sau khi cách mạng thành công thì
cái mà ông gọi là “bước lùi” ngày càng có vẻ được nới rộng thêm ra.
Và mục tiêu về cái cõi đời mới mà Mác hình dung ra cho loài người,
dần dà đối với Lênin dường như cũng càng ngày càng trở nên xa mờ.
Đảng tiền phong và lý luận xã hội chủ nghĩa “từ ngoài vào”
Tuy chứa đựng
đầy những quanh co, nhưng chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội của
Lênin vẫn là một chọn lựa chính trị nhất quán: giả định những luận
điểm của Mác về cách mạng vô sản là những “chân lý khách quan”, đúng
đắn một cách đương nhiên cho cả thời kỳ chuyển tiếp từ hình thái xã
hội cũ sang hình thái xã hội mới, nhưng trong thực hành thì lại chỉ
nên coi đó như là một thứ “kim chỉ nam”, tùy theo tương quan lực
lượng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản mà đề ra những sách
lược cụ thể, chứ không thể lúc nào, nơi nào cũng đem ra thực hiện
như nhau. Sự tồn tại vững mạnh của một đảng chính trị, định nghĩa
như “đội tiền phong” của giai cấp vô sản là yếu tố quyết định để
lãnh đạo toàn bộ cuộc cách mạng mới này.
1. Xây dựng cơ
sở lý luận cho “đội tiền phong” đó, Lênin đã giải quyết vấn đề gọi
là sự sản sinh ra “ý thức cộng sản chủ nghĩa” của giai cấp vô sản –
rất rắc rối và còn bỏ ngỏ trong cách lập luận của Mác – một cách
hoàn toàn mới mẻ. Trong cuốn Làm gì? (1902), Lênin đã lặp lại
gần như hoàn toàn Kautsky và viết ra những dòng nổi tiếng sau đây:
“Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng chỉ do lực lượng độc của
bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức
công liên chủ nghĩa, tức là đi đến chỗ tin rằng phải đoàn kết lại
thành hội liên hiệp, phải đấu tranh chống bọn chủ, phải đòi hỏi
chính phủ ban hành những luật này hay luật khác cần thiết cho công
nhân v.v... Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phát sinh ra từ các
lý luận triết học, lịch sử, kinh tế, do những người có học thức
trong các giai cấp hữu sản những trí thức xây dựng nên. Mác và
Ăngghen, những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại,
do địa vị xã hội của các ông, nên chính bản thân các ông cũng thuộc
lớp trí thức tư sản”
[24].
Với những nhận
định như thế mọi việc đã trở nên đơn giản: ý thức chủ nghĩa xã hội
“chỉ có thể là từ bên ngoài đưa vào”, chứ để tự nó, giai cấp công
nhân không thể sản sinh ra được. Và cũng thực tế hơn: lý luận về chủ
nghĩa xã hội là khoa học về sự phát triển khách quan của xã hội, lý
luận này là do những tri thức tư sản đem đến cho giai cấp công nhân;
chủ nghĩa xã hội hiện đại vì thế chính là kết quả của sự kết hợp
giữa khoa học và cách mạng, giữa trí thức và công nhân trong đó
những người nắm vững khoa học sẽ giữ vai trò lãnh đạo chứ không phải
là ai khác. Đảng cộng sản vì thế trong thực tế sẽ cũng không còn
phải là đảng của giai cấp vô sản như sự diễn giải một cách khó hiểu
trong học thuyết của Mác mà chính xác sẽ là đảng của những người
giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, những người này không phải chỉ có
nhiệm vụ giáo dục những phần tử phi vô sản mà ngay cả giai cấp vô
sản để tất cả cùng “giác ngộ” ra sự cần thiết phải tập hợp dưới ngọn
cờ của đảng để chiến đấu. Đây chính là một trong những điểm “sáng
tạo” rất đặc biệt của Lênin đối với chủ nghĩa Mác.
3. Cùng với
Mác, nó xác nhận trước tiên rằng cái ý thức hiện thực của
giai cấp công nhân chỉ là ý thức tự phát, không thể tạo ra
được cuộc cách mạng vô sản: mãi mãi nó vẫn còn thuộc về thế giới cũ,
chìm đắm trong tình trạng tha hóa, chừng nào bản thân nó chưa trở
thành ý thức tự giác, cách mạng. Chúng ta đều biết đối với
Mác thì để đạt được tình trạng đó, giai cấp công nhân phải tự mình
chuyển hóa (mặc dù ông không hề nói rõ cái cơ chế chuyển hóa đó như
thế nào) và chỉ có sự chuyển hóa ấy mới làm cho cuộc cách mạng của
công nhân trở thành cách mạng vô sản, và do đó chuyên
chính vô sản trong thời kỳ quá độ mới mang được ý nghĩa là
chuyên chính của giai cấp vô sản. Khi Lênin làm theo Kautsky
cho rằng để tự nó giai cấp công nhân không thể sản sinh ra ý thức
cách mạng thì điều đó chỉ có nghĩa rõ ràng là để tự nó, giai cấp
công nhân không bao giờ có thể sản sinh ra ý thức cộng sản
chủ nghĩa – ngay cả với thứ ý thức gọi là “trung gian” cũng chẳng
bao giờ được, vì lẽ với quan điểm triết học về tính đảng của mình,
Lênin cho rằng “nhân loại không tạo ra một hệ tư tưởng ‘thứ ba’ nào
cả” – cho nên ý thức công liên ấy chỉ có thể là “sự nấp bóng của
giai cấp tư sản” thôi
[25].
Ý nghĩa thực
tế của cách lập luận ấy là rất lớn: để tự nó, phong trào công nhân –
dù đông đảo đến mấy đi nữa – tất yếu sẽ phụ thuộc vào ý thức hệ tư
sản, bị giai cấp tư sản chi phối, mua chuộc, và do đó chỉ có thể làm
công đoàn tay sai của tư sản; trái với một đảng cộng sản dù cấu tạo
của nó rất ít những phần tử công nhân, nhưng bởi được trang bị bằng
hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học mácxít, nên tính chất cách
mạng và vô sản của nó cũng đích thực hơn, chân chính hơn. Chức năng
lãnh đạo của đảng cộng sản cũng trở nên cụ thể: nhân danh cho khoa
học, đảng phải dứt công nhân ra khỏi quỹ đạo của giai cấp tư sản
để làm cho cuộc đấu tranh của họ trở thành cuộc đấu tranh cách mạng
vô sản, còn ở nơi nào mà giai cấp công nhân quá ít hoặc quá yếu
thì vai trò lãnh đạo của đảng lại càng quan trọng và cần
thiết hơn cho phong trào cách mạng ở nơi đó gấp bội.
4. Nhận định
trên đây của Lênin về đội tiền phong, so với quan niệm về
đảng cách mạng của Mác, đã tỏ ra thiết thực hơn rất nhiều. Đặc biệt
trong hoàn cảnh một nước chậm phát triển như nước Nga “dã man” (chữ
mà Lênin hay dùng) “lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất Tây Âu”
[26], một nước Nga
tràn ngập những người tiểu sản xuất không biết gì về chủ nghĩa xã
hội và cũng chẳng thích gì chủ nghĩa xã hội. Ngoài cái hoàn cảnh ấy
ra, Lênin cũng thường nói đến cái hậu quả tiêu cực cho cách mạng Nga
sau một thời kỳ “khẩn trương cao độ”; giai cấp vô sản đã bị “tổn
thất rất nhiều vì đã mất tính giai cấp của mình” (do công nghiệp phá
sản, công nhân thất nghiệp, về quê, hoặc đi buôn lậu...)
[27].
Đối với một nước Nga như vậy mà lại muốn hiện đại hóa nhanh chóng,
và lại bằng con đường xã hội chủ nghĩa thì sự khó khăn còn nhiều
hơn. Luận điểm đảng tiền phong với ý thức cách mạng tiên tiến của nó
đã giúp Lênin giải quyết những khó khăn ấy một cách hợp lý:
dùng cái tiên tiến thượng tầng đã có
được bằng cách mạng để tạo ra cái hạ tầng tiên tiến tương xứng[28]. Nói cách
khác, dùng chính quyền cách mạng trang bị bằng chủ nghĩa Mác khoa
học, tiến bộ, để tổ chức, giáo dục, động viên toàn dân (trong đó có
cả giai cấp công nhân) xây dựng cơ sở kinh tế cho xã hội mới.
Để nhắc nhở
mọi người về sự phức tạp của một sứ mệnh như vậy, Lênin đã nói rõ
rằng một chế độ gọi là “cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết” thực chất
chỉ “có nghĩa là chính quyền quyết tâm thực hiện bước chuyển lên
chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là thừa nhận chế độ
kinh tế hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa”
[29]. Thật là minh
bạch: đối với Mác, nếu chủ nghĩa xã hội là dấu chấm trên cái thân
chữ i kinh tế
do chủ nghĩa tư bản đã tạo ra thì đối với Lênin, chủ nghĩa xã hội
chỉ là sự khởi đầu của cái dấu chấm lửng lơ, trơ trụi đó. Tiến lên
chủ nghĩa xã hội không thông qua chủ nghĩa tư bản là như thế. Nghĩa
là xuất phát từ một xã hội cổ truyền, nghèo nàn, lạc hậu, dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản, người ta phải làm ra tất cả trong một
thời gian thật ngắn và với một mục tiêu thật vĩ đại: vượt qua chủ
nghĩa tư bản về tất cả mọi mặt.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước độc quyền
và một hình thức lao động bị tha hoá mới
1. Qua những
gì đã trình bày, chúng ta thấy chủ nghĩa xét lại tả khuynh của Lênin
đã làm biến dạng chủ nghĩa xã hội lý thuyết của Mác một cách cực kỳ
trầm trọng. Xa rời hoàn toàn những điều kiện do Mác đề ra, tuy mệnh
danh là “vô sản” và tự cho là trung thành với những nguyên lý của
Mác về chủ nghĩa xã hội nhưng thực chất của cuộc cách mạng tháng
10-1917 là một cuộc cách mạng phản mácxít hoàn toàn. Một số
điểm quan trọng sau đây cần được lưu ý đặc biệt:
– Do không
được bất cứ cuộc cách mạng vô sản nào ở những nước phương Tây nổ ra
để yểm trợ, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga không hề có được tính phổ
quát, trái lại nó chỉ là một cuộc cách mạng địa phương, cục bộ, xuất
hiện từ cái thế giới ngoại vi của chủ nghĩa tư bản: cái quốc tế do
Lênin sáng tạo ra chỉ là sự tập hợp của đa số những quốc gia nghèo
khổ, chậm phát triển.
– Khái
niệm chuyên chính vô sản trong lý luận của Mác mà Lênin bao giờ cũng
nhắc nhở rằng đó chính là hòn đá tảng của chủ nghĩa Mác và cho rằng
ai mà rời bỏ khái niệm ấy cũng là xa rời chủ nghĩa Mác[30] trong thực
chỉ là sự chuyên chính của những người tự cho mình là nắm
được khoa học về sự phát triển của lịch sử, và như vậy là sự chuyên
chính của môt lập trường, một thế giới quan do một thiểu số trí thức
tạo ra. Thiếu hẳn thực chất mácxít (dù không tưởng), nội dung của
khái niệm chuyên chính vô sản đó chỉ đơn thuần là sự chuyên chính
của một ý thức hệ tự cho mình là vô sản – sự chuyên chính của một
đảng phi mácxít.
– Cái mô
hình xã hội được gọi là “chủ nghĩa xã hội” nhân danh Mác để xây dựng
cũng đã rơi vào sự suy thoái như thế. Không thể tiến thẳng lên cái
không thể tiến lên được, Lênin đã đề xuất những chiếc cầu trung gian
mang tính chất lùi bước mà ông gọi là chủ “nghĩa tư bản nhà nước”,
qua đó tìm động lực xây dựng cơ sở vật chất để chuyển hoá xã hội lên
một hình thái xã hội-kinh tế cao hơn. Nhưng cũng do cái viễn cảnh ấy
của hình thái kinh tế-xã hội cao hơn là không tưởng cho nên cái nấc
thang mượn đường ấy mãi mãi chỉ là cái nấc thang nằm nguyên một chỗ.
2. Cái mô hình
gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực ” mà Liên xô đem ra xây dựng
trong suốt hơn nửa thế kỷ tồn tại trong thực tế chỉ là “chủ nghĩa tư
bản” mang nội dung lêninnít rất đặc biệt. Hãy nhớ lại những gì mà
Lênin đã tổng kết được sau thời gian thực hiện NEP, chúng ta sẽ nhận
thức rõ hơn điều này. Tuy vậy, xét cặn kẽ thì đó lại không phải điều
thực sự quan trọng trong tư duy về chủ nghĩa xã hội của Lênin: những
Nepmen mà ông cho phép hoạt động trở lại thực tế chỉ là loại
hạng những nhà tư sản thương nghiệp và thủ công nghiệp cò con, bị
kiểm soát gắt gao
[31],
hoàn toàn không có chút khả năng nào để tạo ra những cơ sở vật chất
“cho” chủ nghĩa xã hội cả – mục đích của NEP chủ yếu là nhân nhượng
những trung nông, cho phép từng lớp sản xuất này tự do buôn bán để
tháo gỡ bớt những căng thẳng về lương thực do chính sách “cộng sản
thời chiến” tạo ra. Cái gọi là “tư bản nhà nước” đó thực tế chỉ là
một thứ chủ nghĩa tư bản bị nhà nước quản lý chặt chẽ. Nó có
được nhân nhượng cho tồn tại thì cũng chỉ đứng bên rìa của một thứ
chủ nghĩa tư bản chiến lược có quy mô rộng lớn hơn nhiều, bề
thế hơn nhiều và được Lênin nói đi nói lại nhiều lần với lòng khâm
phục và thèm muốn không dứt: đó chính là
chủ nghĩa tư bản nhà nước trorg lý
luận của Ăngghen:
“Nhà nước hiện đại, không kể là dưới hình thức nào, về thực chất,
vẫn là bộ máy tư bản chủ nghĩa, là nhà nước của những nhà tư bản, là
nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng biến nhiều lực lượng
sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành
nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột nhiều công nhân
bấy nhiêu. Công nhân vẫn là những người công nhân làm thuê, những
người vô sản. Quan hệ tư bản chủ nghĩa vẫn không bị thủ tiêu mà trái
lại còn được đẩy tới chỗ tột cùng. Nhưng khi đã đạt tới chỗ tột cùng
thì sẽ xảy ra cuộc đảo lộn. Sở hữu nhà nước về các lực lượng sản
xuất không phải là cách giải quyết xung đột, nhưng nó đã ẩn dấu
trong mình nó cái phương tiện hình thức, khả năng giải quyết cuộc
xung đột ấy”
[32].
3. Ý nghĩa
của khái niệm chủ nghĩa tư bản nhà nước ở đây là rất rõ ràng – đó
chính là “sở hữu nhà nước về các lực lượng sản xuất”, kết quả cao
nhất của tập trung trong cạnh tranh, tuy còn mang danh nghĩa tư nhân
nhưng trong thực tế đã đạt tới hình thức tập thể hoá, xã hội hóa,
công hữu hóa rồi. Muốn có chủ nghĩa xã hội, tất yếu cũng phải đi qua
con đường tư bản nhà nước đó: những lời dạy bảo đó của Ăngghen,
Lênin không bao giờ quên và đã lặp lại khá rành mạch:
“Chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến
tiếp liền ngay sau chế độ độc quyền tư bản chủ nghĩa của nhà nước”
và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chính là “sự chuẩn bị vật
chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa
xã hội, là nấc thang lịch sử, mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc
thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc thang ở giữa
nào cả”
[33].
Chỉ có điều
oái oăm là khi đi vào thực tế, mọi việc đã lại diễn ra theo chiều
hướng hoàn toàn khác: thay vì theo Ăngghen làm cuộc “đảo lộn” vô sản
để có ngay chủ nghĩa xã hội thì Lênin lại phải khởi đầu từ cuộc cách
mạng vô sản trước – “nắm vững chuyên chính vô sản” như cách nói của
những người cộng sản Việt Nam – xây dựng cho xong chủ nghĩa tư bản
nhà nước độc quyền về kinh tế rồi thì mới tính đến chuyện chuyển lên
chủ nghĩa xã hội. Nhưng như chúng ta đã biết, do viễn cảnh của sự
chuyển hoá ấy là hoàn toàn không tưởng cho nên cái mô hình gọi là
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước theo định nghĩa của Ăngghen
được Lênin vận dụng cũng chỉ là một thực thể không tưởng. Đó vẫn
chỉ là kết quả của một quá trình tư biện mácxít: những mâu thuẫn
cạnh tranh trong chủ nghĩa tư bản tự do đã được tối đa hoá để hình
thành nên một thứ chủ nghĩa tư bản “tập thể lý tưởng” với cái lôgích
đã được đẩy đến tận cùng của nó là không còn thị trường
và cũng không còn cạnh tranh.
Là kết quả của tư duy tư biện, nó chỉ có ý nghĩa với bản thân nó,
chứ không thể là chiếc cầu tiến lên chủ nghĩa xã hội như Lênin mong
muốn. Lý luận lêninnít về chủ nghĩa xã hội ở đây đã mang tính
chất không tưởng đến hai lần và do đó tác động tiêu cực của nó đối
với người lao động cũng đã tăng lên gấp hai lần: thực chất đó là một
thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước phi thị trường đặt dưới quyền thống
trị của một quyền lực chính trị tuyệt đối. Không bị kềm chế bởi
những định chế trung gian về thị trường (để định giá lao động), về
luật pháp (bảo vệ những quyền căn bản của con người), về lao động
(công nhân được lập nghiệp đoàn để đấu tranh)... thứ chủ nghĩa tư
bản mới này đã tự do phát triển hết tính chất dữ dội mà Mác đã mô tả
về chủ nghĩa tư bản thế kỷ 19 – nó được quyền khai thác lao động
thặng dư một cách vô độ mà không gặp phải bất cứ sự phản kháng nào,
từ đó hoàn toàn tự do thực hiện chức năng đặc thù tư bản chủ nghĩa
của nó là khai thác không thương tiếc lao động sống để làm phình ra
một cách không giới hạn lao động chết. Sự “vận dụng” của
Lênin về chủ nghĩa Mác vào thực tế nước Nga thật sự chỉ là việc mượn
danh Mác để phục vụ cho nhu cầu khai thác lao động thặng dư để công
nghiệp hoá. Vì thế, nếu việc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa
xã hội tương lai có nghĩa là xây dựng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước thì chuyên chính vô sản ở đây cũng chỉ có nghĩa là cưỡng bức
giai cấp vô sản phải lao động “quên mình” cho thứ chủ nghĩa tư bản
nhà nước mệnh danh chủ nghĩa xã hội ấy.
4. Sự tha hoá
lao động mà Mác mô tả trong chủ nghĩa tư bản ở đây đã được lập lại ở
quy mô lớn hơn nhiều lần. Có điều khác là sự tha hóa trong chủ nghĩa
tư bản nhà nước kiểu lêninnít, do không còn phải thông qua những
định chế trung gian đặt nền trên phương thức sản xuất hàng hóa như
trong chủ nghĩa tư bản cổ điển, nên đã trở thành sự tha hóa của con
người trực tiếp với những ý tưởng của mình. Nói cách khác, nếu trong
chủ nghĩa tư bản cổ điển, con người đánh mất bản thân trong hàng hóa
và những cơ chế xã hội xây dựng trên trao đổi hàng hóa thì trong chủ
nghĩa tư bản nhà nước lêninnít, con người đã đánh mất bản thân
chính trong những ý tưởng giải phóng con người khỏi nền sản xuất
hàng hóa. Và đó cũng là tình trạng con người đánh mất bản
thân trong những ý tưởng được coi là đi giải phóng con người. Lý
thuyết mácxít về giải phóng lao động ở đây đã bị đảo ngược: nó trở
thành một thứ ý thức hệ không phải chỉ để những người tổ chức sản
xuất huyễn hoặc những người lao động mà cũng còn là cái để chính
những người lao động đưa mình vào một “mai sau” mờ mịt. Nó tạo ra
cái ảo ảnh đã được lý tưởng hóa về một hiện thực trần trụi, nghèo
nàn, làm cho con người tưởng rằng qua đó có thể tìm thấy hạnh phúc
thật sự. Sự tha hóa tinh thần ấy không khác gì sự tha hóa mang tính
chất tôn giáo mà Mác đã tố cáo. Nhưng đó không phải là thứ tôn giáo
siêu việt hứa hẹn cho con người một đời sau tuyệt đối mà chỉ là một
tổ chức chính trị trần tục, tầm thường được tôn lên thành cái tuyệt
đối đó.
Có lẽ không có
nơi nào phản ánh điều đó một cách rõ rệt bằng nơi cái tâm thức của
những lãnh tụ đảng: lúc nào cũng hả hê, hồ hởi tính chuyện giải
phóng thế giới, cải tạo con người... Thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hóa một đất nước để thoát khỏi chậm tiến, lạc hậu, công việc phải
làm của bất cứ dân tộc nào muốn đi vào thế giới hiện đại – cực kỳ
khó khăn và không có gì bảo đảm thành công – công việc đó lại được
tô vẽ thành một thứ hành động cao cả tột độ: thực hiện hạnh phúc cho
“muôn đời con cháu mai sau”. “Cách mạng” vốn là hành vi bất thường
cực chẳng đã phải xảy ra trong những tình thế mà con người không còn
cách nào khác để nói chuyện với nhau ngoài cách rút gươm ra thì lại
được thần bí hóa thành một trạng thái “thường trực” đằng đẵng suốt
cả một thời kỳ gọi là “quá độ tiến lên”, không biết bao giờ mới dứt,
không biết bao giờ mới xong. Còn giai cấp công nhân vốn chỉ là những
người lao động trong các quy trình sản xuất hiện đại, lo cho bản
thân chưa xong, thì lại bị biến thành một thực thể thần thoại, tập
trung được tất cả những đức tính cao thượng nhất, tiến bộ nhất của
“người giải phóng xã hội”, không phải chỉ đấu tranh để tồn tại mà
còn có nhiệm vụ đi cứu vớt loài người khỏi đại hoạ tư sản nữa.
5. Để giữ cho
khí thế cách mạng không bao giờ bị nguội lạnh, ngoài việc tâng bốc
cái thực tại xã hội mới “do đảng lãnh đạo” tạo ra, người ta cũng
không ngớt khuấy động tâm lý của đám đông bằng đủ loại kẻ thù lúc
nào cũng tìm mọi cách rình rập phá hoại “hạnh phúc của nhân dân”.
Những kẻ thù như vậy chỗ nào cũng có, lĩnh vực nào cũng có, (kể cả
tiềm ẩn trong đời sống nội tâm của mỗi người) vì thế lúc nào cũng
phải nghe theo lời đảng, thường xuyên mở ra những chiến dịch học
tập, cảnh giác, vạch mặt, tố cáo... Mặc dù theo Mác để đề cao hết
mực tính lịch sử, nhưng điều đó chỉ có tác dụng phủ định những hình
thái kinh tế đã qua, không quan hệ gì đến chế độ mới: chế độ này
vĩnh viễn sẽ không còn có gì thay thế được nữa. Đọc những thứ sách
báo do những nhà lý luận chính thống viết ra để gọi là “đập tan”
những “âm mưu phá hoại tư tưởng” của kẻ thù, bảo vệ sự “trong sáng
của chủ nghĩa Mác-Lênin”, người ta không bao giờ có thể tìm thấy gì
hơn là những ồn ào như vậy. Không cần đi sâu vào thực chất của vấn
đề, phân tích lý do làm xuất hiện những luận điểm phản bác của người
khác nhưng chỉ biết so với những gì mà Mác, Ăngghen và Lênin đã
nói, sau đó thấy không phù hợp thì lập tức kết tội. Cái mà người
ta gào thét không ngớt về tính “khoa học” trong phương pháp luận
“mácxít-lêninít” rút lại chẳng có gì gọi được là phương pháp trong
tranh luận, nó không hề có mục đích cọ xát, đối thoại với những xu
hướng khác để tìm ra chân lý mà chỉ là sự ngạo mạn được đẩy đến tận
cùng: đương nhiên coi mình là thánh thiện, là khoa học, là
chính nghĩa, là tiến bộ, là lòng dạ trong sáng, là mục đích không có
gì hơn là “đem hạnh phúc cho nhân dân” v.v... rồi sau đó ném tứ tung
ra bốn phương những cái nhãn như “vu cáo”, “bôi nhọ”, “xuyên tạc”,
“xét lại”, “phản động” v.v... coi đó như những tấm lá chắn có thể
bảo vệ được cho sự an toàn của mình. Sự tha hóa của ý thức ở đây đạt
tới gần cái biên giới tột độ của nó là sự cuồng ngạo phi lý tính
của những người hoang tưởng
[34].
Thảm kịch trí thức?
1. Có lẽ từ bản chất sâu thẳm của nó, chủ nghĩa xã hội mácxít không
phải là băn khoăn của những người công nhân, những người lao động mà
chỉ là vấn đề của những người trí thức. Có thể Mác và Ăngghen chưa
hẳn đã thừa nhận điều đó, mặc dù trong lập luận của mình các ông chỉ
muốn thông qua sự giải phóng giai cấp vô sản để thực hiện những ý
tưởng triết học và tư biện về lịch sử. Nhưng đối với Lênin thì có lẽ
mọi sự dường như không còn mơ hồ nữa. Đối với ông, chủ nghĩa xã hội
không có ý nghĩa gì hơn là khoa học mácxít được đem ra thực hiện bởi
một đảng chính trị mácxít: muốn gia nhập đảng chính trị ấy, những
người công nhân, cũng như tất cả những thành phần khác (nông dân,
trí thức, tiểu tư sản...) đều phải được cải tạo và đặt mình hoàn
toàn dưới sự lãnh đạo của đường lối mácxít hiện thân ở đảng cộng
sản. Đảng cộng sản vì thế, xét trên thực tế, cũng giống như tất cả
bất cứ những đảng phái nào khác, không đại biểu cho ai ngoài cái học
thuyết dùng làm cơ sở tinh thần để liên kết những thành phần tạo nên
nó. Đại biểu cho dân tộc, cho giai cấp, cho lịch sử cũng chỉ là
những ý tưởng cấu tạo của cái cương lĩnh chính trị chủ quan đó.
2. Vốn là sản
phẩm trí thức ở những nước phát triển, chủ nghĩa Mác, khi được du
nhập vào những nước lạc hậu, dưới danh nghĩa gọi là “vận dụng” hoặc
“sáng tạo” – theo cách của Lênin và được gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin
– đã bị biến thể để phục vụ cho những mục đích hoàn toàn không liên
quan đến mục tiêu của Mác: hoặc là để chống đế quốc giành độc lập
dân tộc, hoặc là thực hiện công nghiệp hóa nhanh chóng một đất nước.
Không ít những học thuyết khác cũng đã đóng giữ vai trò đó, nhưng
riêng đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, do đã đặt những vấn đề nói trên
một cách triệt để nhưng lại muốn giải quyết theo chiều hướng không
tưởng, nó đã tạo ra những kết quả hoàn toàn trái ngược. Mọi thứ đều
chứa đầy tính chất huyễn hoặc – không khác gì cái
thế giới quan lộn ngược mà Mác đã nói đến trong những ngày mới
khởi đầu lập thuyết
[35] – mà Lênin đã
cho là cần thiết để tập hợp quần chúng chứ chẳng hề có ý nghĩa gì
gọi được là “khoa học” cả
[36]. Dù có cố
gắng đến mấy đi nữa, Lênin cũng không thể nào đảo ngược được cái
tình trạng tinh thần của một xã hội cổ truyền mà cuộc cách mạng
“ngược đời” của ông muốn tạo ra.
3. Thảm kịch
ấy có lẽ không phải cái gì khác hơn là một thứ thảm kịch của trí
thức, thảm kịch của những ý tưởng sốt ruột trước thực tại,
muốn thúc đẩy thực tại đi thật nhanh về cõi đời hoàn hảo nhưng cuối
cùng chẳng đi đến đâu cả ngoài cái vòng tư biện sốt ruột cố hữu của
mình. Đọc đi đọc lại Lênin nhiều lần, tôi có cảm giác rằng trong
chừng mực nào đó, với tư cách là một người trí thức, ông đã nhận ra
nỗi buồn bã đó. Có người kể rằng Lênin rất thích bản sonate
Appasionata của Beethoven đến nỗi sẵn sàng nghe bản nhạc đó suốt
ngày tháng.
“Nhưng tôi không thể nghe âm nhạc luôn được: âm nhạc xúc động vào
cân não của tôi; người ta cứ muốn nói những điều bậy bạ khá dễ ưa và
mơn trớn đầu óc những kẻ sống trong một địa ngục ghê tởm, mà lại có
thể sáng tạo ra một cái đẹp đến như thế. Nhưng ngày nay, không thể
xoa dịu đầu óc một ai cả – họ sẽ nhe răng cắn ngay vào tay mình –
cần phải đánh vào đầu, đánh một cách không thương xót, mặc dầu đứng
về mặt lý luận chúng ta phản đối mọi hành động bạo lực. Hừ ! Hừ !
Thật là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn !”
[37].
Không nghe âm
nhạc vì sợ âm nhạc làm yếu đuối con người đi làm cách mạng, âm nhạc
cản trở cách mạng đánh vào đầu người ta một cách không thương xót
! Như thế đấy!
4. Thực chất
của cuộc “cách mạng” của Lênin dường như chẳng có gì quá vĩ đại, quá
ghê gớm như người ta đã thổi phồng lên. Ở bên dưới cái lý luận về
một chế độ mới có một nền dân chủ vượt xa chủ nghĩa tư bản “gấp
triệu lần”, chúng ta thấy thấp thoáng đâu đó cái nhận thức trắng
trợn của một lĩnh tụ thời tiền tư bản chủ nghĩa:
“Nếu cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở Đức thì nó đã phá vỡ
ngay, một cách dễ dàng, bất cứ cái vỏ chủ nghĩa đế quốc nào (...),
nó chắc chắn đã thực hiện được sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội thế
giới một cách không khó khăn hoặc rất ít khó khăn (...). Nhưng trong
lúc cách mạng Đức còn chậm “ra đời” thì nhiệm vụ của chúng ta là học
tập chủ nghĩa tư bản nhà nước của người Đức, dốc hết sức ra bắt
chước nó và không ngại dùng biện pháp độc tài để đẩy nhanh sự bắt
chước đó hơn cả vua Piotr khi ông ra thúc đẩy nước Nga cổ dã man bắt
chước chế độ Tây âu và không ngần ngại dùng những thủ đoạn dã man
đấu tranh với tình trạng dã man”
[38].
Tất cả ý nghĩa
của cái mà Lênin từng gọi là thượng tầng tiến bộ của nước Nga mới do
ông tạo ra chẳng lẽ lại chỉ là cái gương của ông vua Piotr dùng
những thủ đoạn độc tài dã man để “văn minh hóa” một đất nước hay
sao?
5. Những phát
biểu của Lênin vào những ngày cuối đời của ông là rất có ý nghĩa.
Trả lời một người mensêvich dựa vào những lý lẽ của Mác để cho rằng
nước Nga chưa đến độ trưởng thành để thực hiện chủ nghĩa xã hội,
Lênin đã viết:
“Một dân tộc, nằm trong một hoàn cảnh cách mạng như hoàn cảnh đã
diễn ra trong thời kỳ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa lần thứ nhất, há
lại không có thể, trước một tình thế không lối thoát, lao vào một
cuộc đấu tranh có thể mang lại cho mình dù đôi chút hy vọng giành
được những điều kiện không hoàn toàn quen thuộc với mình, để đạt
được sự tiến bộ văn minh, hay sao?”
[39].
Chủ đề hiện
đại hóa nước Nga dường như bao giờ cũng là băn khoăn xuyên suốt của
ông, chỉ có điều khác là vào những ngày cuối đời mình, băn khoăn ấy
đã không còn được yểm trợ bằng những khái niệm “khách quan”, “tất
yếu” đậm màu mácxít nữa:
“Nếu như để xây dựng chủ nghĩa xã hội cần đạt tới một trình độ văn
hóa nhất định (...) thì tạo sao chúng ta lại không bắt đầu trước hết
từ việc giành lấy những điều kiện tiên quyết cho trình độ nhất định
đó bằng con đường cách mạng để về sau, nhờ có một chính quyền công
nông, nhờ có chế độ xô viết, mà tiến lên và đuổi kịp những dân tộc
khác?
[40]
Thực chất của
cuộc cách mạng ấy là gì khi mà đề cập đến nó, Lênin đã nhắc lại câu
nói của Napoléon: “On s’engage et puis... on voit”? Phải
chăng là đơn giản một điều này thôi: khi có điều kiện, cứ tiến hành
cướp chính quyền trước đi, còn tất cả những chuyện khác thì sẽ tính
sau? Theo ý nghĩa đó, cuộc Cách mạng tháng mười Nga là gì nếú không
phải là một cuộc phiêu lưu mà ở điểm khởi hành người ta không có gì
trong tay ngoài một nắm những ý tưởng?
6. Ngày
21.01.1924 Lênin chết. Ngày 2.3.1923 Lênin viết bài báo cuối cùng.
Hình như đó là bài báo bình thản nhất của ông đối với toàn bộ cái
thực thể gọi là “chủ nghĩa xã hội” do chính ông tạo nên cho nước
Nga: chưa có gì chứng tỏ mọi việc đã hết hy vọng, nhưng cũng chưa có
dấu hiệu gì chứng tỏ mọi việc sẽ đỡ “dã man” hơn trước.
(a) “Quá khứ này tuy đã bị lật đổ, nhưng chưa bị tiêu
diệt, nó chưa phải là một giai đoạn văn hóa đã hết thời từ lâu”;
(b) “những công nhân hăng hái đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Họ
chưa có đầy đủ học thức. Họ rất muốn đem lại cho chúng ta một bộ máy
tốt hơn. Nhưng họ không biết làm thế nào. Họ không thể nào làm được
việc đó”; (c) “chúng ta đã cải tiến bộ máy nhà nước của ta.
Nhưng đó chỉ là một hoạt động phí công, một hoạt động, qua năm năm,
đã chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng hoạt động đó chỉ là vô hiệu, thậm
chí còn vô ích, hay thậm chí còn có hại là khác. Nhìn hoạt động phí
công ấy thì tưởng chúng ta công tác, nhưng thực tế, hoạt động đó đã
làm cho những cơ quan và đầu óc của chúng ta đóng cáu lại”
[41]!
Còn gì đâu cái
hào khí của những “bà nội trợ” trực tiếp tham gia quản lý nhà nước
như Lênin đã từng mơ ước? Nguyên nhân của mọi thứ trì trệ ấy, ông
đều quy về thái độ ứng xử của một guồng máy ngu dốt, thiếu văn hóa
nhưng lại muốn giải quyết mọi vấn đề liên quan đến sự nghiệp phát
triển đất nước bằng những cái gọi là “xung phong”, “liều lĩnh”, “hấp
tấp, vội vàng” hoặc mĩ miều hơn “bằng bất cứ một trong những đức
tính tốt đẹp nhất nào của con người”. Thế thì cái mà trước đây ông
gọi là thượng tầng tiến bộ, dựa vào đó tạo ra cái hạ tầng tương ứng,
thực chất của nó là gì?
7. Tất nhiên
với cái não trạng đặc biệt cuồng nhiệt của mình, Lênin không thể nào
nhận ra sự “hấp tấp vội vàng” lại có thể nằm ngay trong cuộc cách
mạng gọi là “vô sản” mà ông đã “vận dụng” Mác để tạo ra cho nước
Nga. Nhưng dù sao, với cái tư duy thực tế quen thuộc của mình, ông
cũng đã bộc lộ được trong chừng mực nào đó sự sai khớp hiển nhiên
giữa chủ nghĩa Mác với cái thực tế phát triển của đất nước ông, góp
phần cho những thế hệ người đi sau ông có thêm điều kiện để hiểu ra
rằng thứ chủ nghĩa Mác tuyệt vời mà bao nhiêu người từng say mê thần
phục ấy rốt cuộc cũng chỉ là một thứ ý thức hệ hư ảo theo định
nghĩa của Mác.
Chúng ta hiểu
được tại sao những người kế thừa sự nghiệp của Lênin đã hoàn toàn
không màng gì đến những bài báo mang tính “trăn trối” nói trên của
ông. Một cách khách quan, như đoàn âm binh vượt khỏi cái “cẩm nang”
của người phù thủy, cuộc cách mạng thứ hai không được bổ sung
bằng cuộc cách mạng thứ nhất do ông khởi xướng cho nước Nga tự
nó đã trở thành một thực thể độc lập, với một guồng máy thống trị bề
thế, nặng nề, cứ lừng lững tồn tại bất chấp cái ý thức của những
người đã tạo ra nó. Nó đã tự hình thành ra cho nó một thứ lôgích
riêng biệt, gắn liền với một định chế về quyền lợi và quyền lực, một
định chế không hoàn toàn chỉ tạo nên bằng ý tưởng và ảo tưởng nữa.
Giữa chủ nghĩa xã hội lý thuyết với chủ nghĩa xã hội hiện thực,
sự khác nhau không còn phải chỉ là sự sai lệch giữa ước mơ và thực
tế, là sự “nghịch lý” không thể giải thích được giữa lời nói quá cao
xa với những việc làm quá tồi tệ, bởi vì tất cả đều đã trở thành
sự nói dối có ý thức rồi, là sự mị dân và là những thủ đoạn mang
ý nghĩa thống trị đơn thuần.
Cuộc cách mạng
của những ý tưởng đặt nền trên sự suy lý triết học đã trở thành một
chế độ không cần đến triết học và cũng chẳng cần mơ mộng nữa. Chỉ
cần những bài tụng ca hả hê nặc mùi philixtanh với mọi cái hiện tồn.
Một não trạng mới cũng đã hình thành cùng với sự hình thành của một
giai cấp cầm quyền mới. Trước một não trạng như thế, mọi băn khoăn,
tìm kiếm không những bị xem là sự xa xỉ, vu vơ mà còn bị kết cho cái
tội lỗi uyên nguyên mang tính đặc thù trí thức: hoang mang, dao
động, mất lòng tin v.v. và v.v... Mọi thứ đều tuyệt vời rồi và phải
cố gắng giữ gìn sự “ổn định” để mà bảo vệ sự tuyệt vời ấy: lịch sử
đã chấm dứt cho nên những thảm kịch trí thức cũng phải chấm dứt
theo. Chủ nghĩa xã hội hiện thực từ lâu cũng đã không còn quan hệ gì
nhiều lắm với cung cách tư duy“cách mạng” kiểu Lênin nữa.
Xong: 10.2.1995
Sửa: tháng 6-2004
[1] Trong thư gửi cho Joseph
Weydemeyer ở New York ngày 5.3.1852, Mác viết: “Các
triết gia tư sản trước tôi rất lâu đã trình bày sự phát
triển của lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp ấy, còn các
nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày giải phẫu kinh tế
của các giai cấp ấy. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh
rằng: 1. sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, 2.
cuộc đấu tranh giai cấp nhất thiết sẽ dẫn tới chuyên
chính vô sản; 3. bản thân nền chuyên chính này chỉ là
bước quá độ tiến lên thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến
tới một xã hội không giai cấp” (C.
Mác và F. Ăngghen: Tuyển tập II, Sự thật, Hà
Nội, 1981, tr. 662).
[2] C. Mác & F. Ăngghen:
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tuyển tập I, Sự thật, Hà
Nội, 1980, tr. 546.
[3] Như trên, tr. 507-508.
[4] V.I. Lênin: Về cuộc
cách mạng của chúng ta (1923), Lênin toàn tập, tr. 45,
Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr. 423.
[5] “Tôi xin nhắc lại rằng chỉ có cách mạng toàn Châu Âu mới cứu chúng ta
thoát khỏi được tất cả những khó khăn đó” (V.I.Lênin:
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương
(7.3.1918), Lênin toàn tập, tr. 36, Tiến bộ, Matxcơva, tr.
14).
[6] “Cuộc cách mạng của chúng ta chính là đã tiến hành vào giờ phút may
mắn – thật là ngược đời, nhưng lại đúng như thế...”. “Sở dĩ
được như thế, chỉ là vì hoàn cảnh quốc tế đặc biệt đã tạm
thời che đỡ cho chúng ta tránh được chủ nghĩa đế quốc. Lúc
ấy chủ nghĩa đế quốc còn bận phải làm việc khác nên không để
ý đến chúng ta” (Như trên, tr. 10-11).
[7] “Một nước càng lạc hậu mà lại phải – do những ngoắt ngoéo của lịch
sử – bắt đầu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nước đó
càng gặp khó khăn trong việc chuyển từ những quan hệ cũ, tư
bản chủ nghĩa, sang những quan hệ xã hội chủ nghĩa. Ở đây,
ngoài những nhiệm vụ phá hoại, còn có nhiệm vụ mới khó khăn
chưa từng thấy, đó là những nhiệm vụ tổ chức” (Như trên, tr.
6).
[8] “Trong số những nhiệm vụ mà chúng ta phải giải quyết, chưa có nhiệm
vụ nào mà chúng ta không phải giải quyết hai lần. Sau mỗi
lần thất bại chúng ta lại nghiên cứu lại vấn đề một lần nữa,
chúng ta làm lại tất cả...” (V.I.
Lênin, Báo cáo về chính sách kinh tế mới
(29.10.1921), Lênin toàn tập, t. 44, tr. 260).
[9] “Ở đây chúng ta sẽ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, nhiều hi
sinh và nhiều sai lầm; đây là một sự nghiệp mới, chưa từng
có trong lịch sử và chưa từng có một cuốn sách nào bàn tới”
(V.I. Lênin:
Báo cáo về hoạt động của Hội đồng bộ trưởng Dân ủy
(11.1.1918), Lênin toàn tập, t. 35, tr. 319).
[10] “Nếu chúng ta có được vài tháng công tác hòa bình thì việc tổ chức lại
nước Nga trên cơ sở chuyên chính vô sản, trên cơ sở quốc hữu
hóa các ngân hàng và nền đại công nghiệp, trên cơ sở trao
đổi bằng hiện vật những sản phẩm giữa thành thị và những hội
tiêu dùng của người tiểu nông ở nông thôn, là hoàn toàn có
thể thực hiện được về phương diện kinh tế. Và sự tổ chức lại
như thế sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên vô địch, vừa ở
Nga, vừa trên toàn thế giới, đồng thời lại tạo nên được một
cơ sơ kinh tế vững chắc cho Hồng quân công nông hùng mạnh” (V.I.Lênin:
Bàn về lịch sử một hòa ước bất hạnh (1918), Lênin
toàn tập, t. 35, tr. 299).
[13] “Tổ chức kiểm kê kiểm soát các xí nghiệp lớn nhất, biến toàn bộ bộ
máy kinh tế nhà nước thành một bộ máy lớn duy nhất, thành
một cơ cấu kinh tế hoạt động sao cho hàng trăm triệu con
người đều được chỉ đạo bằng một kế hoạch duy nhất – đó là
nhiệm vụ tổ chức to lớn mà chúng ta phải gánh vác” (V.I.
Lênin: Báo
cáo chính trị... (7.3.1918), t. 36, tr. 8).
[14] “... đứng về mặt lý luận, một điều không thể tranh cãi được
là: chính quyền xô viết là một kiểu nhà nước mới, không có
bộ máy quan liêu, không có cảnh sát, không có quân đội
thường trực, một kiểu nhà nước mới trong đó nền dân chủ tư
sản được thay thế bằng nền dân chủ mới, một nền dân chủ đang
đưa đội tiền phong của quần chúng lao động lên hàng đầu, làm
cho quần chúng đó trở thành những người lập pháp và hành
pháp, thành những đội vũ trang bảo vệ, và thiết lập ra một
bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng” (V.I.
Lênin: Báo cáo về việc sửa đổi cương lĩnh và việc
đổi tên đảng (8.3.1918), Lênin toàn tập, t. 36, tr. 65).
[15] “... khi bắt đầu thực hiện những cải tạo xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
đặt rõ cái mục đích mà những cải tạo xã hội chủ nghĩa đó rốt
cuộc nhằm tới, cụ thể là mục đích thiết lập một xã hội cộng
sản chủ nghĩa, một xã hội không chỉ hạn chế ở việc tước đoạt
các công xưởng, nhà máy, ruộng đất và tư liệu sản xuất,
không chỉ hạn chế ở việc kiểm kê và kiểm soát một cách chặt
chẽ việc sản xuất và phân phối sản phẩm, mà còn đi xa hơn
nữa, đi tới việc thực hiện nguyên tắc: làm theo năng lực
hưởng theo nhu cầu. Vì thế cái tên gọi “đảng cộng sản” là
duy nhất chính xác về mặt khoa học” (Như trên, tr. 56).
[16] “Trao đổi, tức là tự do buôn bán, tức là chủ nghĩa tư bản. Nó có lợi cho
chúng ta trong chừng mực nó giúp chúng ta chống lại tình
trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ và phần nào
chống lại cả bệnh quan liêu nữa. Mức độ nào thì kinh nghiệm
và thực tiễn sẽ quy định. Ở đây không có gì nguy hiểm với
chính quyền vô sản cả, chừng nào mà giai cấp vô sản còn nắm
chắc chính quyền trong tay, chừng nào mà giai cấp vô sản còn
nắm vững ngành vận tải và thương nghiệp” (V.I.
Lên nin: Bàn về thuế lương thực (1921), Lênin
toàn tập, t. 43, tr. 294- 295).
[17] “Chúng tôi tồn tại trong một hệ thống các nước tư bản... Một bên là các
nước thuộc địa, họ chưa thể giúp đỡ chúng tôi được; bên khác
là những nước tư bản, họ là kẻ thù của chúng tôi. Hiện đã có
một sự cân bằng nào đó. Nếu chúng tôi muốn tồn tại thì chúng
tôi không thể bỏ qua sự thật đó. Hoặc là chiến thắng giai
cấp tư sản ngay lập tức, hoặc là phải nộp cống vật” (V.I.
Lênin: Báo cáo về sách lược của đảng cộng sản Nga
(tại Đại hội III Quốc tế cộng sản tháng 7-1921), như trên,
tr. 207).
[18] “Một khi cuộc tấn công chính diện đã không thành công, thì bây giờ chúng
ta hãy đi đường vòng, chúng ta hãy dùng cách đánh bao vây và
đánh bằng hầm hào” (V.I.
Lênin: Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ
của các ban giáo dục chính trị (1921), như trên, tr.
207).
[19] V.I. Lênin: Về những nhiệm
vụ của bộ dân ủy tư pháp trong những điều kiện của chính
sách kinh tế mới (20.02.1922), Lênin toàn tập, t. 44,
tr. 487.
[20] V.I. Lênin: Báo cáo về
việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế
lương thực (tại Đại hội Đảng cộng sản (b) Nga ngày
15.03.1923), Lênin toàn tập, t. 43, tr. 428.
[21] V.I. Lênin: Bàn về chế độ
hợp tác xã (6.2.1923), Lênin toàn tập, t.45, tr. 428.
[22] V.I. Lênin: Dự thảo luận
cương về vai trò và nhiệm vụ của công đoàn trong điều kiện
của chính sách kinh tế mới (4.1.1923), Lênin toàn tập,
t.44, tr. 421.
[23] V.I. Lênin: Chúng ta phải
cải tổ Bộ dân ủy thanh tra công nông như thế nào?
(Đề án gửi Đại hội XII của Đảng, 23.1.1923), Lênin toàn tập,
t.45, tr. 440.
[24] V.I. Lênin: Làm gì?
(1902), Lênin toàn tập, t.6, tr. 38.
[26] “Hiện nay, so với bất cứ nước Anh hay nước Đức nào, giai cấp vô sản Nga
chúng ta cũng đều tiên tiến hơn về mặt chế độ chính trị của
nước ta và về mặt sức mạnh của chính quyền công nhân, nhưng
đồng thời lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở Tây Âu về
mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản nhà nước có quy củ, về mặt
trình độ văn hóa, về mặt mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện
chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất” (V.I.
Lênin: Bàn về thuế lương thực (tháng 4.1921),
Lênin toàn tập, t.43, tr. 259-260).
[27] “Nếu không nhận rằng tình trạng giai cấp vô sản mất gốc là một khuyết điểm
thì thật lố bịch, ngu xuẩn và phi lý” (V.I.
Lênin: Báo cáo về thuế lương thực (6.5.1921),
Lênin toàn tập, t.43, tr. 372).
[28] V.I. Lênin: Về cuộc cách
mạng của chúng ta (16.1.1923), Lênin toàn tập, t.45, tr.
432-433.
[29] V.I. Lênin: Bàn về thuế
lương thực (tháng 4.1921), Lênin toàn tập, t.43, tr.
248.
[30]
V.I. Lênin:
Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky (1918), Lênin
toàn tập, t.37, tr. 294.
[31] “Chúng ta không thừa nhận một cái gì là “tư nhân” cả, đối với chúng
ta tất cả trong lĩnh vực kinh tế đều là hợp pháp công hữu
chứ không phải là tư nhân. Chúng ta chỉ dung nạp chủ nghĩa
tư bản nhà nước, mà nhà nước thì đó là chúng ta, như đã nói
trên. Từ đó mở rộng việc áp dụng sự cạn thiệp của nhà nước
vào những quan hệ “tư pháp”; mở rộng quyền của nhà nước bãi
bỏ các “hợp đồng tư nhân”; áp dụng không phải là corpus
juris romani (bộ luật của luật pháp La Mã) đối với những
“những quan hệ luật pháp dân sự” mà là ý thức pháp luật
cách mạng của chúng ta...” (V.I.
Lênin: Về những nhiệm vụ của Bộ dân ủy tư pháp
trong những điều kiện của chính sách kinh tế mới, Lênin
toàn tập, t.44, tr. 487). Đây là bức thư đề ngày 20.02.1922
Lênin gửi cho D.I. Cuôxki, bộ trưởng dân ủy tư pháp, một tài
liệu chỉ về sau mới được công bố; mở đầu thư có những dòng
ghi chú: “không sao thành nhiều bản, chỉ cho xem sau khi ký
tên, không cho bàn tán trước kẻ thù”; cuối thư cũng có phụ
chú: “P.S. Không được nói một tí gì trên báo chí về bức thư
của tôi. Ai muốn thì cứ phát biểu và ký tên mình vào, không
nhắc gì đến tôi, và thêm nhiều số liệu cụ thể vào !”. Tài
liệu này bộc lộ thêm một bộ mặt khác của nhà lãnh tụ cộng
sản với nghệ thuật chỉ đạo giấu mặt của ông.
[32] F. Ăngghen: Sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học
(1891) (C. Mác & Ph. Ăngghen, Tuyển tập V, Sự thật,
Hà Nội, 1983, tr. 610).
[33] V.I. Lênin: Về bệnh ấu trĩ
“tả khuynh” và tính tiểu tư sản (1918), Lênin toàn tập,
t.36, tr. 371.
[34] Để có chút ít khái niệm về sự lu loa này, thiết tưởng nên đọc bộ
sách được coi là “tham khảo tốt” có tựa là Chủ nghĩa xét
lại về triết học, do tập thể các tác giả của Viện hàn
lâm khoa học xã hội trực thuộc Ban chấp hành trung ương Đảng
xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (Đông Đức cũ) xuất bản tại
Berlin năm 1977, bản tiếng Việt: Chủ nghĩa xét lại về
triết học (hai tập), Sự thật, Hà Nội, 1983.
[35] C. Mác: Lời nói đầu Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel (1844), (C.
Mác & Ph. Ăngghen,
Tuyển tập I, Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 14).
[36] Hãy đọc những ghi chép sau đây của Clara Zetkin (“một chiến sĩ nổi tiếng
trong phong trào xã hội chủ nghĩa Đức”) để hiểu thêm tinh
thần “khai sáng” của Lênin đối với công nhân và nông dân qua
hai giai đoạn cách mạng, trước khi và sau khi có chính
quyền. Clara: “Đồng chí Lênin ạ, đồng chí đừng phàn
nàn một cách chua chát như thế về nạn mù chữ. Trong một
chừng mực nào đó, nạn này đã làm dễ dàng cho cách mạng. Nó
đã giữ cho đầu óc công nhân và nông dân khỏi bị bọn tư sản
nhồi sọ, nó đã ngăn trở khiến cho công nhân và nông dân
không bị quị xuống. Công tác tuyên truyền và cổ động của các
đồng chí rơi trúng vào một đám đất hoang. Gieo trồng và gặt
hái ở một nơi mà người ta không phải bắt đầu hạ cả một khu
rừng già là việc dễ dàng hơn”. Lênin: “Vâng, đúng
đấy, nhưng điều đó chỉ đúng trong một chừng mực nào mà thôi,
hay nói đúng hơn, điều đó chỉ đúng đối với một thời kỳ nào
đó của cuộc đấu tranh của chúng ta mà thôi. Quả thế, trước
kia nạn mù chữ là thích hợp cho cuộc đấu tranh của chúng tôi
để giành chính quyền, và thích hợp với sự cần thiết phải phá
hủy bộ máy nhà nước cũ. Nhưng như vậy có phải chúng tôi chỉ
phá hủy để phá hủy không? Chúng tôi phá hủy để kiến thiết
một xã hội tốt đẹp hơn? Thế mà nạn mù chữ thì khó mà điều
hòa được, tuyệt nhiên không điều hòa được với những nhiệm vụ
kiến thiết của chúng tôi” (Clara
Détkin: Nói về Lênin: Ký ức và những cuộc gặp gỡ,
Mátxcơva, 1925; trong
C. Mác, F. Ăngghen, V.I. Lênin: Về văn học và nghệ
thuật, Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 578-579.
[37] Maxim Gorki: V.I. Lênin
thuở bình sinh, Bureau d’éditions, Paris 1934 (trích
dịch trong C. Mác, F.
Ăngghen, V.I. Lênin: Về văn học nghệ thuật, Sự
thật, Hà Nội, 1977, tr. 606-607).
[38] V.I. Lênin:
Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản
(5.5.1918), Lênin toàn tập, t.36, tr. 369.
[39] V.I. Lênin: Về cuộc cách
mạng của chúng ta (16.1.1923), Lênin toàn tập, t.45, tr.
432.
[40] V.I. Lênin: Thà ít mà tốt
(2.3.1923), Lênin toàn tập, t. 45, tr. 442-460.
|