NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG
– MỐI GIAO DUYÊN
Lê Thị Hoài Phương
Năm nay, giới
sân khấu Việt Nam kỷ niệm một sự kiện rất có ý nghĩa: nghệ thuật sân
khấu Cải lương tròn 100 năm tuổi (1918 – 2018).
Trong đại gia đình
sân khấu Việt Nam, nghệ thuật Cải lương có một vai trò khá đặc biệt. Về
tuổi đời, nghệ thuật Cải lương không có bề dày như Tuồng và Chèo, là hai
loại hình sân khấu cũng thuộc dòng sân khấu kịch hát dân tộc như Cải
lương. Tuy nhiên, với quá trình hình thành và phát triển đến nay tròn
một thế kỷ, Cải lương là loại hình nghệ thuật sân khấu có sức lan toả
mạnh mẽ; nó không chỉ được đại đa số người dân ở Nam bộ, mảnh đất đã sản
sinh và nuôi dưỡng nó, mê say và gắn bó trong đời sống thường nhật, mà
còn nhanh chóng chiếm được tình cảm của đông đảo nhân dân trên mọi miền
đất nước ngay sau khi ra đời.
Riêng với thủ đô Hà
Nội, Cải lương đã có mặt rất sớm, chẳng bao lâu sau khi nó thành hình ở
Nam Bộ, và lập tức được các nghệ sỹ miền Bắc tiếp nhận, nhanh chóng trở
thành một loại hình nghệ thuật sân khấu mới ngày càng ăn sâu bám rễ trên
đất Hà thành. Và ai có thể ngờ rằng, hơn 20 năm sau, Công ty Sân khấu
Kim Chung – công ty mang tên của “Đệ nhất danh ca Bắc Hà” lại làm nên sự
nghiệp lớn trên đất Sài thành, không chỉ là sân khấu Cải lương thu hút
đông đảo khán giả từ thành thị đến nông thôn ở miền Nam, mà còn là nơi
đã phát hiện, đào tạo và làm nên tên tuổi của nhiều ngôi sao Cải lương
Nam Bộ.
Trải qua bao thăng
trầm của lịch sử đất nước cũng như những bước lên xuống của sân khấu dân
tộc, nghệ thuật Cải lương đã là chiếc cầu nối, là mối giao duyên sâu đậm
giữa các nghệ sỹ Cải lương và công chúng thưởng thức của hai miền Nam -
Bắc, và nhìn rộng ra, là sự giao hòa văn hóa của hai miền ở hai đầu đất
nước. Vai trò đó, không dễ gì nghệ thuật nào cũng có được.
Thử lấy nghệ thuật
Tuồng (hát Bội) làm ví dụ. Với bề dày lịch sử hình thành và phát triển
dễ đến trên 10 thế kỷ (từ thời Đinh, Lê, thời Lý - Trần), Tuồng được xem
là loại hình sân khấu truyền thống lâu đời nhất của chúng ta. Về lịch sử
phát triển của nghệ thuật Tuồng cũng như về đặc trưng nghệ thuật Tuồng
thì đã có khá nhiều công trình nghiên cứu công phu, tuy nhiên hầu như
chưa có nhà nghiên cứu sân khấu nào đi sâu nghiên cứu và hệ thống lại
những yếu tố giống và khác nhau giữa các “dòng” Tuồng Bắc, Trung, Nam,
mặc dù nhiều người biết rằng giữa ba dòng Tuồng ấy có nhiều điểm tương
đồng và dị biệt trong phong cách nghệ thuật, nhất là trong nghệ thuật
biểu diễn của diễn viên. Cho đến hiện nay, sự khác biệt giữa ba dòng
Tuồng vẫn được giới chuyên môn, các nghệ sỹ mặc nhiên công nhận, coi đó
như những điểm độc đáo riêng của nghệ thuật Tuồng ở từng vùng miền.
Lại lấy nghệ thuật Chèo để so sánh xem sao. Ai cũng biết rằng nghệ thuật
Chèo là “đặc sản” của vùng châu thổ Bắc Bộ (tương tự, nghệ thuật Cải
Lương là sản phẩm của vùng sông nước Nam Bộ). Chèo cũng được coi là một
loại hình sân khấu truyền thống có lịch sử lâu đời và có nghệ thuật độc
đáo. Tuy nhiên, xét về tính “phổ biến” của loại hình sân khấu này thì
hình như không có được sự hiện diện rộng rãi như Tuồng, càng không thể
như Cải lương. Bằng chứng là cho đến nay nghệ thuật Chèo vẫn chỉ sống
trên đất Bắc, ở Nam Trung bộ và Nam bộ không có một đoàn Chèo nào, cũng
không có diễn viên nào của các vùng miền này lại theo đuổi nghề diễn
viên Chèo (loại trừ có thể có nghệ sỹ Chèo vốn gốc gác, quê hương ở các
vùng miền này). Chỉ sau khi đất nước thống nhất, một số đoàn Chèo của
miền Bắc lưu diễn vào miền trong, thì người dân Nam mới được thưởng thức
nghệ thuật Chèo, và cũng chỉ dừng lại ở mức độ “xem cho biết”, còn các
đoàn Chèo thì diễn xong lại trở ra Bắc, chứ không có đoàn nào hay nghệ
sỹ nào “trụ” lại làm ăn lâu dài ở miền Nam. Thực tế này không phải là
“thước đo” để cho rằng vì nghệ thuật Chèo không hay, không hấp dẫn nên
không chinh phục được khán giả miền Nam, mà theo tôi, bước đầu có thể
giải thích rằng vì nó quá khu biệt, là một thứ sản phẩm nghệ thuật đậm
đặc chất văn hoá đồng bằng Bắc Bộ, cho nên thưởng thức nó là một chuyện,
còn thực hành nó lại là chuyện khác.
Với Cải lương, tình
hình hoàn toàn khác. Chúng ta đều biết rằng quá trình hình thành của Cải
lương diễn ra trên đất Nam Bộ, và đến đầu những năm 20 của thế kỷ XX Cải
lương đã đạt tới một loại hình nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp với sự
mở đầu của gánh hát Thầy Thận ở Sa Đéc, năm 1918, tiếp sau đó là gánh
hát thầy Năm Tú (Châu Văn Tú, ở Mỹ Tho). Lần lượt các gánh khác được lập
ra một cách mau chóng như : Văn Hí Ban ở Chợ Lớn, Tập Ích Ban ở Thốt
Nốt, gánh Nam Đồng Ban với nữ nghệ sĩ Năm Phỉ nổi tiếng, gánh Tái Đồng
Ban ở Mỹ Tho với các nghệ sĩ nổi tiếng như Phùng Há, Năm Châu, Ba Du, và
còn nhiều gánh khác nữa...
Điều đáng nói là Cải lương lan ra miền Trung và miền Bắc rất nhanh
chóng. Có tài liệu cho thấy “Người
đầu tiên giới thiệu nghệ thuật Cải lương trên sân khấu Hà nội là ông
Nguyễn Văn Súng, tự Sáu Súng. Đúng ra, là một gánh xiệc có chen vào giữa
chương trình một vài bài hát cổ nhạc, chưa có tuồng tích rõ ràng. Ít lâu
sau mới có hai gánh Phước Hội và Tân Lập Ban từ Nha Trang ra Hà Nội
trình diễn tại rạp Quảng Lạc » [1].
Từ 1923 đã có một số nhóm học sinh, sinh viên ở Hà Nội yêu thích nghệ
thuật Cải lương tập hợp nhau lại để diễn một số vở như năm 1923, một
nhóm sinh viên trường Luật diễn tuồng « Bội phụ quả báo » của
Phạm Công Bình tại rạp Philharmonique ; năm 1925, một nhóm sinh viên cao
đẳng diễn tuồng « Châu Trần Tiết Nghĩa » của Nguyễn Văn Tệ ; năm
1927 một nhóm phụ nữ ở Hà Nội diễn tuồng « Trang Tử Cổ Bồn » dựa
vào tích xưa... Thời kỳ này các gánh Cải lương từ trong Nam vẫn tiếp tục
thay nhau ra diễn ở Hà Nội, ví dụ như năm 1927, gánh Nghĩa Hiệp Ban ra
Bắc với những tuồng Tàu như « Lã Bố Điêu Thuyền », « Tra Ấn Quách Hòe ».
Chính vì thấy các gánh diễn Cải lương thu hút rất đông khán giả mà các
chủ rạp Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài (vốn là những nơi diễn Tuồng, Chèo) đều
đổi sang thành nơi diễn Cải lương .
Từ năm 1935 tới năm
1941 nhiều gánh hát Cải lương được thành lập ở miền Bắc như Nhật Tân
Ban, Quốc Hoa, Tố Như, Ái Liên, Đức Huy, Nam Hồng, vv… Nhiều gánh vào
Nam biểu diễn và gặt hái được thành công. Ngược lại, một số gánh hát của
miền Nam như An Lạc Ban, Phước Cương, Tân Hí Ban, Trần Đắt, Năm Phỉ,
Phụng Hảo, Thanh Tùng, Năm Châu, Kim Thoa ra Bắc biểu diễn cũng được
khán giả rất mến mộ...
Bấy nhiêu chi tiết
lịch sử đủ cho thấy nghệ thuật Cải lương dù xuất phát từ miền Nam nhưng
rất nhanh chóng chinh phục được công chúng miền Bắc, nhất là ở Hà Nội,
một công chúng có trình độ, không hề “dễ tính” trong thưởng thức văn học
nghệ thuật, đã có Tuồng, Chèo và cả Kịch nói là loại hình sân khấu hoàn
toàn mới mẻ, mới được du nhập vào nước ta gần như đồng thời với sự xuất
hiện của Cải lương trên đất Bắc. Điều này chứng tỏ nghệ thuật Cải lương
có tính “đại chúng”, có khả năng lan tỏa, dễ đi vào lòng người, phù hợp
với tâm lý con người Việt Nam, không phân biệt ở vùng miền nào; về mặt
nghệ thuật, Cải lương vừa kế thừa được một số yếu tố của Tuồng, Chèo,
lại vừa tiếp thu được những yếu tố mới mẻ, hiện đại của nghệ thuật
phương Tây là Kịch nói. Có lẽ vì thế Cải lương được đông đảo quần chúng
ở cả ba miền đón nhận như một xu hướng nghệ thuật sân khấu mới, ra đời
và lan tỏa vào nửa đầu của thế kỷ XX.
Sự giao hòa của Cải lương không chỉ thể hiện ở khán giả thưởng thức, mà
còn ở các nghệ sỹ biểu diễn. Chẳng bao lâu sau khi Cải lương mới tràn ra
Bắc, ở đất Hà thành đã có sân khấu Cải lương của mình, với những nghệ sỹ
Cải lương của Hà Nội ca hay, diễn giỏi chẳng thua kém gì những đào kép
của các gánh hát miền Nam. Một trong những ngôi sao Cải lương miền Bắc
nổi tiếng bấy giờ là cố nghệ sỹ Ái Liên (1918 – 1991). Bà không chỉ là
nữ ca sĩ tiên phong của tân nhạc mà còn là một nghệ sỹ Cải lương tài sắc
đất Bắc nổi tiếng trong thập niên 1930-1940. Năm 1937 bà vào Nam tiếp
tục ca hát. Sau vài năm hoạt động nghệ thuật ở đất Nam, năm 1940 bà trở
ra Bắc và lập đoàn Ái Liên, dàn dựng các vở Cải lương và đi biểu diễn
khắp Đông Dương, gây được tiếng vang lớn… Sau này, bà là một nghệ sỹ
hàng đầu của sân khấu Cải lương ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đã từng là
Trưởng đoàn Cải lương Bắc (nay là Nhà hát Cải lương Việt Nam). Bà đã
được truy tặng danh hiệu
Nghệ sĩ Nhân dân
vào năm
1997.
Nhưng người được nói đến nhiều hơn cả là nghệ sỹ Kim Chung, bởi sự đóng
góp lớn lao của bà và công ty Kim Chung cho sự phát triển của nghệ thuật
sân khấu Việt Nam nói chung, Cải lương miền Nam nói riêng.
Nghệ sĩ Kim Chung
sinh năm 1924, tại Hà Nội. Năm 10 tuổi Kim Chung đã tham gia Ban Đồng Ấu
Nhật Tân, chuyên diễn Tuồng Hồ Quảng của ông bầu Tài Quang. Mới 16 tuổi
Kim Chung đã là đào chính của đoàn Cải Lương Tố Như, nổi tiếng trên sân
khấu đất Bắc, được mệnh danh là “Đệ nhất danh ca Bắc Hà”. Bà kết hôn với
ông Trần Viết Long (được gọi là ông Bầu Long, người Hà Nội, sinh năm
1922), một người cũng nổi tiếng là ông bầu giỏi giang của sân khấu thời
bấy giờ.
Hai vợ chồng bà lập công ty sân khấu mang tên Kim Chung, đi diễn khắp
trong Nam ngoài Bắc. Năm 1954, khi Kim Chung mới 21 tuổi, hai vợ chồng
bà đưa Đoàn Kim Chung (có
mỹ danh là “Tiếng chuông vàng Thủ đô”)
vào Nam, hoạt động Cải lương cho đến năm 1975.
Nhiều người ở Sài Gòn thời đó còn nhớ: Sau một thời gian phải đi lưu
diễn không ổn định,
Đoàn Cải lương Kim
Chung đóng quân ở rạp Olympic (nay là số 97 Nguyễn Thị Minh Khai, quận
1, TP.HCM). Những danh tài xứ Bắc: Kim Chung, Bích Hợp, Ngọc Toàn, Huỳnh
Thái, hề Ba Hội… không chỉ lập tức thu hút được bộ phận công chứng là
dân di cư từ Bắc vào, mà còn nhanh chóng chiếm lĩnh tình cảm khán giả
khi ấy là cả ba miền, những cư dân nhiều nơi đến lập nghiệp tại Sài Gòn
và đã đứng vững trên vùng đất phía Nam, nơi khai sinh nghệ thuật Cải
lương. Một khán giả có tên là Nguyen Thi Nga (Email:
nganguyen4@hotmail.com)
viết: “Đoàn Kim Chung lúc đó sở dĩ có khán giả thì thứ nhứt đúng là dân
di cư ủng hộ, vì với dàn nghệ sĩ mà họ quen tên, biết mặt thì dĩ nhiên
là họ náo nức muốn xem lại. Thứ hai là ông bầu Long rất khôn, đưa toàn
những vở tuồng với cốt truyện nổi tiếng ai cũng gần gủi, ưa thích như
Mạnh Lệ Quân, Lục Vân Tiên, Nhị Độ Mai... được viết và dàn dựng rất công
phu. Hồi đó nhà tôi ở Mỹ Tho, một tỉnh miền Tây, với hầu hết dân chúng
là người miền Nam, vậy mà người đi coi cũng chật rạp Vĩnh Lợi mỗi lần có
đoàn Kim Chung. Nên biết rằng giá mướn rạp Vĩnh Lợi rất mắc chớ không có
rẻ như Viễn Trường. Hồi đó gần như chỉ có Thanh Minh Thanh Nga, Thủ Đô
và Kim Chung dám hát tại rạp Vĩnh Lợi…”
[2]
Trong sự nghiệp nghệ thuật của mình, nghệ sĩ Kim Chung có rất nhiều vai
diễn nổi tiếng, như: Chúc Anh Đài, Điêu Thuyền, Lữ Bố, Mộc Quế Anh, Hoa
Mộc Lan, Thúy Kiều... bà và NSND Phùng Há là hai nữ nghệ sĩ chuyên đóng
vai kép, sáng lập trường phái nữ đóng vai kép thập niên 1950 – 1960.
Có lẽ đóng góp lớn lao nhất cho sân khấu Việt Nam nói chung, sân khấu
Cải Lương nói riêng của cặp vợ chồng “trai tài gái sắc” Trần Viết Long -
Kim Chung là đã sáng lập nên công ty sân khấu Kim Chung hoạt động rất
hiệu quả. Công ty Kim Chung thời đó có đến 7 đoàn hát, vừa diễn thường
trực tại Sài Gòn, vửa đi lưu diễn khắp nơi. Các nghệ sĩ tài danh được
xem là “Thế hệ Vàng” của sân khấu Cải lương như: Lệ Thủy, Minh Vương,
Minh Phụng, Minh Cảnh, Mỹ Châu, Diệu Hiền, Thanh Hải, Thanh Nguyệt...
đều được đào tạo từ 7 đoàn hát thuộc Công ty Kim Chung. Nhiều người đã
gọi Công ty Kim Chung là “bệ phóng” cho nhiều ngôi sao Cải lương “Thế hệ
Vàng” ở miền Nam.
Nói như vậy không có nghĩa là các nghệ sỹ Cải lương người miền Bắc không
gặp phải khó khăn gì khi “hành nghề” trên đất Nam - mảnh đất sản sinh ra
bản Vọng cổ đã ngấm sâu vào máu của người dân Nam Bộ. Theo nhận xét của
nhiều người, các nghệ sỹ người miền Bắc khi ca Cải lương, nhất là ca bản
Vọng cổ, không thể nào thể hiện được cái âm hưởng du dương, mùi mẫn,
cuốn hút hồn người như chất giọng miền Nam được. Hiểu được điều đó, Kim
Chung và các nghệ sỹ trong đoàn đã cố gắng tập luyện để ca được Vọng cổ
với chất giọng miền Nam, và họ đã thành công.
Ngay cả đến bây giờ vẫn có nhiều người cho rằng Cải lương là nghệ thuật
của đất Nam, chỉ có diễn viên người miền Nam mới ca Cải lương hay được.
Sau ngày thống nhất đất nước, đã có nhiều nghệ sỹ Cải lương từ
Bắc vào Nam sinh sống và làm nghề, có một số người đã học diễn và ca Cải
lương theo giọng Nam đến mức điêu luyện, nên cũng được khán giả mến mộ.
Với các nghệ sỹ từ Bắc vào lưu diễn thì phần lớn khán giả miền Nam vẫn
chưa dành tình cảm cho họ. Tuy nhiên, sau này nhiều khán giả sân khấu
Cải lương miền Nam đã dành sự ưu ái đặc biệt cho ngôi sao Cải lương
Thanh Thanh Hiền (vốn là nghệ sỹ của Nhà hát Cải lương Trung ương). Chị
được đánh giá là ca Cải lương giọng Bắc và giọng Nam đều hay. Điều thú
vị là khán giả miền Nam ngưỡng mộ nữ ca sỹ “tài sắc vẹn toàn” này không
đơn giản là vì chị đã ca vọng cổ giọng Nam rất hay cùng các nam ngôi sao
Cải lương miền Nam như Thanh Tuấn, Trọng Hữu, mà điều hấp dẫn ở nữ ca sỹ
là ở chỗ chị đã biết kết hợp được chất giọng Bắc tự nhiên với cách phát
âm của tiếng miền Nam, tạo nên một giọng ca rất riêng, rất đi vào lòng
người. Theo đánh giá của giới chuyên môn cũng như khán giả mộ điệu,
Thanh Thanh Hiền là danh ca Cải lương miền Bắc ngang tài, ngang sức với
các ngôi sao Cải lương miền Nam, xứng đáng là giọng ca vàng của Cải
lương Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XX.
Trong những năm gần đây, Cải lương có xu hướng đi xuống, khán giả đến
với Cải lương ngày càng thưa vắng, ngay cả tại chiếc nôi đã sinh ra nó.
Với sân khấu Cải lương miền Bắc tình hình có vẻ còn khó khăn hơn. Không
ít người đã hỏi: Cải lương Hà Nội còn hay không? Nhưng thật bất ngờ đối
với nghệ sỹ và công chúng ở cả hai miền Nam - Bắc, Cải lương Hà Nội vẫn
sống, vẫn tiếp tục cho ra đời những vở diễn có giá trị nghệ thuật cao. Trong
cuộc thi Tài năng đạo diễn sân khấu tại TP.HCM
(năm 2007),
các đồng nghiệp phía Nam sửng sốt khi xem Cung phi Điểm Bích, Dấu ấn
giao thời của các nghệ sĩ Nhà hát
Cải
lương Việt Nam. Đây cũng là hai vở
Cải
lương được đánh giá cao nhất cuộc thi.
Năm
2008,
sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng, Nhà hát
Cải
lương Hà Nội cũng gây xôn xao với vở Lễ mở xiêm áo, tác phẩm
đầu tay của đạo diễn Trần Quang Hùng.
Tại Hội diễn Sân khấu Cải lương chuyên nghiệp toàn quốc 2009 tại TP. Hồ
Chí Minh, vở Trọn đời trung hiếu với Thăng Long
của Nhà hát Cải lương Việt Nam
được Huy chương Vàng. Đặc biệt, đạo diễn trẻ Hoàng Quỳnh Mai còn
nhận được giải Đạo diễn xuất sắc.
Tất cả những sự kiện này cho thấy nghệ thuật Cải lương vẫn sống trên đất
Hà Nội, các nghệ sỹ miền Bắc vẫn tiếp tục sáng tạo không mệt mỏi cho
nghệ thuật Cải lương tiếp tục phát triển .
Tại Liên hoan Sân khấu các vở diễn lịch sử chào mừng 1000 năm Thăng Long
– Hà Nội, diễn ra tại Hà Nội giữa tháng 8 năm 2010, vở diễn khai mạc
Liên hoan là vở Cải lương Dời đô
(tác giả: Lê Duy Hạnh, chuyển thể Cải lương: Hoàng Song Việt, đạo diễn
Giang Mạnh Hà), do Đoàn Nghệ thuật Cải lương Đồng Nai biểu diễn. Vậy là,
bằng nghệ thuật Cải lương, các nghệ sỹ sân khấu miền Nam đã tái hiện lại
một giai đoạn lịch sử, khi Vua Lý Thái Tổ đã có quyết định sáng suốt dời
Đô từ Hoa Lư về thành Đại La, mở ra thời kỳ phát triển mới trên đất
Thăng Long…
Gần đây nhất, đã xảy ra một sự kiện có ý nghĩa vô cùng đặc biệt đối với
sân khấu Cải lương nói riêng, sân khấu Việt Nam nói chung: nhân dịp
kỷ
niệm 100 năm hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu Cải lương,
vở Cải lương “Thầy Ba Đợi” lần đầu tiên được công diễn tại thành phố Hồ
Chí Minh vào tối 28 tháng 4. Vở diễn “Thầy Ba Đợi” (kịch bản văn học:
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, chuyển thể Cải lương: Hoàng Song Việt và Phạm Văn
Đằng, đạo diễn: NSƯT Triệu Trung
Kiên và Lê Trung Thảo, chỉ đạo nghệ thuật: NSND Trần Ngọc Giàu) kể lại
một giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc ta thời vua Hàm Nghi. Nhân vật
trung tâm của câu chuyện kịch là thầy Ba Đợi, tên thường gọi là Nhạc
quan - Nhạc sư Nguyễn Quang Đại, người có công lớn đối với quá trình
hình thành và phát triển buổi đầu của nghệ thuật Cải lương.
Đây là lần đầu tiên
có một vở Cải lương hội tụ hơn 60 nghệ sĩ Cải lương tài danh của hai
miền Nam - Bắc, trong đó có những tên tuổi quen thuộc như NSƯT Hùng
Minh, NSƯT Thanh Tuấn, NSND Vương Hà, NSƯT Quế Trân, nghệ sĩ Võ Minh
Lâm, v.v... Vở diễn cho thấy sự kết hợp rất ăn ý giữa các nghệ sĩ đến từ
các đơn vị nghệ thuật khác nhau (Nhà hát Cải lương Việt Nam, Nhà hát Cải
lương Trần Hữu Trang, Nhà hát Đài Tiếng nói Việt Nam và Đoàn nghệ thuật
Cải lương Long An), cùng nhau tạo nên những hình tượng nhân vật đẹp đẽ,
sâu sắc, gây xúc động cho người xem.
Vở diễn “Thầy Ba Đợi”
là một dấu ấn đậm nét, thực sự có ý nghĩa trong năm kỷ niệm tròn một thế
kỷ nghệ thuật sân khấu Cải lương ra đời và phát triển.
Tất
cả những gì mà các nghệ sỹ Cải lương trên cả hai miền Nam - Bắc đang
miệt mài sáng tạo, cùng nhau tiếp tục “giữ lửa” cho sân khấu dân tộc
không ngừng tỏa sáng, càng cho thấy sức sống dẻo dai, sức mạnh lan tỏa
của loại hình nghệ thuật sân khấu của đại chúng là Cải lương. Gần một
thế kỷ trước đã vậy, và hôm nay vẫn thế, Cải lương là mối giao duyên
nghệ thuật của các nghệ sỹ cũng như của đông đảo công chúng khán giả Hà
Nội – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Diệu Anh. “ Cải lương và kịch nói trong
bối cảnh Nam bộ”. Văn hóa nghệ thuật, số 7, 1998
2. Trần Bảng. Phát huy truyền thống trong nghệ thuật kịch hát dân tộc –
phấn đấu cho một nền sân khấu hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện
Nghệ thuật, Bộ Văn hóa. 1972
3. Trần Bảng. “Sân khấu Pháp với nghệ thuật kịch hát dân tộc Việt Nam”.
Văn hóa Nghệ thuật, số 11, 1997
4. Hà Văn Cầu. Lịch sử nghệ thuật Chèo. Nxb. Sân khấu. H., 2005
5. Lê
Chức. “ Gốc cội miền Nam – Lá cành đất Bắc”.
Công trình nghiên cứu khoa học đề
tài cấp Bộ về “Sự hình thành và phát triển Cải lương trên đất Bắc
thế kỷ XX”. 2004
6. Trương Bỉnh Tòng .
Nghệ thuật Cải lương những trang sử. Viện Sân khấu, H., 1997.
7. Ngọc Văn. Nghệ
thuật Cải lương trên đất Bắc.
Viện sân khấu, H., 2000
8.
Nhiều tác giả . Lịch sử sân khấu Việt Nam. Tập
1,2. Viện sân khấu, H., 1984
9. Nhiều tác giả. 50 năm sân khấu Việt Nam sáng tạo và phát triển. Nxb.
Sân khấu, 1996.
10. Tuyển tập Tuồng cổ. Nxb. Sân khấu. H., 1997
Websites:
-
http://www.cailuong.org.vn/forum/
[1]
Nguồn: Trần Quang Hải
Website -
http://tranquanghai.info
[2]
Nguồn:
http://www.cailuongvietnam.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=5928
(04/07/2010)
|