Tản mạn
Chữ quốc ngữ tiếng Việt
Lê
Lành
Xưa, chũ nôm chế tác từ chữ Hán chỉ là quốc âm – ký âm tiếng Việt. Sau
đó, la tinh hóa hoàn chỉnh thành chữ quốc ngữ tiếng Việt hiện nay
Đà Nẵng rục rịch đặt tên
phố
Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, vinh danh công ơn la tinh hoá
tiếng Việt thành chữ quốc ngữ Năm
1623, Dòng Tên, một dòng tu công giáo lớn các linh mục học thức trình độ
tiến sĩ ở Tây Ban Nha, đặt cơ sở ba ở danh trấn Thanh Chiêm, thủ phủ
đàng trong chúa Nguyễn, cử cha Francisco
de Pina cải đạo Ky tô cho người Quảng
Nói với người bản địa bằng tiếng mẹ đẻ của họ, họ tin yêu bằng cả tấm
lòng. Thông tuệ, cha F de Pina dùng chữ cái la tinh kí âm tiếng Việt để
học tiếng, để con chiên đọc kinh bổn mỗi ngày.
Đặc
trưng
nổi
bật
tiếng Việt là
thanh điệu,
nảy sinh từ cái hồn tiếng nói dân tộc: “Tiếng
xào xạc gió thổi giữa cau tre. (Câu thơ tám tiếng đủ sáu thanh
điệu)…Tiếng trong trẻo như hồn
dân tộc Việt
“(Lưu Quang Vũ).
Theo ngữ
âm học,
thanh điệu tiếng Việt là sự khác biệt về cao độ
vật lí
(pitch),
chất giong
cảm xúc
(voice quality)
trong
phát âm
các
âm tiết,
giữ chức năng khu biệt ngữ nghĩa
Giàu thanh điệu, tiếng Việt phong phú, âm vang, hay và đẹp là
thế: “Một tiếng vườn rợp bóng lá
cành vươn. Nghe mát lịm ở đâu môi tiếng suối. Tiếng heo may gợi nhớ
những con đường“
(LQV)
Nhưng lại là điều cực khó với người phương Tây. Với lại chữ la tinh
không có dấu thanh. Không nề hà, Francisco
de Pina áp luôn dấu thanh cùng các phụ âm đôi ph, th tiếng Hi Lạp kí âm
hài hoà tiếng Việt: “Như nước gió
không thể nào nắm bắt. Dấu huyền trầm dấu ngã chênh vênh. Dấu hỏi dựng
suốt ngàn đời lửa cháy”(LQV)
Ngày nay, bao phương tịên hiện đại hỗ trợ đắc lực hoc tiếng là thế Thế
mà theo thống kê chính thức, chừng 70 % người phương Tây ngã lòng
hai tháng
đầu học tiếng Việt . vì rào cản thanh điệu .
.
Kế tục, Alexandre de Rhodes A Lịch Sơn Đắc Lộ hệ thống hoá, kiện toàn
thành chữ quốc ngữ, in ấn thành công ở thủ phủ Roma toà thánh công giáo
Từ điển Việt – Bồ - La, sách Phép giảng tám ngày.
Bằng
chữ quốc ngữ, Hồ Dzếnh, người Minh Hương, mẹ là con gái xứ Thanh dô tá
dô hò hò sông Mã, làm thơ chững chạc cổ phong ngũ ngôn, nhưng lai láng
âm điệu dân dã trầm buồn trong ráng Chiều bâng khuâng nỗi nhớ. Thơ là
tiếng, thánh thót thành dòng âm điệu rót vào lòng người.
Thơ
hay ở âm điệu.
Âm
điệu hay chủ
yếu
từ sự sắp xếp hài
hoà các thanh
bằng
không dấu, dấu huyền,
các âm
trắc
dấu sắc,e hỏi, ngã, nặng trong
câu thơ.
Âm
điệu trầm buồn
lai láng ấy được thể hiện sâu lắng bằng 12 thanh
phù bình
không dấu,
phù trầm
dấu huyền trong ba câu đầu 15 tiếng
“Trên
đường về nhớ đầy- Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
“ Rồi ba âm trắc tịnh tiến từ chữ tư câu đầu lên chữ thứ
hai câu hai để đúng đầu câu ba,e
dựng lên giai điệu thướt tha, làm Dương Thiệu Tước không thể không phổ
thành ca khúc trữ tình để đời: Chiều, thơ Hồ Dzếnh
Không chỉ thơ hay, Hồ Dzếnh viết văn chân chất
tiếng Việt trong sáng,
như nghe
thấy
hơi thở
hài hoà âm
điệu,
tiết tấu
các
con
chữ:
“Trời
đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò. Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia
cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ đỗ trong nhà cô lái
đò tốt bụng. Người khách sang
sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi“.
Trải lòng với Thạch Lam đỡ đầu văn chương buổi ban đầu, Hồ Dzếnh chân
tình: Tôi không chỉ yêu mà thực sự trân quí hết mực tiếng Việt mẹ đẻ.
Tình cảm nồng hậu ấy đã neo Hồ Dzếnh trụ vững trên dất mẹ, bất chấp
những thủ đoạn mưu toan bứng bằng được Hồ Dzếnh khỏi đất nước này, vì là
nhà văn tiền chiến, không đi theo kháng chiến, bị khép vào thành phần
phản động. Không còn được làm thơ, viết văn, Hồ Dzếnh sống còm cõi
đến cuối đời
Nhà cầm quyền Đà Nẵng, khốn nỗi, định đặt tên phố Francisco
de Pina, Alexandre
de Rhodes không hẳn từ cái nghĩa tình mà có thể từ tánh xấu đố kị, tị
nạnh. Chả là hai năm trước, người phát kiến mộ hoang Alexandre
de Rhodes lạc lõng bên Ba Tư Iraq quốc giáo đạo Hồi tậnTây Á. Rồi một
đoàn đông đảo các trí thức, nghệ sĩ rộn ràng
sang tận nơi tảo mộ, đặt bia tri ân, gây tiếng vang lớn văn hoá
quốc tế…Tịnh không một ai người Quảng.
Không mảy may đắn đo, nhà cầm quyền Đã Nẵng
cho ngưng ngang xương dự án đặt tên phố các cố đạo phương Tây, khi 11
ông trí giả ngoài Huế om sòm phản kháng. Nỏ mổm nhất là mệ Huế học sử
gia Nguyễn Đắc Xuân nhảy núi trắng trợn vu cáo Alexandre
de Rhodes bày ra chữ quốc ngữ để bắc cầu cho thực dân Pháp đưa lính sang
chiếm nước ta làm thuộc địa !?
Cứ
như Đà Nẵng
không một cơ duyên với một tác gia chữ quốc ngữ,
từng ăn dầm ở dề trên đất
Quảng. Nghìn năm văn vật Thăng
Long, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng xin hiến tượng chân dung Alexandre de
Rhode đặt trên hoa viên nho nhỏ bên hông đền Bà Kiệu, đối diện tháp Tả
thanh thiên bên hồ Hoàn kiếm, nơi Hội truyền bá quốc ngữ năm 1941 dựng
bia tri ân Alexandre de Rhodes, nhưng sau 1945, bị hốt đi mất tiêu. Nghệ
sĩ tạo hình Phạm Văn Hạng
thổ lộ đây là ước nguyện của ông Sáu Dân Võ Văn Kiệt biểu thị hàm ơn,e
vinh danh người có công, bày tỏ sự quí trọng văn hóa, khoa học. Vậy mà
Hà nội ngó lơ, không một lời hồi đáp tử tế người Tràng An
Đâu vô cớ. Đầu thập niên 50 thế kĩ XX, Ban văn sử địa của đảng cộng sản
Động Dương rút vào bí mật trên rừng xanh Việt Bắc đã chủ trương dựng
điều đả kịch A. de Rhodes thế kỉ XVII đề xuất Pháp thế kỉ XIX đưa quân
chinh phục cả phương Đông, mang
về thần phục chúa !? Sau
hiệp định Genève 54, Ban văn sử địa về Hà nội, ra chỉ thị cấm tuyệt đối
lưu hành sách sử chữ quốc ngữ Việt Nam sử lược
của Trần Trọng Kim, xuất băn
1919,e ghi chính xác, rõ ràng: Tàu dấy
binh xâm lăng nươc ta lần cuối cùng là thế kỉ XIX . Từ Hi thái hậu xuống
chiếu
Phùng Tử Tài thống
lĩnh quân Thanh cùng tàn quân Thái Bình thiên quốc Giặc cờ đen đánh
chiếm tư tung Bắc Kỳ. Quân Pháp đánh bại cuộc xâm lăng ấy, mở đường cho
Việt nam thoát khỏi Hán học hủ lậu,e tiếp cận văn minh thế giới tự do,
bình đẳng, bác ái
Bịa đặt vu oan giá họạ không lọt tai ai, Nguyễn Đắc Xuân công khai não
trạng nô dịch, nhắm vào tâm lí hủ bại một số tinh hoa còn nặng lòng Hán
học: “Nước ta hàng ngàn năm trong vùng ảnh
hưởng sâu đậm chữ Hán – Hán học
Chữ quốc ngữ cậy thế thực dân Pháp đẩy chữ Hán vào quá khứ quên
lãng, xoá bỏ Hán học uyên thâm, làm đứt mach
văn chương cổ xưa sân Trình cửa Khổng
! Truyện Kiều chữ nôm của Nguyễn
Du dịch ra chữ quốc ngữ mất
hết ý, mất hết nghĩa, mất cả hồn dân tộc.” ! ? “Ngu chi mà ngu rứa “,
truyện Kiều chữ nôm hay chữ quốc ngữ đều là tiếng Việt, dịch là
dịch thế nào, dịch cái chi, dịch ra sao !
Bỏ chữ Hán là bỏ tư duy tổng hợp áp đặt hủ lậu,e chuyển sang chữ quốc
ngữ là chuyển sang tư duy
phân tích tiếp cận tiến bộ, văn minh
Thập niên ba mươi thế kỉ
trước, người con “minh mẫn
nhất xứ Quảng “, Phan Châu
Trinh chủ trương cứu nước
không bằng bạo lực mà bằng khai phóng nâng dân trí, mất nước là mất văn
hoá, mất hệ qui chiếu là người Việt.
Phan Chu Trinh cùng Lương
Văn Can mở trường Đông Kinh nghiã thục năm 1905. hô hào tân học, bỏ Hán
học, học chữ quốc ngữ
Ông nêu tôn chi: “Giành độc lập không chỉ là
đánh đuổi quân xâm lăng khỏi bờ cõi mà còn là tẩy sạch não trạng
nô lệ Hán học “.
1945,
triết gia
Lý Đông A,
16 tuổi, còn mang tên cha sinh mẹ đẻ Nguyễn Hữu Thanh, hầu hạ
Phan Bội Châu suốt thời gian bị thực dân an trí ở Huế, giác ngộ
Duy Tân, cảnh báo:”
Bọn nô tài chưa bao giờ từ bỏ âm mưu
phá chữ quốc ngữ, khôi phục chữ Hán
!
2020, ông nghị gật chuyên bưng bô, nâng bi Dương Trung Quốc chớp luôn
ý tưởng ngông cuồng một tiến sĩ giấy đòi dạy chữ Hán ngay bậc
tiểu học, tâng lên quốc hội định kiến sai lầm tiếng Viêt 70% từ
Hán của ông tây đa năng A. G.
Haudricourt
Hoang tưởng, láo xược hết chỗ nói !
Sao lại cưỡng ép quái dị chữ Hán tiếng Việt thành từ Hán - Việt
!? Chữ chỉ là vật thay thế, kí âm.
Không một tên Tàu giỏi đến mấy có
thể đọc hiểu chữ nôm của ta, cho dù chữ nôm là phó bản
chữ Hán “
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng
nói,… Óng tre ngà mịn mang như tơ “ (LQV)
Ngoài ra, lai tạp đến 70% tiếng
Hán, không bị Hán hoá thì cũng suy thoái thành tử ngữ, đâu còn “Tiếng
Việt rung rinh nhịp đập
trái tim. Như tiếng sáo như
dây đàn mau nhỏ …
Ai ở phía bên kia cầm súng
khác,.Cùng tôi chung tiếng Việt quay về (LQV)
1911, trong buổi tiệc chiêu đãi, thủ tường Nhật Tsuyoshi Inukai
té tát Tôn Dật Tiên nói bậy bạ người Việt Nam có căn tính nô lệ,
để người Hán đô hộ nghìn năm, giờ thực dân Pháp…:
“Người Việt Nam duy nhất trong nhóm các sắc tộc Bách Việt chống,
kháng thành công quá trình Hán hoá thâm độc, có chữ viết la tinh tân
tiến, rồi sẽ giành được độc lập, tự do !
Đương nhiên. như mọi ngôn ngữ trên thế giới, tiếng Việt cũng du nhập
tiếng nước ngoài để chuyển tải
tư tưởng, văn hoá, kiến văn. Nhưng Việt hoá đến cùng, theo các
qui tắc ngôn ngũ học,e
thành tiếng ta “Chung tiếng làng
tiếng nước
của riêng tôi “(LQV)
Âm vi / p / chỉ đứng cuối
âm tiết type – típ, típ 1 tiểu đường,e đứng đầu âm tiết thay bằng
b: pompe
– bơm,
e bơm chân không hoặc cặp
vơi h – phụ âm đôi ph:
savon – xà phòng ngoài
Bắc,
xà bông trong
Nam
Lợi thế chữ quốc ngũ cùng văn tự la tinh, chuyển âm thật êm, ngọt:
automobile: ô tô, caoutchuc
- cao su, logic – lô gích học, chuyển ý phân tích ngọn ngành téléphone -
điện thoại,e république – nền cộng hòa, logiciel- phần mềm
Tàu cũng du nhập, phiên âm
điện thoại téléphone – đức
luật phong, bệnh thổ tả chlorera
- hồ liệt la…không ra sao. Cái tệ của người Tàu
không phát âm được các
phụ âm đầu hữu thanh b, d:
Xi Jin - ping Tập Cận
Bình Mao Tse - tung Mao
Trạch Đông. Dịch ý xã hội social là quần, kinh tế economie là lí tài…
bất ổn Chữ Hán tư duy tổng
hợp tượng ý, áp đặt nghĩa.. Cuối cùng phải
sao chép y chang tiếng Nhật
du nhập tiếng phươngTây. Sau này, Mao Trạch Đông làm chúa, bằng
quyền lực tối cao ra sức
thúc ép la tinh hóa tiếng Tàu, nhưng
đâu có được, phải thoả hiệp giản thể chữ Hán ấm ớ, đứt mạch văn
hoá cổ
Ông trùm tuyên huấn miền nam khét tiếng Trần Bạch Đẳng đăng đàn, chỉ
khẩu hiệu trên sân khấu hội thảo chuyên đề ngôn ngữ, dõng dạc: Từ Hán
Việt ! Bên dưới, nhà ngôn
ngữ học cao ngạo Cao Xuân
Hạo bật đứng dậy: “Cái thằng dốt nát nhất trần đời cái gì cũng xía vô !.
Rôi cắp đít ra về. bỏ hội
thảo
Thuật ngữ dị dạng
“đầu ngô mình sở“ từ Hán Việt
xuất hiện ở Hà nội
đầu thập niên 60 thế ki
trước. Tiếng Việt có một loạt từ vựng cùng cú pháp chủ yếu phổ biến nơi
triều chính, khoa bảng, văn chương bác học,
e ít được dùng trong sinh hoạt giao tiếp dân gian hằng ngày, không bị
mài mòn, trở nên khác biệt, sang trọng lên: Đức ông quận công phu quân
nữ hoàng Anh quốc chúc mừng đồng bào Tô
Cách
Lan
bị cúm Vũ Hán Trung cộng thập tử nhất sinh. bình phục, hồi hương an
khang -
chứ không bỗ bã “chồng vua đàn bà nước
Anh … “, Nhưng vẫn
cứ là tiếng Việt trong sáng, do cha ông sáng tạo, trau
chuốt
thành di sản, cho muôn đời sau tự tin làm chủ,
sử dụng nhuần nhuyễn,
e phổ cập thành công cụ tư duy, phương tiện
truyền bá tư tưởng, giao
lưu quốc tế
Saigon thời trước gọi là cổ văn, giảng dạy kĩ lường ở bậc trung học,
chuyên khoa. Không tréo ngoe yếu điểm là điểm yếu, bao biện là biện
minh, khuất tất là mờ ám..
bác sĩ ghi biên bản “tử
vong ngoại viện“
công an điều tra ngơ ngác, phải giảng giải mới hiểu “chết bên ngoài bệnh
viện, chết trước khi đưa
vào nhà thương cứu chữa “
Chạy được ngân sách 9.000 tỉ
đồng cho dự án dạy và học ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng
Pháp bậc phổ thông,e bộ trưởng giáo dục nói nhịu thêm tiếng Trung
chữ Hán,
e
cho tròn16 chữ vàng, 4 tốt
Đương thời thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt có
chuyến công du sang Pháp. Ông nghe quân sư đi gặp Hoàng Xuân Hãn. Bảo vệ
thành công luận án thạc si toán, Hoàng Xuân Hãn về nước dạy học trường
Bưởi, soạn Danh từ khoa hoc, tham
gia hội Truyền bá quốc ngữ, bày lối học tắt đánh vần “i tờ “, xoá nhanh
nạn mù chữ trong dân. Làm bộ trưởng giáo dục chính phủ Trần Trọng Kim
bốn tháng ngắn ngủi năm 1945. Hoàng Xuân Hãn quyết định
dạy và học từ tiểu học đến
đại học hoàn toàn bằng
tiếng Việt cho đến nay Rời
chính trường năm 1945, Hoàng Xuân Hãn trùm mềm nghiên cứu chữ nôm,e chế
tác từ chữ Hán luôm thuộm tượng ý, tượng hình, tượng âm, áp nghĩa à uôm,
không theo một qui tắc nào, cứ phải phỏng đoán chữ Tác thành chữ Tộ. Chữ
nôm ấy cột chết tri tuệ Việt bạc nhược
trong Hán học tăm tối. . Chữ quốc ngữ ra đời, giải cứu dân tộc
khỏi vòng kim cô Hán học
tắc tị, thoát Trung. Chữ quốc ngữ khai sinh
báo chí, Gia Định báo
năm 1885, sách
truyện Thày Lozaro phiền
giữa Saigon, dần dà trở thành dòng văn xuôi tự sự, diễn giải, biện
luận, đảm đang chức năng khai phóng, nâng dân trí, chấn dân khí.
Chữ quốc ngữ kịp thời mở mắt thực dân Pháp thấy tiếng Việt là một ngôn
ngữ
ngang tầm
tiếng Pháp về khả năng
diễn giải
mọi ngành,
mọi
trình
độ tri thức
mà bãi bỏ ý tưởng thực dân đưa tiếng Pháp làm
ngôn ngữ chính ở Đông Dương. như ở các thuộc địa Phi
châu thuộc Pháp. Hiện nay, 29
quốc gia độc lập ở châu Phi vẫn dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính –
khối Pháp ngữ Francophone
Chỉ mấy ngày sau ông Võ Văn Kiệt về nước, biển
đề tên phố Alexandre de Rhodes rực rỡ
màu sơn mới được khôi phục trên con phố cận kề dinh Đôc
Lập
trước 75, nay là Thống Nhất. Từ đấy, tết đến, một đoạn đường Duy Tân rợp
bóng me xanh ngày xưa, Phạm Ngọc Thạch ngày nay, thành phố ông đồ cho
chữ, nhưng là chữ quốc ngữ viết cách điệu bay bổng, hoa mĩ. Không như
chợ bán toàn chữ Hán mặt tiền Văn miếu
Quốc
tử giám Hà
Nội.
Kì một nỗi, rất phổ biến chữ nhẫn - chữ
đao trên đè chết chữ tâm bên dưới.
Năm mới, nhà ông đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng trang hoàng một
chữ “Nhẫn“
thư hoạ mực tàu, trên giấy hồng điều. Sao lại
nhẫn - nhẫn nhục, nhẫn nhục
giặc Tàu lấn biên cương, cướp đảo. ép kinh tế- chánh trị đủ đường
ư!?
Tết âm lịch mang danh con
chuột 2020, Trung tâm lưu trữ quốc gia trống chiêng khai trương triển
lãm 100 phiên bản châu phê bút tich chữ Hán
của các vua triều Nguyễn. Chế độ này đâu ưa phong kiến nhà
Nguyễn. Hiển nhiên triển lãm công khai
phô trương, tâng bốc chữ Hán, như một tín hiệu khôi phục Hán học
chết tiệt. Vắng tanh, chẳng ma nào vào, một hai ngày sau tắt điện, đóng
cửa im ỉm
Khinh khi tiếng mẹ đẻ, ông nhà thơ mang lon
đại tá Nguyễn Hữu Thỉnh ngồi ì ghế chủ tịch hội nhà văn hàng chục năm
hoắng lên làm sang. Bắt
dịch khẩu hiệu ngày thơ Việt Nam lần thứ XVII năm 2019
“Non sông trên vai“
sang tiếng Anh giả cầy
“Mountains
and rivers on the shoulder”.
Thế là lòi cái đuôi dốt tiếng Việt quá chừng.
Từ kép đẳng lập “non sông“
hoán dụ thành tổ quốc, quê
hương.
Một học trò phổ thông có học tiếng Anh cũng dễ dàng dịch đúng:
Homeland,
motherland. Hơn nữa, đây là khẩu hiệu của các nhà thơ,
e “trên vai“
không thể trung tính the shoulder mà
phải rõ ràng trên vai thi sĩ đã thành chiến sĩ:
our shoulder.
Không thể nào
khác.
Tiếng Việt nay oằn lưng cõng chức năng phi ngôn ngữ: tuyên truyền bỉ ổi,
tuyên truyền xảo trá. Ông phó chủ
tịch thành phố Hồ Chí Minh,
e Võ Văn Hoan ngang nhiên dẫn câu hát
“phố bỗng là dòng sông uốn quanh”
nhâng nháo ca tụng:
“Ngập của thành phố phần nào là một hình ảnh
rất đẹp“
Nhà
thơ Lưu Quang Vũ kêu than
“Tiếng
Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình”
Dịch
giả Dương Tường nhờ nhà xuất bản Nhã Nam xuất bản không tiền tác
quyền để phổ biến quốc tế Truyện Kiêu trong bản diễn giải
Dương Tường
- tiếng Anh “Kieu in
Duong Tuong’s version “ để trả nợ tiếng Việt đã nuôi dưỡng ông thành
người,
e đáp lại lớp trẻ ngày nay trên đài truyền hình quốc gia Vờ Tờ Vờ làm
mất đi sự trong sáng tiếng Việt
nhiều quá.
Tiếng
Việt cùng chữ quốc ngữ trải qua một quá trình dài lâu, khắc nghiệt những
thử thách cam go để hình thành, phát triển, trưởng thành thành một bộ
phận cơ hữu tinh thần, trí tuệ dân tộc, ngày một trong sáng, hay đẹp,
thăng hoa cùng dân trí được khai phóng. Song cũng có khi tạm thời mất
thăng bằng, trong sáng,e ngọng nghịu, què quặt, thui chột vì sự xử sự
thô bạo, kém trí tuệ của giới cầm quyền bá đạo
Cách nay hơn nửa thế kỉ, nhạc sĩ Phạm Duy hát bài Tình ca: Tiếng nước tôi bốn nghìn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi.
Tác giả gửi cho
viet-studies ngày 19-8-20
|