Về Truyện Dài Kỳ- Một Chuyên Mục Nhật Báo Trước 75
Lê Văn Nghĩa
Lâu lắm rồi, chữ phơi-dơ-tông (feuilleton- Truyện dài kỳ) không còn xuất
hiện trên các trang báo Việt Nam. Nếu như các chuyên mục với những thể
loại điều tra, phóng sự, bình
luận, viết tin…được dạy, nghiên cứu, đề tài luận văn thạc sĩ, tiến sĩ
thì phơi-dơ-tông-truyện dài kỳ (TDK) không được nhắc đến và nhìn nhận
như một chuyên mục đã từng tồn tại trên báo chí VN từ xa xưa và khoảng
năm 1987 – sau ‘Ván Bài Lật
Ngửa’ trên báo Tuổi Trẻ, chuyên mục này đã biến mất.Báo chí hiện nay
không còn chuyên mục TDK nữa!
Tạm thời định nghĩa phơi-dơ-tông là Truyện Dài kỳ, chưa in thành sách,
được đăng hàng ngày, hoặc hàng tuần trên báo, hay tạp chí đăng một
truyện dài kỳ về phong tục ở Tây Ban Nha. Thật đáng tiếc, truyện dài kỳ
nầy chỉ đăng được 4 kỳ thì ‘ngủm củ tỏi’ vì bạn đọc chê không hấp dẫn.
Năm sau, đại văn hào Balzac cũng thất bại khi đăng truyện ‘Vielle fille’
(Cô Gái Già). Nhưng vẫn hơn đồng nghiệp đi trước đến 11 kỳ. Cũng cùng lý
do: Độc giả đòi hỏi truyện phải có tính chất giải trí, hấp dẫn. Phải
chi, Balzac đặt tên truyện là ‘Cô gái trẻ’ thì có thể ngon lành rồi.
Có lẽ, thể loại nầy còn hơi thở là nhờ công của tờ báo ‘Journal
des Debals’ đăng bộ truyện của Eugène Sue ‘ Les Mystères de Paris’
(Những bí mật của Paris-truyện này đã được xuất bản ở VN). Trong thời
gian đăng truyện nầy thì số lượng báo tăng lên vùn vụt. Cạnh tranh, tờ
‘Constitutinnel’ cũng mua bộ truyện ‘Le Juif errant’ (tạm dịch Người Do
Thái Lang Thang) cũng của tác giả nầy. Báo đang in ra có 3000 đã vọt lên
40.000 số mỗi ngày.
Sau nầy
Alexandre Dumas, tác giả những bộ tiểu thuyết phơi-ơ-tông điển hình Les
Trois Mousquetaires, Le Comte de Monte-Cristo.
Được xem là một trong những người viết truyện dài kỳ nổi tiếng nhất của
Pháp.
TRUYỆN DÀI KỲ THỜI TRƯỚC 75
Người Việt Nam
học cách làm báo từ người Pháp vì vậy những tờ báo VN thời kỳ đầu cũng
đã có chuyên mục truyện dài kỳ để …bán báo. Theo nhà văn Vũ Bằng
trong bài ‘Báo chí Bắc Việt 34-54 – Văn học(Sài gòn) :’
Phong
hóa được hoan nghênh vì báo nầy đã đưa ra một cái mới là tiểu thuyết dài
và tiểu thuyết ngắn có tính chất tư sản ( phù hợp với người dân lúc
đó)’.
Theo ông Lại Nguyên Ân thì thời kỳ rực
rỡ nhất của báo chí tiếng Việt thời kỳ từ năm 1913 – 1914 đến 1945 là
báo văn hóa, văn nghệ, văn chương. Nền văn chương hiện đại của tiếng
Việt ra đời và tựa một phần trên báo chí. Phong trào thơ mới cũng được
phát động, cổ động trên báo chí. Các tác phẩm được công bố trên báo chí
trước khi xuất bản thành các tập sách.
Ở một góc nhìn khác,
dịch giả Thúy Toàn cho rằng không chỉ có thơ, văn mà cả văn học dịch
cũng đã xuất hiện nhờ báo chí. Dịch giả Thúy Toàn dẫn chứng: "Tờ Tiếng
dân ra đời năm 1927 ở Huế, thì ngay số đầu tiên đã đăng tải bản dịch
Phục sinh của Hoa Trung. Bản dịch Phục Sinh được đăng tải liên tiếp từ
số đầu tiên kéo dài tới số thứ 86".
Trong khoảng thời gian từ 1950 đến 54,
trên các báo Liên Hiệp đã xuất hiện cây bút Hoàng Ly với ‘Tiếng Địch
Trên Sông’, ‘
Hận Loa Thành’,
‘Kỹ
Nữ Sông Kỳ Cùng’
Nguyễn Quỳnh viết
một
loạt truyện dã sử trên báo Tia Sáng, còn Bạch Diện là tác giả nhiều bộ
dã sử kéo dài mấy năm liền trên các báo Liên Hiệp, Giang Sơn…
Ở Nam Kỳ,
làng báo Sài
Gòn cũng đã đọc TDK khoảng cuối những năm 1920. Từ năm 1924, Phú Đức đã
xuất hiện ‘Câu Chuyện Canh Trường’ trên báo ‘Trung Lập’ và sau đó là
‘Căn Nhà Bí Mật’. Bên báo ‘Công Luận’ thì có Nam Đình. Năm 1929, Hồ Biểu
Chánh đã xuất hiện ‘Vì Nghĩa Hay Vì Tình’ hàng tuần trên Phụ Nữ Tân Văn
của ông Nguyễn Đức Nhuận.
Từ sau năm 1945 trong làng báo Sài Gòn
, TDK
giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành một tờ báo.
Khi xuất bản một tờ báo là, các chủ báo, nhà quản lý phải nghĩ ngay đến
các tác giả viết TDK ăn khách. Theo nhà văn Vũ Hạnh ‘…đặc
biệt là tiểu thuyết trang trong (nhật báo)
đủ các thể loại’-( Báo chí hôm
nay 1954-65-Bách Khoa số 217 ngày 15.1.66) . Cũng trong tạp chí Bách
Khoa số nầy nhà văn Võ Phiến nhận định ‘…chiếm
nhiều chỗ nhất là những truyện để giải trí…’.
Tại sao các nhật báo Sài Gòn đều ‘sống
chết’ với chuyên mục nầy. Lý do đơn giàn là TDK là một chuyên mục hấp
dẫn với những người bỏ tiền ra mua báo. Một tờ báo có thể có đến bốn TDK
đủ các thể loại như tâm lý xã hội, truyện trinh thám, truyện ma, võ hiệp
kỳ tình, truyện Tàu…để đáp ứng nhu cầu của đủ thể loại độc giả. Một tờ
báo nào đó chỉ cần có một TDK
hay, ăn khách,
sẽ
làm cho tờ báo
đó
sống vững,
sống mạnh khỏe-chủ báo chắc chắn có xe hơi nhà lầu.
Đó là trường hợp
của các
tờ nhật báo
Sài gòn mới của bà Bút Trà với TDK của Bà Tùng Long,
Thần Chung với tiểu thuyết Cô Bạch Mai do chính Chủ nhiệm Nam Đình viết,
những năm 1951, 1952.
Ngay cả những tờ báo có tiếng về ‘lập trường
chính trị’ như ‘ Sống’, Chu Tử cũng phải mời bà Tùng Long viết TDK. Hoặc
tờ ‘Xây Dựng’ của linh mục Nguyễn Quang Lãm thì phải nuôi Duyên Anh với
‘Điệu Ru Nước Mắt’-một truyện du đãng thời thượng lúc đó được cho là
viết dựa theo cuộc đời trùm du đãng Đại Ca Thay.
Trong ‘Hồi Ký Bà Tùng Long’ có ghi lại
bài viết của ký giả Trần Quân của tờ Times Sài gòn ‘…cái
gì trong tờ báo đã khiến cho bà (độc giả) quan tâm chiếu cố đến vậy, bà
sẽ nói với bạn không một chút ngần ngại là không phải những chuyện tranh
đấu không ngừng của Lumumba, hay cuộc tranh chấp không bao giờ chấm dứt
của Phoumi và Phouma, và cũng không phải sự ra đời của một hoàng nam kế
vị ngai vàng của xứ Iran, mà chỉ là tiểu thuyết ra hằng ngày trên báo
của một cây bút nữ được cả nước nghe tên, được cả nước đọc với bút hiệu
Bà Tùng Long… ‘
Người đọc TDK
lúc đó là ai? Vẫn theo nhận định của Trần Quân ‘
Độc giả của bà (Tùng Long)
thuộc nhiều thành phần khác
nhau, phần đông ở giới lao động, ít học, những người nội trợ muốn tìm
cái chìa khóa hạnh phúc, những kẻ không có phương tiện để đến trường
nghe lời giảng dạy của các thầy giáo, cả những quân nhân ở những vùng xa
xôi hay những thủy thủ thiếu mái ấm gia đình’. Đồng tình theo nhận
định nầy, tác giả viết TDK
chuyên nghiệp Gã Thâm viết ‘Độc
giả tiểu thuyết phơi-ơ-tông những năm xưa ở Sài Gòn đa phần là phụ nữ.
Ngoài việc mỗi ngày đi chợ, thường là ra khỏi nhà vài bước là có chợ đầu
xóm bán đủ thức ăn, ngoài việc nấu ăn, trông con, những phụ nữ ấy có
nhiều thì giờ nhàn rỗi, họ đọc tiểu thuyết đăng từng ngày trong các nhật
báo. Họ là lớp độc giả chính, trung thành của tiểu thuyết phơi-ơ-tông,
và họ rất chịu bỏ tiền mua báo. Báo nào có tiểu thuyết được họ đọc là
báo bán chạy.
‘
Theo tôi, có lẽ hai tác giả nói trên
vẫn còn phiến diện khi không nhắc đến những độc giả là đàn ông ở nhiều
lứa tuổi và thành phần khi họ thích đọc những truyện trinh thám như ‘Bàn
Tay Máu’ của Phi Long (Ngọc Sơn), truyện Võ hiệp kỳ tình ‘Kỹ nữ Gò Ôn
Khâu’ (Hoài Điệp Thứ Lang-nhà thơ Đinh Hùng), ‘Lệnh Xé Xác’ (Lã Phi
Khanh-Vũ Bình Thư) và kể cả nhiều tầng lớp trí thức mê say truyện chưởng
của Kim Dung. Họ đã hàng ngày chờ đợi ‘ Cô Gái Đồ Long’, ‘Anh Hùng Xạ
Điêu’, ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’…của ‘Cấm Dùng’ Tiên Sinh (Kim Dung) qua cách
chuyển ngữ rất giang hồ hành hiệp của Hàn Giang Nhạn. Nói không quá là
nhật trình lúc đó sống nhờ truyện chưởng. Họ mua báo hàng ngày
chỉ vì muốn đọc truyện chưởng dài kỳ của Kim Dung mà thôi. Trong một
buổi hội luận dành cho SV báo chí, nhà báo Từ Chung nêu câu hỏi rất giản
dị ‘ Tại sao báo VN nào chũng phải đăng truyện kiếm hiệp’
và tự trả lời‘ quan trọng hơn cả, không có kiếm hiệp
thì báo bán không chạy. Báo bán không chạy thì báo chết. Nó giản
dị vậy thôi.’ Báo có thể rất nghiêm chỉnh, tin tức bình luận đều hay
nhưng không thể không có tiểu thuyết ăn khách. ‘Phi kiếm hiệp bất thành
báo’
SỐNG BẰNG TRUYỆN DÀI KỲ
Một tờ báo được độc giả đón nhận nhờ TDK hấp dẫn thì không những đời chủ
báo lên hương mà các tác giả viết TDK vẫn có thể ung dung sống thoải
mái, thậm chí có người còn đi xe hơi và nuôi cả gia đình như
Bà Tùng Long xác định viết TDK để nuôi con. Và năm 72 bà đã ngừng
viết vì các con đã lớn (theo Hồi Ký Bà TL)
Họ-nếu gọi là nhà văn- thì đây chính là những nhà văn đã sống
bằng chính nhận bút chứ không cần lương cố định của một tòa soạn nào.
Theo tác giả Hoàng Hải Thủy tự nhận xét ‘Tôi
trở thành thợ viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông
chuyên nghiệp, tôi sống bằng việc viết truyện phơi-ơ-tông.’ Lúc ấy,
trong làng báo Sài gòn đã xuất hiện những người viết TDK chuyên nghiệp.
Họ
chỉ viết TDK
để sống và chỉ sống bằng việc viết
TDK.
Viết xong, nếu ăn khách, sẽ được
nhà xuất bản mua để in thành sách, nhiều tác giả
TDK
tự xuất bản tác phẩm của mình
như Ngọc Linh, Duyên Anh. Thí dụ như trường hợp của Dương Hà, sau khi
thành công với TDK đầu tay ‘Bên dòng Sông Trẹm’, từ
năm 1952 Dương Hà chuyên viết tiểu thuyết
cho nhật báo Sàigòn
mới đề sống
cho đến khi báo nầy bị đóng cửa vào năm 1964.
Có lẽ thấy viết TDK đăng nhật trình hàng ngày vừa có tiền sống lại vừa
phổ biến được tác phẩm nhanh và rộng nên những nhà văn được cho là
‘chính thống’ như Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn
Thụy Long …đều lao vào viết truyện dài kỳ cho các nhật và tuần báo. Nhờ
TDK mà cuộc sống của họ dư dã và ổn định. Họ sống được là vì mỗi ngày họ
phải cung cấp TDK cho ít nhất là hai tờ nhật báo như bà Tùng Long viết
trong hồi ký ‘Anh
thử nghĩ xem tôi còn thì giờ đâu để mà viết cho Sống nữa chớ? Tiếng Vang
rồi Sàigòn Mới, rồi hai tờ báo tuần Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Đàn
(làm thư ký tòa soạn), Phụ Nữ Ngày Mai với một truyện dài và một truyện
ngắn hằng tuần’.Nhà
văn Phú Đức, tác giả ‘Châu Về Hợp phố được cho là người viết TDK với kỷ
lục viết cho năm tờ báo hàng ngày. Do đó, đích thân ông phải đi giao bài
cho từng tòa soạn vì sợ cảnh ‘râu ông nọ cắm cằm bà kia’. Đã từng có nhà
văn do đãng trí đưa nhầm truyện viết cho báo B sang
báo A nên hôm đó độc giả không hiểu tại sao anh Hùng đang đưa em
Loan đi chơi tửu lầu Đồng Khánh thì lại xảy ra cuộc đánh ghen của hai bà
ở tận xứ chó ăn đá gà ăn muối Chắc cà đao và ngược lại. Để tránh tình
trạn này, nhà văn Sơn Nam đến từng tòa báo, ngồi vào bàn viết yêu cầu
nhân viên tòa soạn cho đọc truyện xem lại ngày hôm trước đã viết đến
đoạn nào để ráp viết tiếp cho chắc ăn. Vì có lần sau khi truyện đã đăng
báo thì ông chủ bút cho biết là nhân vật X. lần trước đã bị ông khai tử
rồi sao bây giớ còn xuất hiện. Thế là ông tìm cách cho nhân vật ‘hồi
dương’ một cách hợp lý. Ngay cả Kim Dung cũng lâm vào tình trạng cho
nhân vật võ hiệp bị chết vì đao kiếm đoạn trước sau đó xuất hiện và đánh
tiếp ngon ơ!
Bạn đọc sẽ không thắc mắc tại sao có sự nhầm
lẫn nầy nếu như bạn đã biết các cây bút TDK thường viết đủ số chữ cho
phần ‘đất’ trên trang báo chứ ít khi họ viết thành một quyển tiểu thuyết
trước rồi lấy ra đăng lại như bây giờ. Chính vì lý do nầy mà nhà văn
không được chểnh mảng vì bị ‘thúc vào đít’ hàng ngày bởi trang báo đang
để trắng, các ấn công, thầy ‘Cò’ đang chờ bài. Theo họ khi bị ‘rượt đuổi
‘ vào giờ chót như vậy thì họ mới có ‘yên sĩ phi lý thuần’ (aspiration)
mà viết thật hay. Và nhờ viết
hàng ngày mà họ có thể đo lường sự quan tâm của bạn đọc về câu chuyện để
có ý và hứng thú viết tiếp cho ngày hôm sau. Ông Nam Đình, đang làm chủ
báo nhưng lại là cây bút viết TDK, hàng ngày, thường la cà ở các sạp báo
để hỏi người bán hoặc độc giả về câu chuyện và các nhân vật của ông xuất
hiện trên báo ngày hôm nay. Có độc giả tức tối vì nhân vật nữ bị ám sát
thì hôm sau ông liền cho nhân vật nữ sống lại một cách rất thuyết phục
–cũng như trong phim, nhân vật chính chết thì lấy gì mà xem!
Giao bài
đủ số trang, số chữ là sự thuận lợi chỉ dành riêng cho người viết chứ
các chủ báo, chủ bút thì lên ruột từng đoạn. Khi gần hết hạn đưa bài
xuống nhà in, ấn công hối thúc thì chủ bút chỉ lạy trời cho ông ‘Phơi’
xuất hiện. Và khi có bản thảo viết tay chi chít những con chữ thế là một
guồng máy bắt đầu náo loạn từ
thợ sắp chữ, sửa lỗi đến thợ bản vổ. Thỉnh thoảng khi không nhận được
bài thì chỗ trống đó sẽ được trám vào bằng bài thơ thẩn, sưu tầm nào đó
với giòng chữ cáo lỗi bạn đọc ‘Vì tác giả bệnh bất
ngờ nên truyện phải tạm ngưng hôm nay. Mong bạn đọc thông cảm và
chờ đọc vào số báo ngày mai’. Đến chế độ Nguyễn Văn Thiệu, các bài viết
trái ý kiểm duyệt sẽ bị đục bỏ, nên tranh thủ và cũng để châm biếm sự
kiểm duyệt báo chí các tòa soạn thường dùng bốn chữ ‘Tự Ý Đục Bỏ’ làm
cho bạn đọc tưởng truyện đang có ‘vấn đề’ hay thiên cộng. Còn nếu như
nhà văn bị bệnh dài ngày thì những người trong tòa soạn sẽ cùng nhau
viết tiếp truyện đang dang dở. Các nhân vật ra sao thì ra để tác giả hết
bệnh tự xử trí. Đây là trường hợp của truyện dài "Một Triệu Đồng" của
nhà báo Như Phong đăng trên nhật báo Tự Do, khi Như Phong bị lao phổi,
do truyện đang ăn khách, toà soạn quyết định tiếp tục. Trong hồi ký ‘Tôi
Làm Báo’ nhà văn nhà giáo Tạ Quang Khôi kể lại:
" Ông Nguyễn Hoạt yêu cầu mỗi
người viết một đoạn để chờ ông Như Phong đi làm lại". Và truyện dài
của nhà báo Như Phong đã được nhà thơ Đinh Hùng, nhà báo Nguyễn Hoạt và
sau đó là Tạ Quang Khôi viết thay cho tới khi nhà báo Như Phong trở lại
toà báo.
Vì phải viết cho nhiều tờ báo trong một
ngày nên một số ít nhà văn viết TDK đã nhờ người viết thuê ẩn danh để họ
ký tên. (Bây giờ gọi là Ghost writer). Việc nầy ít khi được tiết lộ công
khai vì thỏa thuận ngầm giữa hai bên nhưng không phải là không có. Theo
nhà văn Vũ Bằng, Lê Văn Trương và chính ông cũng nhờ người viết thuê rồi
đứng tên là tác giả: ‘Có
nhiều truyện của Lê Văn Trương viết mà không phải chữ của Trương. Tôi
bảo anh chính là ‘mọi’ viết chớ không phải là anh viết thì lập tức anh
thề liền ‘tôi mà nói dối chết một đời cha ba đời con’.
Những nhà văn , nhà báo Âu Mỹ nuôi ‘mọi’ để viết rồi ký tên mình
vào đó là chuyện thường thấy ,có gì lạ đâu. Tôi đã từng có lúc viết
không kịp cũng phải nhờ ‘mọi’ giúp. Đó là thời kỳ 1940-42 tôi đưa ra
loạt bài nói về các thứ ma quỷ, siêu hình học ( một ông giáo bây giờ đã
qua đời giúp việc cho tôi hàng tháng) lúc tôi viết về loại báo Tabloid
của Mỹ đăng trên ‘Trung bắc chủ nhật’. Và lúc tôi nhận viết mỗi tuần một
‘Truyện có thực’ và mỗi tháng một truyện dài hoặc để đăng ‘Phổ thông bán
nguyệt san’ hoặc đăng báo ‘Truyền Bá’ (Văn Học- số 74 –sài gòn 1967)
NHỮNG CÂY BÚT TRUYỆN DÀI KỲ CỦA LÀNG BÁO SÀI GÒN
Tôi chưa có đủ
tài liệu để xác định xem người viết TDK đầu tiên trong làng báo Sài gòn
là ai nhưng, tạm thời, theo
dòng thời gian thì một
trong những tác giả viết
TDK
xưa của Sài Gòn là Hồ Biểu Chánh, tác giả những bộ truyện nổi tiếng Tỉnh
Mộng, Cay Đắng Mùi Đời, viết năm 1923, Ngọn Cỏ Gió Đùa, viết năm 1926.Tác
giả thứ hai là Phú Đức với những bộ truyện đúng kiểu tiểu thuyết
phơi-ơ-tông như Châu Về Hiệp Phố, viết năm 1926, Căn Nhà Bí Mật, viết
năm 1929, Tình trường huyết lệ, viết năm 1930..vv.
Riêng nhà
văn Phú Đức được cho là người chiếm kỷ lục viết TDK cho năm tờ báo một
ngày. Xuất thân từ nghề ‘gỏ đầu trẻ’, đang yêu đương phơi phới, chàng
trai tỉnh Gia Định bèn dàn trải mối tình thơ mộng của mình bằng TDK đầu
tiên mang tên ‘Câu Chuyện Canh Trường’ trên báo ‘Trung Lập’của ông De
Lachevrotière do ông Trương Duy Toản làm chủ bút vào năm 1924. Ai mà dè,
từ TDK đầu tiên đó, Phú Đức được ông Trương Duy Toản tiếp tục viết TDK
‘Căn Nhà Bí Mật’, ‘Châu Về Hiệp Phố’.
Cả hai bộ TDK nầy đã mang lại cho báo Trung Lập số độc giả kỷ lục
trong làng báo thời ấy. Sau đó, ông được nhà báo Nam Đình mời về báo
Công Luận làm chủ bút. Ở tờ báo nầy , mang danh là chủ bút, ăn lương
ngang với Đốc Phủ Sứ nhưng chỉ có việc duy nhất là viết TDK ‘ Tiểu Anh
Hùng Võ Kiết’ rồi ngồi lên xe hơi xì-gà mà rong chơi với các người đẹp
ái mộ khắp Sài Gòn.
Sau thời kỳ ‘nhung
lụa’ ngót nghét cũng gần 20 năm, Phú Đức phải còng lưng viết TDK cho 5
tờ báo mỗi ngày. Ông làm việc như công chức, đúng giờ, đúng khắc. Mỗi
buổi sáng, ông đến nhà một bạn làng văn, đóng đô ở đó viết cho đến xế
trưa là đã xong số lượng trang viết cho các tờ báo đang chờ bản thảo của
cây bút được quảng cáo là ‘…Đứa
con tinh thần mà tác giả đắc ý nhất, sau bao nhiêu năm dầy công thai
nghén một cốt truyện ly kỳ, rung rợn, quyết làm cho độc giả càng đọc
càng mê say, cảm động…’. Nhưng thật ra những đưa con tinh thần nầy
chính là những TDK đã đăng trên Trung lập và Công Luận rồi được ông xào
nấu lại từng kỳ cho các tờ báo đang đói TDK. Hậu quả là vào năm 1952,
một tuần báo đã viết bài với cái tít giật gân là Phú Đức: Tiểu Thuyết
Gia Bổn Cũ Soạn Lại’.
Một nhà văn thiếu nhi cũng là một nhà báo kênh kiệu đã nhận xét ‘Trong
lịch sử làm báo duy nhất
một nhà văn Phú Đức quyến rũ độc giả ròng rã mấy năm bằng Quách si ma ,
nhân vật kỳ bí của triền miên phơi ơ tông Châu về Hiệp phố. Nhật báo của
ông là … Châu về hiệp phố. Độc giả tranh nhau mua báo của ông chỉ để
theo bước chân đi của Quách si ma ! Sức quyến rũ của ngòi bút Phú Đức
thật đáng nể.
Thời đó, chỉ có một người viết TDK đứng sau
Phú Đức là Nam Đình. Dù là chủ tờ báo Thần Chung (1950) cũng thuộc loại
có ‘số má’ nhưng ông đích thân viết TDK hàng ngày. Nếu Phú Đức được làng
báo lúc ấy phong là người viết TDK ‘Bổn cũ soạn lại’ thì Nam Đình được
tặng danh hiệu là ‘đại hải trường giang’. Từ TDK ‘Bà Lớn’ qua ‘Cháu Bà
Lớn’ rồi ‘Cô Bạch Mai’ tới ‘Cô Bạch Mai’ tới ‘Cháu Ngọc’ Nam Đình đã cứu
tờ Thần Chung đang từ chỗ sắp đình bản vươn lên thứ hạng nhất nhì lúc
đó. Trước đó thì có ‘Kòn Trô’(1941), ‘Sương Giò Biên thùy’(1948) của nhà
văn Lý Văn Sâm.
Nếu bên Thần
Chung có ‘ Cô Bạch Mai’ thì năm
1952 bên Sài
Gòn mới của bà Bút Trà xuất hiện ‘Bên Dòng Sông Trẹm’ của cây bút mới
toanh
Dương Hà.
Do nổi
tiếng nên truyện được xuất bản thành sách ngay sau khi đăng hết trên
báo. Không
thua kém, bên báo Tiếng Chuông xuất hiện Ngọc Sơn với
những TDK ‘
Ngày Về’,
‘Hồng
và Cúc’,
‘Sau
Dẫy Nhà Lầu’.
Sau 1954 Ngọc Sơn
chuyển qua viết TDK
trinh thám kỳ tình ‘Bàn Tay Máu’ (có tranh minh họa kèm theo)
với bút hiệu Phi Long trên báo
Sài Gòn
Mới.
Nói đến TDK tâm lý xã
hội ăn khách nhất lúc đó không thể kể đến hai cây bút
nổi tiếng
của những năm 1950
là bà Tùng Long, bà Lan Phương.
TDK của các nữ sĩ
nầy đều có nhân vật chính là phụ nữ , thường gặp hoàn cảnh éo le nhưng
đều vượt qua nghịch cảnh và kết truyện đều có hậu. Tất cả TDK của hai bà
đều đề cao tình nghĩa gia đình, đề cao người phụ nữ nên đa số độc giả là
nữ đều mê mẩn.
Sau năm 1965 nhật báo Sài Gòn có mấy cây viết phơi-ơ-tông nữ nổi tiếng:
Túy Hồng, Lệ Hằng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng.
Tôi đọc được trong một cuộc phòng vấn trên báo bà Nguyễn Thị Hoàng cho
biết trên bàn viết lúc nào củng có hai …máy đánh chữ dành để viết hai
truyện khác nhau cùng lúc. Khi viết bị bí truyện nầy thì nhảy sang viết
truyện kia.
Không thua bà Tùng Long,
Lan Phương các cây bút nam giới cũng có Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc với
những truyện dài về sông nước và con nguời nam bộ. Bình Nguyên Lộc đăng
đoạn đầu truyện dài kỳ’ Phù sa’,
đăng trên báo Thanh Niên năm 1943, với tên Di dân lập ấp. Ông đã
mê hoặc được độc giả nhờ truyện nầy. Sau đó, ông viết lại được độ 1/6
tác phẩm, cho in trên tuần báo Nhân Loại. Theo lời Bình Nguyên Lộc, Phù
sa là "tác phẩm quan trọng nhất" của ông, làm sống lại cuộc "tiến vào
Nam" của đồng bào Nam-Ngãi để dựng nên miền Lục Tỉnh’. Ngọc Linh với
‘Như Hạt Mưa Sa’,
Lê Xuyên với
‘Chú Tư Cầu ‘ (Sài Gòn Mai năm 1961),
Dân Việt với
TDK của
Chu Tử: Sống, Yêu, Tình, Loạn xuất hiện năm 1961, 1962.An
Khê với ‘
Hai Chuyến Xe Hoa.Lã
Phi Khanh,
với TDK
Lệnh Xé Xác
trên báo Tin Sáng.
Văn Quang với ‘Đời Chưa Trang điểm’, Nguyễn Đình Toàn với ‘Áo Mơ
Phai’,Trọng Nguyên. Dương Trữ La, Lê Minh Hoàng Thái Sơn…đa dạng sắc màu
thể loại TDK trên các nhật báo. Ngay cả nhà thơ như Bùi Giáng cũng viết
TDK. Khi tìm tài liệu viết bài nầy, tôi bất ngờ nhất là nhà thơ Bùi
Giáng cũng viết TDK...võ hiệp. Theo hồi ký của tác giả Kiều Giang thì ‘Bùi
Giáng cũng có thời kỳ viết bộ truyện phơi-ơ-tông đăng trên nhật báo sống
năm 1970. Anh thường cho hai nhân vật nam nữ khơi khơi dùng thật nhiều
hai chữ ‘liên tồn, tồn liên trong truyện, đại khái:
“Nàng có sắc đẹp tồn liên..
“Nàng nở nụ cười liên tồn…’
Đa tạ đại hiệp đã có dạ tồn liên…’
Được biết nhà thơ và vì là
nhà thơ nên Bùi tiên sinh đã thất bại trong việc viết TDK. Do ‘liên’
(tưởng ) hoài nên TDK của ông không ‘tồn’ (tại) được. Không dễ dàng gì
để trở thành một người viết TDK ăn khách nếu không biết kỹ thuật ‘câu
rê’ sao cho hấp dẫn mà thời đại ta gọi là câu ‘Viu’ (View). Một bí quyết
gọi là ‘nhà nghề’ của Phú Đức là ông viết đến chỗ gay cấn thì cắt ngang,
bắt độc giả chờ ngày mai đọc tiếp. Nam Đình thì ra sạp báo, lén nghe ý
kiến người đọc để sửa chữa và bổ khuyết cho nhân vật.
Viết dài hay ngắn đoạn nào đó là tùy theo sự thích thú của bạn
đọc. Câu rê thuộc loại cao thủ là Lê Xuyên.
Trong TDK ‘Chú Tư Cầu’, tác giả
nầy cho nhân vật nam từ lúc tay run run chuẩn bị mở nút ‘bóp’ (một loại
nút áo bà ba miền nam) cho đến lúc mở được đã kéo dài 15 kỳ nhở vào kỹ
thuật viết đối thoại bằng
những từ bình dân nam bộ, linh động và hấp dẫn. Theo kết luận của một
nhà văn lão thành thì ‘…Tuy
đăng từng ngày, mỗi ngày một tiểu đoạn, nhưng cách viết và lối dựng
truyện phải là những bí quyết sắc bén giam nhốt không rời thần trí và
ham thích người đọc, đã bước chân qua cửa truyện, là không thể trở lui,
phải từng số từng ngày đợi chờ đọc tiếp.Mở đầu đã đầy đặc những tình
tiết bốc cháy từ những dòng mê đắm thứ nhất. Chuyển đoạn vừa đố vừa
giảng. Chuyện đang vòm trời hiện tại thoắt đã chân trời tương lai. Bằng
những diễn biến bây giờ, bằng hồi tưởng, đột ngột kéo ngược hết về thì
quá khứ. Bất ngờ cắt đứt một sáo trộn đóng khung trong một cảnh trí này,
ném bỗng sáo trộn ấy vào một cảnh trí hoàn toàn khác biệt. Đang thuật
đang tả chuyển thành viết thư, nghiêng sang nhật ký. Và thuật tả cũng
luôn luôn phải đối thoại len vào. Trăm nghìn xảo thuật hâm nóng cảm
giác, làm ngỡ ngàng mọi tưởng trước, sai lạc mọi phán đoản ấy, đã được
chuyên chở bộn bề vào tiểu thuyết đăng báo chúng ta hiện nay, bằng con
đường điện ảnh, bằng vay mượn và phối hợp cách thức viết với cách thức
thực hiện phim ảnh. Nói chung, đó là kỹ thuật của loại phim truyện trinh
thám, nghẹt thở, giật gân, bao giờ cũng tạo được tác dụng làm căng thẳng
giác quan ta.’
Đó là về mặt kỹ thuật. theo tôi, một yếu tố quan trọng để một TDK thành
công là tính chất giáo dục, nhân văn. Tất nhiên, khi viết nhà văn TDK
luôn đặt yếu tố hấp dẫn, giải trí lên hàng đầu nhưng nội dung truyện vẫn
là cái thiện thắng cái ác, ở hiền gặp lành, đầy đủ ‘nhân, lễ , nghĩa,
trí, tín’.
Họ thích
nhân vật chính là thiếu nữ xinh đẹp, hiền hậu, con nhà nghèo – nghèo mà
vẫn giữ được trong sạch – bị rơi vào những cảnh ngộ oan trái nhưng sau
cùng vượt thắng được nghịch cảnh, gặp tình yêu. Hoặc nhân vật chính là
một thiếu nữ con nhà giàu sang yêu một chàng trai nghèo nhưng lương
thiện. Sau
cùng tình yêu
phải
thắng, đôi tình nhân sau trăm cay, nghìn đắng, sẽ thành vợ, thành chồng,
sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.
Nếu truyện có tướng cướp thì
tướng cướp sẽ hoàn lương, nếu có kẻ giết người thì kẻ đó sẽ chết, đi tù
hoặc đi tu để trả giá cho hành động của mình. Đọc TDK, người đọc sẽ luôn
thấy được sự hướng thiện của tác phẩm, những bài học đạo đức đến từ
những niểm hạnh phúc, nỗi đau, cách xử thế của từng nhân vật. Tóm lại
khi chữ Hết được đặt dưới TDK, người đọc đã tìm ra Chân, Thiện, Mỹ.
Bà Tùng Long đã kể trong hồi ký ‘
Có lần tôi đang viết một câu chuyện dài, có
chiều hướng không cho hai nhân vật yêu nhau đi đến hôn nhân, thì một
buổi sáng vừa để cái cặp lên bàn, toan ngồi lại làm việc thì bà Bút Trà–
chị dâu của tôi mà cũng là chủ nhiệm của báo Sàigòn Mới lúc bấy giờ –
cho người mời tôi vào và nói:
LÀ NHÀ VĂN HAY NHÀ BÁO?
Dù những TDK trên các nhật
báo đã làm say sưa bạn đọc nhưng người viết vẫn không được xem là nhà
văn, thậm chí còn có khuynh hướng xem đây là ‘tiểu thuyết ba xu’. Khuynh
hướng nầy đã có từ những nhà văn Pháp vào cuối thập niên thế kỷ 19. Nhà
văn Pháp Eugène Sue với những tác phẩm nổi tiếng lúc ấy vẫn chỉ được xem
là Feuilletonniste chứ không gọi là nhà văn.
Còn
ở Sài gòn thời ấy, theo Trần Quân (Hồi Ký Bà Tùng Long) ‘…Mặc
dù không có một quyển sách nào của bà được các nhà phê bình đem ra phê
bình như một tác phẩm văn học của những nhà văn được coi là trí thức lúc
bấy giờ, chính bà Tùng Long cũng tự nhận mình không phải là một nhà
văn…’
Có lẽ nhà văn
Võ Phiến là người không xem trọng TDK như
N.H.Qviết :
‘
Trước
1975, dù biết phơi-dơ-tông rất được ưa chuộng, dù hiểu nguyên nhân của
sự ưa chuộng ấy nằm ở phần đàm thoại, song tự thâm tâm, tôi đoán, Võ
Phiến có chút khinh rẻ loại văn chương nhật trình mà ông, cũng như nhiều
người khác nữa, không coi là văn chương thực sự.’
Trong một bài viết của mình, nhà văn Võ Phiến đã cho rằng các nhà văn
viết TDK đã đi vào xu hướng bình dân:
‘…Mặt
khác, viết tân văn tiểu thuyết đăng nhật báo, một việc như vậy không
phải chỉ ảnh hưởng đến túi tiền của nhà văn mà thôi, nó còn ảnh hưởng
đến bút pháp, văn phong, rồi có thể dần dần đến quan niệm sáng tạo của
nhà văn nữa không chừng. Mai Thảo có lần nhận rằng: "Hiện tượng của
truyện dài viết từng đoạn, đăng từng kỳ nơi trang trong các nhật báo
(...), đẩy hầu hết những cây bút sáng tác chuyên nghiệp hiện nay tới
kiếm tìm một văn thể mới, áp dụng một bút pháp mới." Quả thật phải có
văn thể bút pháp khác: truyện nhật trình không thể là thứ truyện cô
đọng, văn nhật trình không thể là thứ văn chương cầu kỳ, bí hiểm. Đã
chấp nhận viết nhật trình, chấp nhận "xuống đường", thì phải hòa mình
vào quần chúng. Mà một khi hòa mình đôi ba năm liền vào quần chúng, các
vị cao sĩ kiểu cách làm sao còn giữ nguyên được kiểu cách xưa! Cho nên
xuề xòa như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam... thì thêm một tí xuề xòa nữa sau
thời kỳ trăm hoa đua nở của nhật trình; còn các nữ sĩ thoạt tiên ngại
ngùng e lệ như Thụy Vũ, Túy Hồng, Nhã Ca v.v..., viết nhật trình riết
một lúc rồi ai nấy lưu loát mạnh dạn, ai nấy ào ào như gió táp mưa sa,
nữ cũng bạo mồm
bạo miệng không kém nam; đến như Mai Thảo, như Thanh Tâm Tuyền v.v...,
thuở suy tư trên Sáng Tạo và lúc dạn dày trên các trang nhật trình phong
cách thật khác xa!’
Ngay cả
nữ nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ – một cây bút TDK cũng chua chát nhìn nhận
trên Nguyệt san Minh Đức xuân 74 như sau:
‘Chị
Túy Hồng vốn là bạn thân nhất của tôi thì gặp nhiều thăng trầm rõ rệt
trong nghiệp viết văn. Từ Huế vào Saigon, chị được giới độc giả trí thức
hoan nghinh nồng nhiệt. Cuộc giao dư giữa chị và các nhà văn thuộc nhóm
Sáng Tạo đã đưa đến cuộc hôn nhân giữa nhà văn Thanh Nam và chị. Hạnh
phúc lứa đôi làm chị ngưng sáng tác một thời gian dài. Sau khi viết cho
tạp chí Vấn Đề loạt truyện dài nhan đề “Những Sợi Sắc Không”, chị được
tờ nhật báo Tia Sáng mời viết tiểu thuyết đăng theo thể thức feuilleton.
Kể từ đó, chị nắm lấy cơ hội để viết báo. Vì viết nhiều feuilleton, nên
chị phải nghỉ dạy học. Kế đó, đứa con gái thứ hai của chị bị chứng sung
màng óc và chết tại Bịnh Viện Nhi Đồng, chị liền ngưng viết feuilleton
suốt một năm ròng. Đến khi bắt tay vài việc trở lại, chị như mất hết đà
mất hết trớn, mất luôn cả hứng thú. Và rồi, chị bỗng nhiên nhận thấy
nghề viết feuilleton không phải là nghề bảo đảm lâu bền cho việc sinh
nhai nên chị xin đi dạy trở lại. Kể ra lối viết feuilleton của chị Túy
Hồng đối với độc giả miền Nam, nhất là lớp độc giả miệt Hậu Giang Lục
Tỉnh thì hơi cao. Đa số độc giả không theo đuổi kịp tư tưởng của chị và
cũng không thể thấm nhập được lối chơi chữ trác tuyệt của chị. Bởi lẽ
đó, khi viết feuilleton cho các nhật báo, chị đã bỏ rơi độc giả mỗi ngày
ở đằng sau khá xa và họ hào hến bắt hụt liên tiếp những tình ý của chị.
Nhưng viết trên các tuần san lẫn nguyệt san, Túy Hồng đủ thời giờ để cho
tình ý của mình thấm vào đầu óc độc giả hòa tan vào cảm xúc của họ nên
chị được họ ái một nồng nhiệt. Hiện nay Túy Hồng vẫn tiếp tục thai nghén
và sinh nở. Ngoài ra, chị cũng làm bếp, săn sóc nhà cửa nên cũng không
rỗi rảnh để đi lại với bạn bè đồng nghiệp. Tôi thường đến than với chị
là càng viết feuilleton, càng đau đầu nhức óc. Chị liền bày cho một diệu
kế là khi nào mõi mệt tinh thàn, khi nào lao tâm hồn trí thì nên dở
quyển kinh hoặc mở tập nhạc ra, ngắt từng đoạn rồi cho vào tác phẩm. Bởi
lẻ đó mà nhân vật trong một vài tác phẩm của tôi đều theo đạo Phật và
cũng biết ca hát rất là thời trang. Mỗi khi họ có tâm sự là họ niệm Phật
đọc kinh. Mỗi khi họ cao hứng là hát véo von bất kể Trời đất. Chị Túy
Hồng là mẫu người Huế không mất gốc. Chị không bao giờ dám vào quán để
dung điểm tâm hay để giải khát. Luôn luôn, chị giữ thái độ trang nghiêm,
e ấp dù tác phẩm của chị sôi bỏng, táo bạo.
Nhưng việc viết lách của những nhà văn nữ trang lứa với tôi thì quả thật
ồn ào dù không cố tình khoa trương đi nữa. Viết feuilleton cho các nhật
báo chỉ là một công việc
cẩu thả của kẻ liều mạng hơn là cuộc xuất thần trong nghệ thuật phóng
bút. Đã lỡ theo đuổi vào nghề viết feuilleton rồi, nhà văn không còn
thời giờ để đọc sách, không còn thời giờ để suy nghĩ nữa. Chất liệu sống
cùng kiến thức càng lúc càng khô kiệt, hao hớt vì sự vung vãi quá trớn
của nhà văn. Nguy hiểm ở chỗ khô g có thời giờ để suy nghiệm lại những
chặng đường sáng tác của mình và làm những dự định trong tương lai cho
đường lối sáng tác của mình. Người đàn bà làm văn nghệ mà chưa thoát
khỏi những nhu cầu thúc bách của sinh kế, đã thấy rõ ngày xế bóng của
tài năng mình quá gần kề. Công việc viết lách đối với họ giống như cây
tre trổ hết bông trong một kỳ để mà chết. Không có gì chua xót cho bằng
người đàn bà cầm bút đang độ chán ngán, muốn gát bút để nghỉ xã hơi
trong một thời gian, nhưng không tìm đâu cơ hội quý báu ấy. Và rồi họ
phải viết như mang ách để kéo cày.’
Dù TDK có được xem là văn học hay không nhưng vào
thập niên 1960, nhiều nhà văn Miền Nam, có số lượng sách khá đồ sộ nhờ
viết TDK cho các nhật báo. Bà Tùng Long cho biết là
‘tôi
đã xuất bản độ 70 bộ truyện dài và truyện vừa. Truyện đã đăng báo nhưng
chưa in thành sách vẫn còn khoảng chục bộ. Truyện nhi đồng viết vì yêu
cầu của nhà xuất bản Nhi đồng khoảng vài chục truyện. Còn truyện ngắn
cũng vài trăm cái.’
Công bằng mà nói, những TDK sau nầy được in
thành sách do sự hấp dẫn của nó, không phải không có những quyển tiểu
thuyết có giá trị. “Đò Dọc” của Bình Nguyên Lộc, “Áo Mơ Phai” của Nguyễn
Đình Toàn là TDK nhưng vẫn đoạt giải văn học danh giá của miền nam trước
kia đấy thôi. Đóng góp vào sự ‘giàu có’ của văn học miền nam (tập trung
là ở Sài gòn), bên cạnh những tác phẩm văn học in thành sách hoặc trong
các báo, tạp chí của các nhà văn nổi tiếng lúc đó như Vũ Hạnh với ‘Bút
Máu’, ‘Lửa Rừng’, ‘Ngôi Trường Đi Xuống’, nhà văn Lý Văn Sâm, nhà văn
Trang Thế Hy, nhà văn Sơn Nam, nhà văn Lê
Vĩnh Hòa (em ruột nhà văn Võ Phiến), nhà văn Vũ Bằng, nhà văn Nguyên
Hùng, nhà văn Ngọc Linh, Cô Hợp Phố … thì các tác giả viết TDK cũng có
mặt một số tác phẩm. Những tác giả, những quyển tiểu thuyết còn ‘sống’
đến hôm nay, được độc giả và các nhà phê bình văn học nhắc đến
chứng tỏ nó đã vượt qua cái
ngưỡng oan nghiệt của cụm từ ‘phơi-dơ-tông’. Ở Sài Gòn thì không thiếu
những tác giả và tác phẩm vẫn còn được nhắc và nghiên cứu đến tận ngày
nay. Thời gian và văn học sử sẽ đem lại sự công bằng cho họ, cho một
chuyên mục báo chí đã từng một thời gây mưa gió trong nền báo chí Việt
Nam.
Lê Văn Nghĩa
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 29-11-20 |