Tìm Văn Liệu Cho Sách Giáo Khoa
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
1.
Mở đầu
Hiện nay, có lẽ không còn ai chối cãi tình trạng suy giảm hứng thú của
học sinh đối với môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Điều đó được
phản ánh trong thái độ đối với việc đọc sách, chất lượng học và làm bài
văn, khuynh hướng chọn ngành khi vào đại học. Giáo sư Hoàng Như Mai đã
báo động tình trạng này trong một bài trả lời phỏng vấn rất thẳng thắn
đăng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật cách đây hơn mười năm, với nhan
đề: “Môn Văn đang hỏng!”.
Muốn
tìm ra lời giải đáp chính xác cho tình trạng nói trên, cần phải có một
cuộc điều tra xã hội học rộng rãi để nắm bắt ý kiến của các thầy giáo,
cô giáo, các bậc phụ huynh, các nhà khoa học và nhất là các thế hệ học
sinh hưởng thụ chương trình Ngữ văn.
Tuy
nhiên, nhìn tổng thể, việc môn Ngữ văn mất sức hấp dẫn có thể do nhiều
nguyên nhân cùng một lúc: quan niệm dạy văn và học văn chưa tâm phục học
sinh, chương trình nặng nề và không hợp lý, sách giáo khoa (SGK) công
thức, tỉ lệ giáo viên giỏi nghề không nhiều, thi cử rập khuôn và máy
móc, văn mẫu và bệnh thành tích…
2.
Đặc điểm văn liệu
trong sách giáo khoa
Trong
bài này, chúng tôi muốn nêu một nguyên nhân quan trọng cắt nghĩa sự ngán
ngại học Ngữ văn trong học sinh, đó là chất lượng một số bài văn tuyển
dạy trong chương trình và SGK không cao, có một số bài không phù hợp,
thậm chí không xứng đáng đưa vào sách.
Một
cuốn SGK thường bao gồm phần bài giảng lý thuyết (một giai đoạn văn học,
một vấn đề khái quát, một tác gia…), phần văn liệu để phân tích và phần
câu hỏi bài tập. Văn liệu là tư liệu văn học, bao gồm văn bản nghệ thuật
(ca dao, truyện dân gian, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút…), văn
bản chính luận (tiểu luận phê bình). Đó có thể trở thành ngữ liệu cho
một bài giảng về vấn đề ngôn ngữ học, nhưng ngược lại, không phải ngữ
liệu nào cũng có thể trở thành văn liệu cho SGK văn học. Lời ăn tiếng
nói thông thường, những bài báo, những văn bản nhật dụng có thể dùng làm
dẫn chứng cho bài giảng ngôn ngữ học; còn văn bản văn học đích thực phải
có giá trị nghệ thuật thì mới đạt yêu cầu của một văn liệu cho SGK.
Vì lý
do tế nhị, cho phép tôi không nêu cụ thể bài văn nào bị xem là không đạt
yêu cầu, nhưng tôi xin giải thích tại sao có thể nói một bài văn/ thơ
không phù hợp đưa vào giảng dạy:
1.
Đó là những bài
văn/ thơ hay trích đoạn tác phẩm không có ý tưởng hay suy tư gì sâu sắc
hoặc ý tưởng chỉ là minh họa cho những mệnh đề luân lý, chính trị có
sẵn.
2.
Đó là những bài
văn/ thơ hay trích đoạn tác phẩm có suy tưởng riêng nhưng lại thiếu sự
sinh động, xoàng xĩnh về nghệ thuật, thiên về giáo huấn.
3.
Đó là những bài
văn/ thơ hay trích đoạn tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật nhưng
lại không được chọn dạy đúng cấp học, lớp học, nên không phù hợp với tâm
lý lứa tuổi học sinh.
4.
Đó là những bài
văn/ thơ hay trích đoạn tác phẩm đáp ứng ba yêu cầu nói trên nhưng lại
không giúp ích cho việc giảng dạy và làm sáng tỏ một chủ đề nhất định
theo cấu trúc chương trình có sẵn.
Theo
ghi nhận của chúng tôi, cách chọn văn bản lâu nay thường đặt yêu cầu 4
làm tiên quyết, ví dụ dạy chủ đề tình bạn, tình yêu quê hương đất nước
thì tìm những văn liệu gì có liên quan để minh họa mà không chú ý thích
đáng đến ba yêu cầu trên đây.
Nói
về văn liệu ở từng cấp học, thiết nghĩ chọn văn liệu cho SGK cấp tiểu
học và trung học cơ sở khó hơn cho cấp trung học phổ thông; chọn văn
liệu từ văn học hiện đại khó hơn từ văn học cổ điển. Tôi xin nói rõ hơn
điều nhận xét này.
Những
bài văn chọn dạy cho cấp tiểu học thường là những bài ngắn trong khi
nguyên văn các tác phẩm, trừ thể loại thơ, viết cho thiếu nhi thường
vượt quá khuôn khổ một tiết dạy, vì vậy mà thời gian qua, có một số
trường hợp soạn giả SGK phải biên tập, sửa chữa, thậm chí cắt bớt văn
liệu gốc khiến tác giả phiền lòng. Thơ viết cho thiếu nhi của Xuân
Quỳnh, Phạm Hổ, Võ Quảng có thể chọn nguyên bài cho SGK, nhưng văn cho
thiếu nhi của Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư… khó
để nguyên văn khi đưa vào SGK. Nói khó, vì cảm thụ một bài văn trong
không gian lớp học khác với ở nhà, nên có khi soạn giả phải nhờ chính
tác giả viết lại để vừa với khuôn khổ và mức độ của SGK. Khi đã chọn một
bài văn/ thơ hay cho HS cấp tiểu học tiếp nhận, thì tác dụng tích cực
rất lâu dài. Ở miền Nam thời tiểu học, chúng tôi chưa được biết Tố Hữu
là ai, nhưng nhờ học SGK mà thuộc bài thơ Mồ côi của ông cho đến
bây giờ. Theo chúng tôi, ở tiểu học, nên dạy những tác phẩm hay, súc
tích, chứa đựng những câu chuyện đạo đức; những bài ca dao, truyện cổ
tích, truyện đồng thoại…
Theo
cảm nhận chủ quan của tôi, có lẽ viết SGK Ngữ văn cho học sinh trung học
cơ sở là thú vị nhất. Lứa tuổi từ 12 đến 15 này là lứa tuổi đang đổi
thay và khám phá; tình yêu, tình bạn, tình gia đình, tình quê hương đất
nước, lẽ sống đều chớm nở và đi đến độ chín, một bài văn hay sẽ thanh
lọc và bồi dưỡng biết bao tình cảm đẹp cho học sinh. Từ lớp 6 đến lớp 9
nên chủ yếu dạy văn học hiện đại, với những áng văn chương đẹp, nói lên
hình ảnh tích cực về thiên nhiên, xã hội, đất nước và con người; tránh
đưa vào SGK những văn bản nặng nề với những góc tối của đời sống. Vì
sao? Vì những bóng tối, cái xấu rồi cuộc đời sẽ bắt các em chịu đựng,
nhà trường và văn học hãy truyền cho các em ánh sáng, cái đẹp để có đủ
sức chống chọi và đứng vững trước những thử thách của cuộc sống. Văn học
Việt Nam đầu thế kỷ 20 đến nay, ở miền Bắc cũng như miền Nam, không
thiếu tác phẩm hay phù hợp với lứa tuổi này, miễn là các soạn giả có
hiểu biết về văn học, chịu khó đọc và sưu tầm, tuyển chọn. Cái khó nhất
ở đây là chọn văn bản tiêu biểu và phù hợp, tiêu biểu về tác giả, về
khuynh hướng sáng tác, về giai đoạn văn học và phù hợp với chủ đề bài
giảng, với lứa tuổi.
Đối
với bậc trung học phổ thông, theo chúng tôi, hai lớp 10 và 11 là độ tuổi
học sinh thích hợp về tâm thế để dạy văn học cổ điển từ thế kỷ 10 đến
thế kỷ 19. Lúc này học sinh có chút ít vốn liếng về lịch sử và văn hóa,
về vốn từ Hán Việt nên tiếp nhận thuận lợi hơn. Ở đây có một nghịch lý
này: dạy và biên soạn SGK về văn học cổ điển khó hơn văn học hiện đại,
nhưng chọn văn bản và tác giả thì thuận lợi hơn vì giá trị tương đối ổn
định, ít gây tranh cãi. Dù vậy, đối với những tác phẩm lớn (Truyện
Kiều, Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc…), việc
trích văn cũng cần cân nhắc và chọn lựa những đoạn có giá trị nhân bản
và giá trị nghệ thuật nhất. Chẳng hạn, trong Truyện Kiều, nên
chọn những đoạn Kiều đi chơi thanh minh hay Kiều ở lầu Ngưng Bích hơn là
cảnh báo ân báo oán.
Vấn
đề khó nghĩ nhất là lớp 12. Ở miền Nam trước 1975 và ở một số nước
phương Tây hiện nay, học sinh lớp cuối cùng bậc trung học không còn học
Ngữ văn nữa mà học Triết học. Bắt đầu tuổi trưởng thành, sắp học nghề để
bước vào đời hay sắp lên Đại học, họ cần được trang bị sâu sắc về lý
tính để từng bước hình thành nhân sinh quan và thế giới quan.
Chương trình Ngữ văn trước đây cố gắng bảo đảm cho học sinh, từ lớp 10
đến lớp 12 nắm được diễn trình văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến
văn học hiện đại, một quan niệm xuyên suốt từ thời Dương Quảng Hàm đến
nay. Chương trình mới ban hành vẫn tiếp tục quan niệm đó nhưng linh hoạt
hơn trong việc gợi ý và cho phép soạn giả SGK tìm và đề xuất văn liệu
mới phù hợp. Đây là một thử thách đặt ra cho người làm sách và tạo một
chút không gian học thuật để các bộ SGK cạnh tranh nhau về chất lượng và
sức hấp dẫn.
Chúng
tôi đề nghị, ở lớp 12, SGK nên chọn những văn bản văn học Việt Nam và
văn học nước ngoài có chiều sâu triết lý, có tầm tư tưởng và giá trị
nghệ thuật cao. Nên tránh những văn bản mà 10 năm, 20 năm sau trở thành
lạc hậu trước sự phát triển của nhận thức xã hội và tư duy con người
đương đại.
3.
Văn liệu trong sách
giáo khoa và quan niệm dạy Ngữ văn
Hiện
nay việc chọn văn liệu cho SGK Ngữ văn đang đụng chạm đến quan niệm dạy
và học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông và điều này có liên quan đến quan
niệm giáo dục vốn có những cách nhìn không thống nhất. Nhân đây chúng
tôi xin nêu ý kiến của mình về quan niệm dạy Ngữ văn.
Một,
dạy Ngữ văn ở trường phổ thông là dạy nghề hay dạy người? Chúng tôi tán
thành quan niệm dạy Ngữ văn ở phổ thông chủ yếu là để dạy người, dạy Ngữ
văn ở đại học mới là dạy nghề. Tuyệt đại đa số học sinh không đi theo
nghề văn, dù là dạy văn hay nghiên cứu văn học, mà họ cần văn học như
một nguồn dinh dưỡng tinh thần để sống ở đời. Hiện nay trên sách báo,
internet, bên cạnh những tác phẩm tinh hoa, xuất hiện đầy rẫy văn học
thứ cấp. Nhiều học sinh mê đắm tiểu thuyết ngôn tình, sa lầy vào đó, dần
dần mất cân bằng trong cảm thụ và có thể tự mình hủy hoại cảm xúc và thị
hiếu lành mạnh của mình. Cần đưa vào SGK trung học cơ sở những bài văn
đẹp về tình yêu không thiếu trong văn học Việt Nam hiện đại, để góp phần
giành lại tâm hồn của những học sinh chỉ biết có tiểu thuyết ngôn tình.
Cần khơi gợi cho học sinh trung học phổ thông nghĩ đến những vấn đề về
sự tồn vong của đất nước, về lý tưởng dân chủ, về thảm họa môi trường
sinh thái, về bi kịch của số phận con người để họ đứng cao hơn văn
chương thứ cấp.
Hai,
dạy Ngữ văn ở trường phổ thông là dạy tư tưởng hay tình cảm? Theo chúng
tôi, đây chủ yếu là dạy tình cảm, nhất là tình cảm thẩm mỹ. Tất nhiên,
trong văn học có tư tưởng, nhưng đó là tư tưởng hình tượng, tư tưởng
truyền bằng con đường tình cảm, chứ không phải tư tưởng chính trị và đạo
đức sống sượng. Chúng ta đã vượt qua giai đoạn văn nghệ minh họa, nhưng
dạy văn, học văn và thi văn hiện nay vẫn chưa thoát khỏi cung cách minh
họa nhằm diễn dịch cho những tư tưởng được ưu tiên truyền bá, và điều đó
không tránh khỏi gây ra phản tác dụng khi gặp phản ứng trái chiều nơi
những người trẻ vốn không muốn dạy văn một cách áp đặt. Chính vì vậy mà
văn liệu SGK phải là những tác phẩm hay, có sức truyền cảm, lay động
lòng người.
Ba,
dạy Ngữ văn ở trường phổ thông là dạy ngữ hay dạy văn? Quan điểm tích
hợp ngữ văn là một quan điểm mới mẻ, hiện đại, bởi, nói theo Humboldt,
“thi ca là nghệ thuật thông qua ngôn ngữ”. Nhưng suy cho cùng, văn học
như là nghệ thuật ngôn từ vẫn là môn chủ đạo của giáo dục nhân văn.
Trong các nhà giáo biên soạn SGK Ngữ văn trước đây và hiện nay, có những
nhà ngôn ngữ học uyên bác nhưng cũng rất cần những nhà khoa học nhạy cảm
với cái đẹp, có cảm thụ văn học tinh tế, đọc được nhiều tác phẩm văn học
để có thể chọn lựa và giải mã những văn bản nghệ thuật có giá trị tự
thân thay vì chỉ là công cụ để minh họa cho những kiến thức và luận đề
ngôn ngữ học. Những phương pháp mới gắn liền với những lý thuyết hiện
đại như phong cách học, thi pháp học, ký hiệu học, ngữ dụng học là để
trang bị cho người giáo viên phân tích và bình giảng hay hơn, sâu hơn
văn bản, chứ không phải là để nạp thêm kiến thức cho học sinh. Thật là
kỳ lạ, kiến thức ngôn ngữ học dạy ở trường phổ thông chưa bao giờ phong
phú như bây giờ, nhưng cũng chưa bao giờ học sinh viết tiếng Việt sai
chính tả và sai ngữ pháp nhiều như bây giờ.
Trong
giáo dục, người giáo viên cần được trang bị về phương pháp sư phạm, cụ
thể ở đây là phương pháp giảng dạy Ngữ văn. Nhưng có phương pháp hay đến
mấy mà dạy những bài văn mòn sáo, nhàm chán, tẻ nhạt và không phù hợp
với đối tượng tiếp nhận thì người giáo viên cũng không thể truyền được
tình yêu văn học cho học sinh.
Tất
nhiên chọn một bài văn để đưa vào SGK không phải là việc đơn giản. Phải
có một bề dày cảm thụ và kinh nghiệm văn học, phải am hiểu tâm sinh lý
học sinh, phải có vốn liếng văn học sâu rộng và có bản lĩnh khoa học thì
mới tìm được một văn bản hay nhất, tốt nhất để dạy cho một độ tuổi nhất
định. Đây phải là công việc của một tập thể chuyên môn, với sự đề xuất
và góp ý của đông đảo giáo viên, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu và phê
bình văn học. Nếu chọn đúng thì 30 năm nữa cũng chưa cần thay đổi SGK và
sẽ giảm bớt lời than phiền về hố sâu ngăn cách trong kỷ niệm văn học
giữa các thế hệ.
Giã
từ trường lớp, người học sinh có thể không còn nhớ những phân tích về
chủ đề, hình tượng, tư tưởng, thủ pháp… Chỉ vang lên trong họ những câu
thơ tráng khí hay thấm đẫm tình yêu mà thầy cô giáo đọc diễn cảm làm
rung động tâm hồn họ trong giờ học văn thời thơ ấu, hiện lên trong họ
những nhân vật trăn trở và khao khát lý tưởng như người bạn đồng hành
trên đường đời vạn dặm. Người ta có thể quên đi những lý thuyết cao siêu
về tự sự học hay diễn ngôn, nhưng sẽ nhớ ông đại tướng Carnot về trường
cũ thăm thầy giáo, nhớ cậu bé đeo cặp sách đi ngang qua vườn Luxembourg
một sáng mùa thu, nhớ người lãng du khắp năm châu bốn biển nhưng vẫn
thấy quê hương mình đẹp nhất. Văn học trong nhà trường là sợi dây kết
nối những tâm hồn như đã được thể hiện chân thành trong truyện ngắn
Tình nghĩa giáo khoa thư của Sơn Nam. Văn đó mới là thứ văn đích
thực, đáng dạy và đáng học, chứ không phải thứ văn để ngồi đếm hình dung
từ và làm bài tập phong cách học.
4.
Kết luận
Chúng
tôi thật sự hoan nghênh chương trình Ngữ văn mới đã thể hiện một bước
tiến rõ rệt về tư duy giáo dục lẫn quan niệm văn học, so với thời mà
kiến thức dạy văn còn sơ lược và công thức, dựa trên những văn bản thiên
về tính minh họa. Có thể thấy trong chương trình mới sự cập nhật cả về
lý thuyết lẫn văn liệu với những tác giả và tác phẩm có giá trị. Tuy
nhiên, vẫn còn có thể đầu tư sâu hơn để nâng cấp cho chương trình, nhất
là về văn liệu. Còn nhiều tác phẩm có giá trị cao của những tác giả tầm
cỡ, nhất là ở miền Nam, chưa được để ý tới (Nhất Hạnh, Võ Hồng, Bình
Nguyên Lộc, Nhật Tiến, Cao Huy Thuần…).
Một
chương trình Ngữ văn tốt cần hội đủ cả hai mặt: lý thuyết mới và văn
liệu hay. Nhưng nếu lý thuyết mới mà văn liệu tầm thường hoặc lý thuyết
cũ mà văn liệu đặc sắc thì biết làm sao? Trong hoàn cảnh khó xử đó, tôi
xin chọn phương án hai. Thà dạy theo lối cũ mà được tiếp cận thơ văn hay
thì vẫn hứng thú hơn là đem lý thuyết cao siêu làm sang cho những tác
phẩm trung bình khá.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Bài đã đăng Tạp chí Nghiên Cứu
Văn Học, số 8, tháng 8-2019.
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 13-10-20 |