Cải Cách Chữ Việt- Chuyện
Xưa Rồi Diễm
Lê
Văn Nghĩa
-
Đã có đề nghị cải cách chữ việt trước đề nghị của PGS Bùi Hiền và ông
Kiều Trường Lâm-Trần Tư Bình
-
C đã được đề nghị thay cho K và Q.
Trong thời gian vừa qua trên báo chí và mạng xã hội lại dậy sóng với đề
xuất cải cách chữ Việt. PGS Bùi Hiền có công bố công trình cải cách chữ
Việt mà một số người cho rằng đây là công trình đầu tiên.
Rồi
hai ông Kiều Trường Lâm và Trần Tư Bình vừa được cấp bản quyền
trong mùa dịch Covid 19.
Tuy nhiên , có ý kiến
của một Tiến Sĩ cho rằng
trước
đây nhiều
nhà nghiên cứu
của
viện
ngôn ngữ
học,
trong đó người
đầu
tiên là giáo sư
Hoàng Phê, và nhiều
những
ý kiến
riêng lẻ
từ
những
năm 1960 đã đưa
ra đề
xuất
thay đổi
cách viết
chữ
cái tiếng
Việt
được
nhà truyền
giáo người
Pháp Alexandre de Rhodes phát minh ra vào thế
kỷ
17.
Như vậy có thể hiểu rằng chuyện cải cách chữ Việt đã bắt đầu từ thập kỷ
60.
CHUYỆN CẢI CÁCH CHỮ VIỆT-KHÔNG MỚI.
Tuy nhiên,
nhờ có một tài liệu mà tôi vừa tìm được thì biết rằng từ năm 1948, ông
Phạm Xuân Thái đã cho xuất bản quyển “Việt Ngữ Cải Cách” ( NXB TUQSHAIF-
Maison d’Edition-Publishing-House, 22 Delorms Hanoi-131 Lagrandière
Saigon). Ông Thái đã cho biết lý do xuất bản quyển sách nầy như sau:
“Chữ VN hiện
giờ còn nhiều chỗ khuyết điểm, nhất là các dấu, rất bất tiện, dễ lầm
lẫn. Những chữ in, đánh máy hay đánh điện tín thường có những sự lầm lẫn
buồn cười như hà lạm trở thành hả lắm, thắng lợi trở thành thẳng lối,
hối lộ thành hơi lo v.vv….Cái dấu tách riêng khỏi chữ, nên thường bị bỏ
quên hay hiểu lầm, vì người ta cho chữ là quan hệ, còn cái dấu là phần
phụ thuộc, không quan hệ mấy. Vậy phải viết dấu liền “sau chữ”, để đem
nó lên địa vị quan trọng. Về phương diện nhanh chóng, viết lối cũ chậm
hơn nhiều, vì sau khi viết xong chữ lại phải lùi bút lại đánh dấu, rồi
mới đưa bút đi tới để viết chữ sau, thành ra chậm đà bút. “
Ông Phạm
Xuân Thái đã đề nghị cải cách là thay các dấu bằng chữ theo nguyên tắc
chữ tượng hình. Dấu sắc thay bằng chữ S vì chữ S gợi ý dấu sắc, thí dụ
Hans (Hán). Dấu nặng thay bằng chữ J vì chữ J có dấu chấm gợi ý dấu nặng
cũ thí dụ langj (lạng). Dấu hỏi thay bằng chữ F vì chữ F gợi hình dấu
hỏi, thí dụ Hoaf (Hỏa). Dấu ngã thay bằng chữ W vì chữ W gợi hình dấu
ngã cũ. thí dụ Maw (Mã). Dấu huyền thay bằng chữ B vì chữ B gợi ý chữ
bình, bằng, thí dụ Hanb (Hàn). Có lẽ kiểu cải cách này do Ông Thái muốn
tiện dụng cho chuyện đánh điện tín chăng vì theo ông “phải dùng những
dấu nào tiện lợi cho việc ấn loát, đánh điện tín và đánh máy chữ”.
Những phụ âm
, theo ông Thái cần phải cải cách là C thay cho chữ K và Q: thay cho chữ
K trong những chữ như kêu
viết là cequ, thay cho chữ Q
như Cuoqcs (quốc),
Coan (quan). Trong những chữ
có chữ H sau cùng của những chữ êc, ic thí dụ
thích được viết là
thics,
xếch được viết là
xeqcs. Chữ D thay cho chữ Đ
thí dụ đưa phải viết là
duqa. Chữ F thay PH thí dụ
phải viết là
fải. GH thì bỏ H đi thí dụ
ghê thì được viết là
gê. Chữ K thay KH, ví dụ
kang được thay cho
khang. NGH thì bỏ H ví dụ
nge viết thay cho
nghe.
Riêng chữ Y thì chỉ viết Y khi đứng một mình
như Y (nó). I không được dùng khi đứng một mình vì …mỹ thuật.
Không dùng Y trong những chữ Y là nguyên âm thí dụ cái ly thì phải viết
là cái li, hy sinh thì phải
viết là hi sinh . Về dấu thì
ông Thái đề nghị cải cách như sau: AQ: ă, EQ thay ê, OQ thay ô, UQ thay
cho một số phụ âm cùng nguyên âm
khác khá dài nên không tiện nêu ra đây.
Sau khi quyển “Việt Ngữ Cải Cách” đã phát hành thì năm
1949-trong phần sau quyển “Việt Anh Thông Thoại Từ Điển” do chính ông
biên soạn, đã viết:
“Cải Cách
Chữ Việt Triệt Để. Trước đây đã có nhiều người hô hào cải cách chữ Việt
như quý ông Chéon, Nguyễn Văn Vĩnh…song những lời hô hào ấy đã rơi vào
cõi im lặng. Trong một cuộc họp mặt có cả các ông Thiên Giang, Thê Húc,
ông Đông Hồ có tỏ ý với tôi nên cải cách triệt để. Ông nhấn mạnh rằng
năm dấu không nên dùng trong những chữ đã dùng làm tử âm (phụ âm). Thể
theo ý các ông, tôi xin trình bày một sứ cải cách triệt để, đặng chất
chính cùng các bậc cao minh. “
Và lần nầy,
theo ông Phạm Xuân Thái năm chữ cái J, W, Q, P, Y thay cho các dấu theo
thứ tự nặng, ngã, hỏi, sắc và dấu huyền. Những phụ âm được thay thế là:
B thay cho P khi đứng sau cùng, thí dụ: labj=lạp. C thay cho K và
Q, thí dụ Ceeu = Kêu; Cuooc
= Quốc. Chữ D thay cho chữ Đ. Ba chữ ECH thay cho ACH ( Sechp=Sách), EEI
thay cho Ây ( Leei=Lây)… Một số nguyên âm được “cải cách” là Ô= oo,
Ư=uu, Ê=ee, Ă=aa…
Tôi không
thể trích dẫn hết những phụ âm mà ông Thái đề nghị cải cách
rất vô cùng rắc rối, bảo đảm không rắc rối thì không ăn tiền .
Xin được “tổng kết” sự cải cách của ông ấy bằng bốn câu đầu của
Kiều viết theo sự cải cách triệt
để của ông và học giả GS nào thấy hay thì xin tiếp tục nghiên cứu:
“Traam naam
tronh coiw nguoeiy ta/Chuuw taiy chuuw meenhj keup lay getp nhau/Traiq
cua mootj cuoocj beeq zaeu/Nhuunhw dieeuy troonh theeip may dau doenp
lonhy” (Trăm năm trong cõi người ta/Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét
nhau/Trải qua một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy mà đau đớn lòng)…
Vì không có
tư liệu báo chí nên không biết thời đó các báo có phản ứng về sự cải
cách triệt để chữ Việt của ông Thái hay không mà các thể loại cải cách
của ông chẳng được áp dụng trong văn chương và cách viết báo thời ấy.
CẢI
CÁCH CHỮ VIẾT TẠI SÀI GÒN
Riêng tại
Sài gòn vào khoảng thập niên 60, có ông nhà báo tên Nguyễn Hữu Ngư, bút
hiệu là Nguiễn Ngu Í cũng có đề xuất cải cách chữ Việt. Cũng giống như
đề nghị cải cách của ông Phạm Xuân Thái, lúc ấy chẳng có tờ báo, tạp
chí, sách giáo khoa nào thực
hiện cải tiến chữ quốc theo đề xuất của ông Nguiễn Ngu Í nên khi tự xuất
bản sách ông đã viết theo cách của mình. Việc đầu tiên là ông không chấp
nhận chữ “Y” nên đã thay bằng “I” ngay trên bút hiệu của mình: Ngu Ý
thành Ngu Í. Và những chữ
sửa đổi tiếp theo là:
NGH=NG.
(Nghĩa = Ngĩa). PH=F. (Fong=Phong). P=B (Hiệp=Hiệb) , Q= Qu (Quê=Qê).
C=K (Kỳ =Kì), GI=J (Gia=Ja), D=Y (Dung=yung)…
Dòng đời
trôi qua theo tháng năm, vận nước thế mà Việt ngữ từ năm 1948 (hay trước
đó đã có) được đề xuất cải cách đến năm 2020 vẫn i xì như thế
thì rõ rằng sự đề nghị cải cách
là một chuyện nghiên cứu cá nhân cho…thỏa mãn cái sự cải cách của mình.
Cái gì hợp lý thì nó tồn tại. Nghĩa là đề nghị cải cách chữ Việt đã
không hợp lý nên đến nay chữ Việt vẫn là chữ Việt xưa, chưa nhuốm màu
cải cách. Và cũng không nên lầm lẫn PGS Bùi Hiền và GS Hồ Ngọc Đại là
người đi tiên phong trong ý muốn cải cách chữ Việt vì trước đó cũng có
ông Phạm Xuân Thái và Nguiễn Ngu Í và còn học giả nào nữa, biết đâu…?
LÊ VĂN NGHĨA
|