Sự va đập ký hiệu thẩm mỹ
Lê Thị Hường
Từ một cốt truyện nhại trinh thám
“Văn
học của chúng ta đang hướng về sự hỗn loạn… Trong thời đại cực kỳ hỗn
loạn ấy, có một thứ vẫn còn giữ, giữ một cách khiêm tốn, những giá trị
truyền thống: đó là truyện trinh thám”
(J. L. Borges).
Ở Việt Nam, qua những biến động lịch sử, sau
một gián đoạn khá dài, trinh thám từ chỗ là cận văn học, ngoại biên đã
dịch chuyển vào trung tâm. Sự xuất hiện trở lại của truyện trinh thám
tuy còn rải rác nhưng điều đáng lưu ý là cội rễ thể loại ngày càng đậm
trong tiểu thuyết đương đại. Do tính đối thoại - một nguyên lý cơ bản
của văn chương, nhại/nhại thể loại trở thành xu hướng phổ biến trong văn
học. Mặt khác, với tính chất liên thể loại, giễu nhại như là một trò
chơi cấu trúc. Trong tiểu thuyết nhại trinh thám, nhà văn tạo tình huống
giống như thật (nghi phạm, điều tra, truy lùng, kết án…) - nhưng tất cả
đều là những thao tác giả. Sự thật nằm sau những cái giả mà nhà văn đem
ra giễu nhại này.
Trong những điều kiện mới, văn học Việt dần chuyển sang hệ hình hậu hiện
đại, dung nạp cái hỗn loạn, phi tâm, cái hiện thực thậm phồn. Giễu nhại
trở thành một phương thức, một giọng, một diễn ngôn chủ. Trong giọng
điệu thời đại đó, Hồ Anh Thái là một điển hình. Với một nhà văn vài năm
cho ra đời một tiểu thuyết, người đọc không tránh khỏi cảm giác vừa tò
mò, vừa ngại ngần sợ một sự lặp lại. Tuy vậy, với Tranh Van Gogh mua
để đốt, Hồ Anh Thái gây ấn tượng về sự lạ mới ngay từ nhan đề. Tên
cuốn tiểu thuyết như một ký hiệu phản đề, một
mã trinh thám - Tranh Van Gogh mua để đốt.
Ai mua? Ai đốt? Đốt trở thành từ khóa gắn liền với biểu tượng lửa. Ai đã
phạm tội hủy diệt văn hóa nhân loại? Mã nhan đề gắn với
tình huống phạm tội, điều tra,
truy tìm sự thật. Câu chuyện bức tranh suýt bị đốt hai lần được kể như
một câu chuyện trinh thám đan xen các mã diễn ngôn trong tiểu thuyết của
Hồ Anh Thái.
Nhưng Hồ Anh Thái không viết tiểu thuyết trinh thám. Nhà văn đang chơi
cấu trúc. Cuộc chơi mở ra ngày từ đầu qua kỹ thuật “tung hỏa mù”, với
cách kể chuyện nửa kín nửa hở, vừa lan man, ngẫu hứng, phi tâm, vừa có
chất kết dính từ bên trong. Chiến lược trần thuật rất rõ qua mặt nạ tác
giả, qua đối thoại với người đọc, qua việc giấu điểm nhìn. Nhà văn lên
kế hoạch (“tác giả đã bàn với nhân vật”, “đã định…”); ván bài có vẻ đã
lật ngửa nhưng vẫn hứa hẹn nhiều bất ngờ. Cuộc rượt đuổi nghi phạm (anh
tổng biên tập - người cứu tranh) chưa đến hồi kết thúc mà nhân thân
nguyên cáo (ông sếp - người đốt tranh) ngày càng lộ rõ.
Toàn bộ văn bản chuyện là sự dịch chuyển, lắp ghép. Dịch chuyển không
gian địa lý, từ Đà Lạt chuyển sang Sa Pa, từ chợ tình đến sex tour; điện
ảnh, văn học, hội họa, nghệ thuật sắp đặt; liên văn hóa; liên tôn giáo,
tộc người (H’ Mông, lai Tây) …; từ những cuốn sách trắng, những tấm toan
bôi trắng đến bức tranh đời sống loang lổ xám tối; từ
một khuôn mặt người đến trùng điệp đám đông nhạt mờ. Tất cả dung chứa
trong một văn bản tiểu thuyết ngắn, đôi chỗ có vẻ thừa, nhưng mọi mảnh
ghép đều khớp mạch, dồn nén và bung phá.
Suốt văn bản truyện hầu như không có đối thoại nhân vật. Lời thoại của
nhân vật (rất hiếm) đều được
nhà văn - người viết truyện/người kể chuyện diễn đạt lại. Sự
triệt tiêu/tỉnh lược đối thoại, để cho biểu tượng lên tiếng là đặc điểm
của tiểu thuyết Hồ Anh Thái.
Đâu
là phim, đâu đang là tiểu thuyết, khó phân định bởi một sự đan kết được
nói rõ từ đầu nhưng úp mở qua một hệ thống ký hiệu
mật mã,
trong đó nổi bật là trắng/màu trắng gắn với những cổ mẫu/biểu tượng
khác.
Các mã diễn ngôn đó chỉ xoay quanh hai tình huống đốt/hủy diệt và
cứu/tái sinh.
Đốt tranh của Van Gogh và cướp/nhặt/cứu bức tranh vô giá cuối cùng chỉ
còn màu trắng. Sự va đập, tương hỗ giữa các ký hiệu đã mở ra những bi
hài cuộc sống. Đằng sau số phận của tài danh là bi kịch trí thức bị
ruồng bỏ. Đằng sau câu chuyện bức tranh bị đốt là bi kịch hội họa hiện
đại.
Xoay quanh bức tranh nổi tiếng của danh họa Hà Lan là phi lý, vô nghĩa
cuộc đời; là
ngụy tín trong văn học nghệ thuật và những hệ lụy của nó trong đời sống
con người. Âu lo, mất niềm tin, xa lạ… những chủ đề hiện sinh đậm rõ
trong câu chuyện nhại trinh thám này.
Đốt. Đốt hết. Lửa từ nhan đề và suốt văn bản. Đốt bức tranh nổi tiếng
của danh họa Hà Lan mà cái tên đã làm thảng thốt người đọc. Nhà văn hoàn
toàn không đề cập bi kịch cuộc đời của họa sĩ thiên tài nhưng ẩn sâu
trong khuôn mặt khắc khổ, nhàu nhĩ của bác sĩ Gachet trong tranh là nỗi
thống khổ cuộc đời Van Gogh. Và đằng sau nỗi cô-độc-kép đó là bi kịch
lạc thời của trí thức nghệ sĩ, kể cả bi hài kịch của những kẻ trí thức
giả, qua một chất giọng giễu nhại đã thành phong cách của Hồ Anh Thái.
Nhân vật của Hồ Anh Thái đủ mọi hạng người, phú quý sang hèn, đỉnh cao
danh vọng hay dưới đáy, không có điểm nhấn, phi tâm. Nhà văn cũng chẳng
ưu ái cho ai hoặc ghét bỏ ai, trừ sự tha hóa con người. Tuy vậy, qua
nhiều tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, những kẻ sĩ trí thức thường lưu giữ
người đọc lâu hơn. Nhà văn đã thổi mẫu hình trí thức của Kron (Thao
thức) mà ông từng khâm phục vào những trang văn đậm chất black
humour của mình.
Hồ Anh Thái khái quát muôn mặt cuộc đời qua những mảnh lắp ghép rời rạc,
hỗn độn, thực ảo đan xen.
Cuộc rượt đuổi giữa người cố tình đốt tranh (sếp) và người vô tình cứu
tranh (anh) dung chứa trong mạch ngầm của nó là bi kịch người trí thức
bị ruồng bỏ.
Đằng sau cuộc
rượt đuổi (vô hình lẫn hữu hình) là chênh vênh giữa khát vọng và thực trạng,
giữa cái muốn vươn lên và cái kìm hãm người trí thức. Cuộc đời anh
là sự dịch chuyển
- tổng biên tập của một tờ báo - giám đốc truyền thông - nhân viên của
một tập đoàn lớn, nhưng anh
gần với những chân giá trị. Khi cả đám đông lao vào trò chơi nhân đạo,
chỉ có anh là khóc thật (dẫu cái sự khóc đó sau này cũng là hệ lụy truy
bức anh); chỉ có anh là ám ảnh không dứt vì không cứu được người giữa
dòng nước lũ, giữa biển nước mắt vô cảm của trò chơi từ thiện. Trước bức
tranh sắp bị đốt, anh đã “linh cảm đây không phải là tranh chép”, “tim
anh đập như đánh trống, mấy ngón tay anh run run, đầu óc anh xây xẩm…”.
Và cũng chỉ có anh, khi bức tranh bị tẩy trắng, còn nhìn ra ký hiệu
hình vú ở mặt sau, dấu tích của những năm tháng nghệ thuật bị vùi
dập vì không theo thị hiếu đám đông. Chỉ có anh là không đeo mặt nạ nên
nhiều lần bị chuyển đổi công việc; bị truy đuổi bởi sếp và trên sếp là
những thế lực vô hình giăng bủa khắp nơi (lên núi xuống biển lấp mặt
giữa đông đúc thị thành hay trốn trong hầm tối, đâu cũng có con mắt nhòm
ngó của sếp). Sâu xa hơn, đằng sau anh là những hệ lụy gia đình, là câu
chuyện dài về người bố - một trí thức giàu nhiệt huyết, du học nước
ngoài trong niềm khát vọng tận hiến. Nhưng thực tế tỉ lệ nghịch với ước
mơ hoài bão, cuộc đời anh kỹ sư trẻ là thuyên chuyển, là bất đắc chí, là
mòn mỏi, là cái chết trong tủi nhục, trong bóng tối.
Bi
hài người trí thức còn đậm nhạt ở nhiều số phận.
Đó là cô nhà báo mà “người ta nhắc nhiều
đến tai nạn của cô hơn là số huy hiệu huy chương”; là cậu nghiên cứu
sinh người Mỹ chung thủy với cô gái Việt, mong mỏi một lần, một khoảnh
khắc được đặt chân lên mảnh đất tình yêu, nhưng luôn bị những rào chắn
vô hình. Liên tưởng, lan man, phi tâm, không ai là nhân vật chính hay
phụ, nhân vật thật hay ảo, nhà văn đã biến truyện thành phim ngay trong
văn bản tiểu thuyết của mình. Nhân vật - diễn viên, nhà biên kịch - nhà
văn nhòe mờ. Cảm giác như tất cả đều sắm vai. Tác giả sắm vai dẫn dắt
các trường đoạn, sắm vai âm thanh đạo cụ. Vai diễn - vai thật ngoài đời
lẫn lộn chẳng còn phân biệt thực hư. Những mảnh đời, những số phận đan
chéo nhau, có khi phả lấp vào nhau trên nền một không gian rỗng/trắng đa
nghĩa.
Những liên quan về bức tranh Chân dung bác sĩ Gachet của Van Gogh
nhà văn sử dụng thông tin mạng như một hình thức liên văn bản (được vẽ
trong thời kỳ khủng hoảng, bị che chắn lỗ thủng chuồng gà; một tỉ phú
người Nhật mua tranh những 82,5 triệu USD chỉ để giấu trong ghế bành và
sẽ đốt đi khi chết, một anh sếp Việt Nam đã lặn lội mua được bức tranh
với giá gấp đôi, rồi cũng để đốt…). “Hẳn là bức tranh đã vô cùng chật
vật mới thoát được ngọn lửa hỏa thiêu ở Nhật. Nó chạy trốn khỏi nước
Nhật để sang Việt Nam gieo mình vào một đống lửa khác”. Những gì ẩn đằng
sau bức tranh có số phận không bình thường đó mới là điều đáng nói.
Xoay quanh bức tranh bị che chuồng gà và những bức tranh trắng là thật
giả lẫn lộn, các chân giá trị bị tiêu hủy, giả đạo đức, ngụy tín lên
ngôi. Vấn đề là cả một đám đông không ai nhận ra sự giả trá. Cả đám đông
chơi trò sáng mắt nhưng lại lạc vào cõi vô minh, vào “chốn sương mù”.
Duy nhất chỉ có cô diễn viên/cô gái Mông lai Kinh là thấy chữ, thấy
tranh. Gọi em là gì cũng được bởi em không có nhân thân (là cô học sinh
mà chàng trai người Mỹ yêu cuồng nhiệt thủy chung, là người chị điên vì
cái chết tức tưởi của đứa em trai, là cô gái H’Mông mắt xanh tóc vàng,
cô gái có đứa con lai như một con búp bê Tây, cô diễn viên đẹp đóng vai
im lặng, không đọc được kịch bản vì hễ thấy chữ là choáng váng). Gọi em
là gì cũng được bởi em bị đánh vắng, đánh tráo, bị triệt tiêu tiếng nói
trong cái mê-cung-trống-rỗng ấy:
“Những giá sách cao ngất chạm trần”; “San sát. Tầng tầng lớp lớp… những
vật thể chứa chữ… trưng bày tri thức của chủ nhà”. Gọi em là gì cũng
không sai, nhưng duy nhất
em là người nhìn thấy trong những quyển sách bìa cứng mạ vàng
uy nghiêm trên kệ sách
của ông sếp là những trang giấy hoàn toàn trắng. Cuốn nọ chồng xếp cuốn
kia, tầng tầng lớp lớp trắng xóa, hoàn toàn không có chữ; nhưng những
con chữ vô hình lại phát lên hình ảnh, âm thanh lôi cuốn cô gái hễ thấy
chữ là đau đầu. Cô mải mê, đắm chìm trong một thế giới trắng đầy màu
sắc, chuyện trò với chữ, sống trong từng con chữ không hiện hình. Kể cả
những bức tranh cô phác họa cũng toàn là màu trắng. Những gì người khác
không thấy cô lại thấy và vẽ lại bằng sự im lặng trắng. Ẩn sau những tấm
toan bôi sơn dầu hoàn toàn trắng là bạo chúa Nero và cảnh thành Rome
đang cháy, là “xoáy nước trong làng quê mùa lũ;… xoáy nước mùa mưa nước
ngập đường phố”… Tất cả đều trắng kể cả lửa. Lửa màu trắng.
Tiểu thuyết Hồ Anh Thái thường có một cõi vô minh như thế. Trong
Đức Phật, nàng Savitri và tôi,
trong
“cái tăm tối mù lòa ngu dốt. Cả thế gian cùng lúc chìm trong vô minh”
cũng chỉ
Savitri
- nữ thần đồng trinh - nữ thần dục vọng, là nhìn xuyên được cõi vô minh
ấy. Còn với tôi - nhà nghiên cứu Ấn Độ “màn sương trắng vẫn bịt chặt lấy
mắt”; “Tôi cũng không thấy gì qua lớp sương trắng xóa”
(Đức
Phật, nàng Savitri và tôi).
Với cô gái nửa H’Mông nửa Kinh bị đánh tráo, không tên, từ chỗ ngộ
chữ đến chỗ bừng ngộ - giữa cõi vô minh mù mờ, chỉ có em là
sáng, là thật. Trắng như một trạng thái im lặng tuyệt đối. Từ sự im lặng
trắng đó, dồn dập, đan xen, cùng va đập những âm thanh cuộc đời. Lạ thay
cái thế giới ảo mà cô đang chìm đắm mới chính thực là cuộc đời - “những
cuộc đời rất lạ. Những cuộc đời rất quen”. Đa dạng đời và hư vô đời.
Trắng trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái biểu hiện hư vô đời người. Tính
không xác định của màu trắng lại gợi bảng phổ quang cuộc đời, hiện hữu
hỗn độn đó rồi mờ nhòe cũng đó. Trắng thể hiện một ảnh tượng siêu hình
về ý nghĩa cuộc đời.
Những bức tranh trắng trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái nói lên bi kịch nghệ
thuật
lừa dối, hình thức, háo danh, những bức tranh như một
sự đánh lừa thị giác.
Màu trắng trong suốt lại trở thành tấm gương phản ánh những phi lý cuộc
đời.
Từ
một bức tranh trắng nhân bội lên nhiều bức tranh.
Cả một đám đông lao vào trò chơi sáng tạo, phê bình bôi trơn, đấu hót.
Không ai nhìn nhận đây là những bức tranh trắng. Những trí thức nghệ sĩ
xun xoe, khen ngợi, gọi lên những cái tên mỹ miều, bởi “hành nghề nghệ
thuật thị giác mà thú nhận rằng mắt mình không thấy thì như đàn ông phải
tự thú mình đang uống viagara”.
Thế là trắng trở thành biểu tượng đa nghĩa, “tuôn ra những là Tảng
băng trôi với Hôn
lễ trắng, Góa phụ trắng, Hai bàn tay trắng, Cuộc tình màu trắng...
Những bức tranh lần lượt đều có tên. Có bức vài ba cái tên. Thêm Giao
hưởng trắng, Khói trắng, Những cuộc tình màu trắng. Nhiều
trắng quá. Giả sử mở một cuộc triển lãm, tên triển lãm sẽ là Trắng. Một
chữ thôi”. Trong không gian bị tẩy trắng đó khúc xạ nhiều sắc màu cuộc
sống. Phì đại, lấn chồng.
Trong vô vàn mảnh lộn xộn đó, trắng (vô hình
vô dáng vô màu) hiện diện xuyên khắp, như một ký hiệu đa bội, gắn kết
các mảnh, các mã văn hóa. “Trắng. Tổng hợp của tất thảy các màu trên thế
gian này. Là màu của mọi màu. Là ánh sáng của mọi ánh sáng. Cảm xúc của
mọi cảm xúc. Lời của mọi lời. Vua của màu sắc. Vua của thị giác. Vua của
cảm giác. Vua của ngôn ngữ”.
Thật
bất ngờ lẫn trong những bức tranh trắng đa nghĩa là bức họa Chân dung
bác sĩ Gachet hóa trắng “trống trơn trống rỗng trống vắng”. Nhưng
những gì là chân giá trị vẫn tồn tại. Ký hiệu hình vú đã nói lên tất cả:
“Một vết rách hình chữ V nằm ngang. Chính xác nó là thế này: >. Vết rách
hình vú. Breast-shaped”. Đây là dấu hiệu của bức tranh thật (khi che
chắn chuồng gà bức tranh bị một vết rách) từ một góc nhìn nó trở thành
một ký hiệu thẩm mỹ, hủy diệt và tái tạo. “Nó đấy. Nó kia. Nó hiển hiện
và bảo rằng tôi đây. Tôi đây”. Hơn ba trăm trang tác phẩm với ngổn ngang
bi hài kịch khép lại bằng ký hiệu vết vá hình vú, tại thời điểm kết thúc
một cuộc truy lùng. Dẫu bức tranh có bị trắng hóa thì
Breast-shaped vẫn còn đó như một giá trị đích thực. Không gì xóa được.
Đốt. Bôi trắng. Bằng mọi cách, tranh Van Gogh vẫn nhàu-nhĩ-nguyên-vẹn. “Thế
này: >”.
Tạp chí Nhà văn và tác phẩm 4-2020
--- ---
Tranh Van Gogh mua để đốt,
tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, NXB Trẻ. |