Vai Trò
Của Đại Học, Báo Chí Và Xuất Bản
Trong
Việc Du Nhập Các Lý Thuyết Văn Học Phương Tây Vào Miền Nam Việt Nam
Giai Đoạn 1954-1975
Huỳnh
Như Phương
1.
Dẫn nhập
Cùng với quá trình hiện đại hóa văn học,
Việt Nam đã chứng kiến hoạt động du nhập các lý thuyết văn học
phương Tây từ đầu thế kỷ 20 như một nhân tố tác động đến lý luận và
sáng tác văn học theo hướng mở cửa và hội nhập với thế giới hiện
đại. Hoạt động này diễn biến khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử,
chịu sự chi phối của những yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa nhất
định. Những năm 1954-1975 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, khi
Việt Nam, do quy định của Hiệp định Genève, bị chia cắt thành hai
miền có chế độ chính trị khác nhau. Nếu ở miền Bắc, lý thuyết văn
học mác-xít và xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chính thống, thì ở miền
Nam các lý thuyết văn học đến từ phương Tây tranh chấp nhau ảnh
hưởng và gây ra những tác động đa chiều và đa dạng đến đời sống văn
học.
Hiện tượng du nhập các lý thuyết văn học phương Tây trên một mảnh
đất Đông Nam Á đang có chiến tranh chỉ có thể cắt nghĩa thấu đáo khi
chúng ta xem xét nó trong một bối cảnh rộng hơn: một xã hội phương
Đông đã kinh qua hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn minh phương Tây;
một chế độ chính trị muốn lấy mô hình dân chủ phương Tây làm kiểu
mẫu; những chủ trương và chính sách văn hóa của những nhà cầm quyền
từng được đào tạo trong chính hệ thống Âu-Mỹ.
Nhìn trong một phối cảnh hẹp hơn, có thể lý giải việc du nhập các lý
thuyết văn học phương Tây ở miền Nam trong sự tác động và ảnh hưởng
của nhà trường đại học và hoạt động báo chí, xuất bản. Nói cách
khác, trong những năm 1954-1975, các lý thuyết văn học phương Tây
(chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hiện tượng luận, cấu trúc luận,
tiểu thuyết mới, phê bình mới…) được du nhập vào miền Nam qua ba con
đường chính: nhà trường đại học, báo chí và xuất bản. Có thể nói qua
việc truyền bá tư tưởng văn nghệ Âu-Mỹ, Đại học, báo chí và xuất bản
đã tác động đến giới sáng tác, phê bình văn học và trong một phạm vi
nhất định, gây ảnh hưởng đến thị hiếu văn học của công chúng.
2.Vai trò của Đại học
Ở Việt Nam, dưới thời phong kiến, nền giáo dục và khoa cử chịu ảnh
hưởng triết lý và học phong Nho giáo. Quốc tử giám là mô hình đại
học đầu tiên đào tạo ra những nhân tài cho đất nước theo mẫu người
quân tử phương Đông. Cho đến thế kỷ 19, trong khi ở phương Tây mô
hình đại học theo kiểu mới như đại học Humboldt đã hình thành, thì ở
Việt Nam, nhà trường vẫn nằm trong quỹ đạo truyền thống. Đến cuối
thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, cuộc vận động hiện đại hóa từ lĩnh vực
kinh tế - xã hội dần dần lan đến các lĩnh vực giáo dục, văn học, báo
chí, xuất bản.
Riêng trong lĩnh vực khoa học về văn học, đầu thế kỷ 19 trở về trước
ở phương Tây chưa hình thành một đội ngũ những nhà nghiên cứu, lý
luận, phê bình chuyên nghiệp: họ thường là những nhà thơ (như T.
Tasso, J. W. Goethe…) hay nhà triết học, mỹ học (như A. Baumgarten,
G. Lessing…) bàn về văn học. Đến thế kỷ 19, việc thành lập các khoa
Văn học và Khoa học nhân văn đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của
đội ngũ nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình chuyên nghiệp đồng thời là
các giáo sư chuyên giảng dạy văn học trong nhà trường đại học.
Còn ở Việt Nam, vào những năm 30 thế kỷ 20, nghĩa là khoảng một thế
kỷ sau so với phương Tây, nền nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học
chuyên nghiệp mới thực sự ra đời. Và nếu ở phương Tây thế kỷ 19, các
nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình chuyên nghiệp xuất hiện trong bối
cảnh một nền đại học phát triển, thì ở Việt Nam giới này lại được
rèn luyện trong môi trường hoạt động văn hóa, báo chí, xuất bản nói
chung chứ không phải trực tiếp trong lĩnh vực giáo dục, thậm chí có
thể nói ngược lại rằng chính họ làm biến cải tính chất của nền giáo
dục.
Nền đại học Việt Nam theo mô hình hiện đại, với một số trí thức được
đào tạo ở phương Tây (như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường…) được
xây dựng trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt – Pháp (1945-1954), do
hoàn cảnh đất nước, chưa kịp làm gì nhiều trong việc tiếp thu các
thành tựu lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây. Cho đến khi miền
Nam Việt Nam có điều kiện tiếp xúc sâu rộng với văn hóa phương Tây
vào những năm 1954-1975, thì quy luật hiện đại hóa nghiên cứu, lý
luận, phê bình văn học mới có điều kiện phát huy tác dụng một lần
nữa. Có thể nói, sau một thế kỷ, như một quy luật, đại học miền Nam
đi theo tinh thần của Đại học Humboldt, và với vai trò của nó, một
nền nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học mới từng bước hình thành
trên cơ sở tiếp thu nguồn ảnh hưởng phương Tây, đồng thời kế thừa
kết quả của những học giả trước Cách mạng Tháng Tám vốn cũng chịu
ảnh hưởng của khoa nghiên cứu văn học phương Tây qua con đường của
báo chí, xuất bản hơn là của nhà trường.
Như vậy, nói đến sự du nhập các lý thuyết văn học phương Tây ở miền
Nam Việt Nam, trước hết cần chú ý vai trò của đại học. Dưới thời Đệ
nhất Cộng hòa, Đại hội Giáo dục quốc gia, được tổ chức ở Sài Gòn năm
1958 đề ra ba nguyên tắc “nhân bản, dân tộc và khai phóng”. Nguyên
tắc thứ nhất thứ nhất khẳng định mục tiêu phục vụ con người, xem con
người là giá trị tối thượng. Nguyên tắc thứ hai chi phối việc giảng
dạy, phổ biến văn hóa dân tộc trên nền tảng đạo đức truyền thống,
thu hồi chủ quyền quốc gia đối với các cơ sở giáo dục, chuyển ngôn
ngữ chính trong giảng dạy từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Nguyên tắc
thứ ba hướng nền giáo dục đến con đường tương lai của nhân loại, đề
cao việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tiếp cận những thành
tựu khoa học hiện đại trên thế giới.
Ba nguyên tắc nói trên gắn liền với chủ
trương vừa “bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền
thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc”, vừa “tiếp nhận tinh thần dân
chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào
việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ, tiếp
cận với văn minh thế giới”[1].
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp
đổ và chính quyền miền Nam rơi vào tay giới quân sự, ba
nguyên tắc trên được tái khẳng định, với một vài điều chỉnh về ngôn
từ, trong Đại hội Giáo dục toàn quốc tổ chức tại Sài Gòn năm 1964.
Trong cuộc họp báo của Nội các chiến tranh ngày 27-7-1966, Nguyễn
Lưu Viên, phó chủ tịch đặc trách văn hóa xã hội, đã đọc diễn văn,
nêu rõ: “chánh sách văn hóa giáo dục phải theo định luật của sự phát
triển của một nước chậm tiến nông nghiệp mới thu hồi độc lập đang
vươn mình để tiến trên con đường phát triển kinh tế, xây dựng dân
chủ, mà không mất bản sắc truyền thống của dân tộc, kiến tạo một xã
hội tiến bộ mà không mất gốc rễ”[2].
Tất nhiên đó là những chủ trương trên lý thuyết.
Trong chương trình trung học, ngay từ năm
cuối, ở lớp 12 – trước năm 1970 gọi là lớp đệ nhất – học sinh đã
bước đầu tiếp xúc khái quát với tư tưởng phương Tây. Học sinh tất cả
các chuyên ban phải học hai môn đạo đức học và luận lý học (lô-gích
học), riêng học sinh ban C còn học thêm hai môn tâm lý học và siêu
hình học. Họ đã làm quen một sách sơ lược với quan niệm của Socrate,
Platon, Aristote, Descartes, Kant, Hegel, Durkheim, Comte, Bergson,
Freud, Sartre... Đặc biệt, môn tâm lý học dạy những bài có liên quan
đến các lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây như “Ý thức và vô
thức”, “Đau khổ và khoái lạc”, “Cảm xúc”, “Đam mê”, “Cảm giác và tri
giác”, “Ảnh tượng và trí tưởng tượng”, “Ký ức và hoài niệm”, “Ngôn
ngữ và liên tưởng”…[3].
Nhờ vậy, khi vào học các trường đại học văn khoa, những học sinh này
không thấy xa lạ với những triết thuyết phương Tây được trình bày
một cách hệ thống và cặn kẽ hơn.
Trên lãnh vực giáo dục đại học, năm 1957, Viện Đại học Sài Gòn, Viện
Đại học Huế và Viện Đại học Đà Lạt được thành lập. Ở cả ba viện đại
học này đều có trường/ phân khoa đại học Văn khoa, với tư cách là
trung tâm nghiên cứu và giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân
văn: triết học, văn chương, lịch sử, tâm lý học, xã hội học… Ở
trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, đảm trách việc giảng dạy các chứng
chỉ có liên quan đến tư tưởng Âu – Mỹ là những giáo sư nổi tiếng:
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Kiết, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê
Thành Trị, Nguyễn Khắc Hoạch, Đỗ Khánh Hoan…, về sau được tiếp nối
bởi những giảng viên trẻ hơn: Trần Đỗ Dũng, Đặng Phùng Quân, Nguyễn
Trọng Văn, Lê Tử Thành, Trương Thị Diệu Lan… Ở trường Đại học Văn
khoa Huế, những tên tuổi gắn liền với việc phổ biến tư tưởng Âu – Mỹ
có thể kể là Cao Văn Luận, Lâm Ngọc Huỳnh, Lê Thanh Minh Châu,
Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Nguyễn Ngọc Lan, Bửu Ý, Lê Khắc Cầm… Tạp
chí Đại học và Ban tu thư
đại học đầu tiên của miền Nam xuất phát từ Viện Đại học Huế.
Hai viện đại học Sài Gòn và Huế là cơ sở đào tạo công lập. Còn Viện
Đại học Đà Lạt là cơ sở tư thục thuộc quyền sở hữu của Hội Đại học
Đà Lạt mà hội viên là các giám mục thuộc Giáo hội Công giáo Việt
Nam, được phép hoạt động từ ngày 8-8-1957 và chính thức thu nhận
sinh viên từ đầu năm học 1958-1959. Đại học Đà Lạt có hội đồng quản
trị mà chủ tịch đầu tiên là giám mục Nguyễn Văn Bình, viện trưởng
đầu tiên là linh mục Nguyễn Văn Lập. Trường Đại học Văn khoa ở đây
do linh mục Lê Văn Lý làm khoa trưởng, thu hút sự cộng tác của các
giáo sư Nguyễn Thế Anh, Bùi Xuân Bào, Phạm Văn Diêu, Trần Thái Đỉnh,
Lê Xuân Khoa, Vũ Khắc Khoan, Bửu Lịch, Trần Trọng San, Nguyễn Sỹ Tế,
Lê Thành Trị, Nguyễn Văn Trung, Trần Minh Cẩm (Thiện Cẩm), Trương Bá
Cần, Nguyễn Khắc Dương, Phạm Cao Dương, Bửu Dưỡng, Phan Khoang, Lê
Hữu Mục, Lê Trung Nhiên, Lý Chánh Trung… Chính nơi đây đã đào tạo
những khóa thầy cô giáo dạy triết học đầu tiên cho các trường trung
học ở miền Nam. Kỷ yếu của nhà trường còn ghi tên những sinh viên
tốt nghiệp sau này trở thành nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn
học và triết học: Hoàng Ngọc Biên, Vĩnh Đễ, Uông Đại Bằng, Nguyễn
Xuân Hoàng, Huỳnh Thanh Tâm (Huỳnh Phan Anh), Nguyễn Trọng Văn,
Nguyễn Văn Lục, Trần Đỗ Dũng, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Nhật Duật, Võ Văn
Điểm (Võ Trường Chinh), Nguyễn Quang Tuyến… Đại học Đà Lạt cho xuất
bản tạp chí Tri Thức,
công bố một số bài viết giới thiệu các hiện tượng chịu ảnh hưởng
khuynh hướng triết học và văn học phương Tây.
Ở Sài Gòn, năm 1964, Khối Ấn Quang thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh do Thượng tọa Thích Minh
Châu làm Viện trưởng. Các phân khoa Phật học, Văn học và Khoa học
nhân văn của Viện thu hút nhiều giáo sư nổi tiếng: Thích Mãn Giác,
Thích Nguyên Tánh (Phạm Công Thiện), Lê Mạnh Thát, Ngô Trọng Anh,
Kim Định, Lê Tôn Nghiêm… Viện thành lập Ban Tu thư và xuất bản tạp
chí Tư Tưởng, đăng nhiều
bài nghiên cứu sâu sắc về Thiền học, giáo dục học, hiện tượng luận,
cấu trúc luận… Ba năm sau, 1967, như một đối trọng với Khối Ấn
Quang, Khối Việt Nam Quốc tự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất cũng thành lập Viện Đại học Phương Nam và Văn khoa là một trong
ba phân khoa của Viện.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, năm 1966, Viện Đại học Cần Thơ được thành
lập, với bốn phân khoa, trong đó có Văn khoa. Viện ra mắt tạp chí
An Bình. Sau đó, những cơ
sở đào tạo khác lần lượt ra đời: Viện Đại học Phương Nam (1967),
Viện Đại học An Giang (1970) Viện Đại học Cao Đài (1970), Viện Đại
học Minh Đức (1970).
Các trường đại học thiên về khoa học xã hội và nhân văn ở miền Nam
(như Đại học Văn khoa, Đại học Vạn Hạnh, Đại học Đà Lạt, Đại học
Minh Đức…) chủ yếu tuyển sinh bằng hình thức ghi danh (đăng ký) chứ
không qua thi tuyển. Hàng năm ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn có
đến gần 1.000 sinh viên theo học các ban Văn chương và Triết học,
trong đó nhiều người là viên chức vừa làm vừa học.
Trong việc giới thiệu và quảng bá tư tưởng triết học, mỹ học và văn
học phương Tây, có thể khẳng định rằng đại học miền Nam, tập trung
là các trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Huế, Viện Đại học Đà Lạt,
Viện Đại học Vạn Hạnh, đóng một vai trò rất quan trọng. Trong điều
kiện một nền tự trị đại học còn sơ khai và hạn chế, ở các viện đại
học, bên cạnh những phân khoa Phật học, Triết học Đông phương thu
hút những nhà nghiên cứu về tư tưởng văn học Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản…; các phân khoa Văn học và Triết học Tây phương là tác nhân cho
sự ra đời của những công trình nghiên cứu về tư tưởng văn học Âu-Mỹ.
Đó cũng là nhu cầu tự thân của một nền đại học theo quỹ đạo giáo dục
phương Tây. Thiết kế theo hệ thống chứng chỉ, chương trình đào tạo
của các trường đại học Văn khoa hay các phân khoa Khoa học nhân văn
đều có những môn học liên quan đến một số lý thuyết triết học và văn
học phương Tây hiện đại.
Việc giới thiệu và giảng dạy rộng rãi, đa
dạng các khuynh hướng triết học và văn học phương Tây, một mặt thỏa
mãn nhu cầu có tính thời thượng của công chúng, mặt khác đáp ứng một
đòi hỏi về kiến thức toàn diện mà đại học trang bị cho sinh viên.
Trên thực tế, Nguyễn Văn Trung không chỉ nghiên cứu, giảng dạy về
chủ nghĩa hiện sinh mà cả về triết học Phật giáo (Biện
chứng giải thoát trong Phật giáo), Marx (Nhận
diện Marx), Lenin (Bài
học cách mạng của Lenin), cấu trúc luận, tiểu thuyết mới… Cũng
vậy, Trần Thái Đỉnh còn nghiên cứu, giảng dạy về triết học
Descartes, Kant, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, biện chứng
pháp Platon, Hegel, Marx… Lê Tôn Nghiêm còn viết về Socrate, triết
học cổ đại và trung đại… Việc phổ biến tư tưởng triết học và văn học
Âu-Mỹ trong bối cảnh một nền đại học mới xây dựng muốn cập nhật
những thành tựu của văn minh phương Tây là điều dễ hiểu.
Chính môi trường đại học đã tập hợp và đào
tạo những nhà nghiên cứu triết học và văn học, góp phần làm xuất
hiện những nhà văn, nhà phê bình văn học chịu ảnh hưởng tư tưởng văn
học phương Tây, đồng thời tạo điều kiện hình thành một công chúng
yêu thích triết học và văn học phương Tây. Nhờ tính độc lập, dù là
tương đối, với chính sách của nhà cầm quyền, mà giáo dục đại học ở
miền Nam phần nào chứng minh cho nhận định của K. Jaspers: “Nếu
trường đại học phục vụ khoa học và học thuật và nếu khoa học và học
thuật chỉ có ý nghĩa trong chừng mực chúng là bộ phận của một đời
sống trí thức toàn diện, thì đời sống trí thức này chính là huyết
mạch của trường đại học”[4].
3.
Vai trò của báo chí và xuất bản
Cùng với đại học, với sự phát triển về số lượng và sự đa dạng về
khuynh hướng, báo chí và xuất bản có vai trò hết sức quan trọng
trong việc giới thiệu, quảng bá các lý thuyết văn học phương Tây.
Trong thế giới báo chí phong phú và phức tạp ở miền Nam, có thể nói
đến sự đóng góp của một số tạp chí định kỳ trên lĩnh vực này.
Trong số các tạp chí định kỳ đăng tải
những bài nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, có thể chia ra
thành hai loại: Loại thứ nhất là những tạp chí có tính chất học
thuật do các trường đại học xuất bản, là tiếng nói chính thức của
trường đại học đó, hoặc do người từ giới đại học đứng ra thành lập.
Loại tạp chí này thường đăng những bài nghiên cứu chuyên sâu, uyên
bác, có giá trị học thuật, nên kén chọn độc giả và lưu hành không
thật rộng rãi. Trong loại này có thể kể Tạp chí
Đại Học của Viện Đại học
Huế, do linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng kiêm chủ nhiệm, nơi đăng
bài của các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Lê Tuyên, Nguyễn Nam Châu…;
Tạp chí Tư Tưởng của Viện
Đại học Vạn Hạnh, do Thượng tọa Thích Minh Châu làm chủ nhiệm, tập
hợp những giáo sư là tu sĩ Phật giáo hay những người cộng tác với
viện đại học này: Nguyễn Đăng Thục, Thích Quảng Độ, Bùi Tường Huân,
Phạm Công Thiện, Ngô Trọng Anh, Lê Tôn Nghiêm, Tuệ Sỹ, Như Hạnh…;
Tạp chí Tri Thức của Viện
Đại học Đà Lạt, do linh mục
Mai Văn Hùng làm chủ nhiệm, có sự
cộng tác của các giáo sư, học giả Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh,
Nguyễn Khắc Dương, Thiện Cẩm, Kim Định, Nguyễn Văn Hòa, Cung Giũ
Nguyên, Đỗ Ngọc Long, Nguyễn Bạt Tụy…; Tạp chí
Nghiên Cứu Văn Học do
linh mục Thanh Lãng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, có sự cộng tác của
các giáo sư ở Đại học Văn khoa Sài Gòn: Nguyễn Văn Trung, Phạm Việt
Tuyền, Nguyễn Khắc Ngữ, Phạm Cao Dương, Nguyễn Trọng Văn… ; Tạp chí
Văn Khoa do một nhóm giáo
sư Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn chủ trương, do Nguyễn Thiên Thụ
làm chủ bút, có sự tham gia của Nguyễn Khuê, Trần Đỗ Dũng, Trần
Quang Huy, Trần Trọng San, Nguyễn Văn Sâm…
Loại thứ hai là những tạp chí kết hợp đăng những bài nghiên cứu, lý
luận, phê bình với sáng tác văn học. Loại này hầu hết do những nhà
văn hay học giả ngoài giới đại học chủ trương. Những bài nghiên cứu,
lý luận, phê bình trên các tạp chí này thường gắn liền với thời sự
văn học hiện đại, đáp ứng nhu cầu trực tiếp của người sáng tác và
công chúng rộng rãi, nên sức phổ biến mạnh và tính khuynh hướng cũng
bộc lộ rõ hơn loại thiên về học thuật trên đây.
Trong loại này, có thể chia thành hai tiểu loại. Một là những tạp
chí chuyên về văn học nghệ thuật. Đó là
Sáng Tạo do Mai Thảo chủ
biên; Văn do Nguyễn Đình
Vượng làm chủ nhiệm, Trần Phong Giao, Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Thảo
lần lượt làm thư ký tòa soạn;
Khởi Hành và Thời Tập
do Viên Linh chủ biên; Văn
Nghệ do Lý Hoàng Phong làm chủ nhiệm;
Hiện Đại và Nhà
Văn do Nguyên Sa chủ
trương; Văn Học do Phan
Kim Thịnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút;
Giữ Thơm Quê Mẹ do Nhất
Hạnh làm chủ nhiệm, Trụ Vũ và Hoài Khanh lần lượt làm thư ký tòa
soạn…
Tiểu loại thứ hai là những tạp chí liên ngành chính trị, xã hội, văn
hóa, văn nghệ, trong đó có đăng những bài nghiên cứu, lý luận, phê
bình văn nghệ. Đó là trường hợp
Bách Khoa do Hoàng Minh
Tuynh rồi Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm,
Hành Trình và
Đất Nước do Nguyễn Văn
Trung làm chủ nhiệm, Lý Chánh Trung làm chủ bút,
Trình Bầy do Thế Nguyên
làm chủ nhiệm kiêm chủ bút…
Những công trình nghiên cứu, dịch thuật có liên quan đến các lý
thuyết văn nghệ phương Tây được các học giả trong và ngoài giới đại
học thực hiện, ngoài một số được công bố trên các tạp chí nói trên,
phần lớn được xuất bản thành sách. Qua danh mục xuất bản, có thể ghi
nhận tính khuynh hướng của những nhà xuất bản có in sách liên quan
đến các lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây. Khuynh hướng giáo
khoa (Trí Đăng, Lửa Thiêng) in sách của Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn
Xung, Nguyễn Thiên Thụ, Trần Đỗ Dũng, Đặng Phùng Quân… Khuynh hướng
hiện đại hóa (Thời Mới, Giao Điểm, Ca Dao) in sách của A. Maurois,
A. Camus, K. Jaspers, G. Gusdorf, M. Heidegger, A. Niel, I.
Bochenski, F. Challaye, W. Kaufmann, Trần Thái Đỉnh, Tràng Thiên,
Đặng Tiến… Khuynh hướng Phật giáo nhập thế (Lá Bối, An Tiêm) in sách
của Krishnamurti, S. Freud, M. Heidegger, Nhất Hạnh, Phạm Công
Thiện… Khuynh hướng Công giáo dấn thân (Nam Sơn, Trình Bầy) in sách
của Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm,
Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Vũ Đình Lưu, Hoàng Ngọc Biên, Thế Nguyên…
Ngoài ra, một số nhà xuất bản khác: Kinh Thi, Tân An, Ra Khơi, Thế
Sự, Hồng Đức, Nhị Nùng, Trẻ, Tổ Hợp Gió, Hoàng Đông Phương, Đại Nam
Văn Hiến… cũng góp phần
nhất định vào việc phổ biến tư tưởng văn nghệ phương Tây.
Ở đây có thể điểm qua một số nhà xuất bản tương đối nổi bật. Nhà
xuất bản (Nxb) Thời Mới do Võ Phiến chủ trương, xuất bản một số sách
về trào lưu văn học hiện đại như
Những trào lưu lớn của tư
tưởng hiện đại của A. Maurois (Bản dịch của Trần Phong Giao,
1964), Văn học Nga-xô hiện
đại của Tràng Thiên (1965)… Xuất bản năm 1963,
Tiểu thuyết hiện đại của
Tràng Thiên là cuốn sách trình bày khá sớm một quan niệm cách tân về
xây dựng cốt truyện, nhân vật và kỹ thuật của tiểu thuyết. Tác giả
cũng giới thiệu sơ lược phong cách nghệ thuật của năm tiểu thuyết
gia có ảnh hưởng quan trọng trong văn học thế kỷ 20: W. Faulkner, C.
Simon, T. Capote, A.-R. Grillet, U. Johnson… Chuyên khảo
Triết học hiện sinh của
Trần Thái Đỉnh, do Thời Mới in năm 1967, trở thành một hiện tượng
xuất bản. Những chương của cuốn sách này đã được công bố trên tạp
chí Bách Khoa đầu những
năm 1960 với bút hiệu Trần Hương Tử, nhưng khi khởi thảo, tác giả có
chủ định xây dựng thành một công trình hệ thống, cân đối. Trong tinh
thần đó, cuốn sách giới thiệu một cách hiểu về chủ nghĩa hiện sinh,
hai ngành hữu thần và vô thần của nó, sau đó là những tác gia chủ
yếu của trào lưu này: Kierkegaard, Nietzsche, Husserl, Jaspers,
Marcel, Sartre, Heidegger. Mặc dù Trần Thái Đỉnh có khá nhiều định
kiến với chủ nghĩa hiện sinh vô thần, chuyên khảo này là một tài
liệu tham khảo có giá trị cho đến ngày nay.
Ra mắt cùng thời và có khuynh hướng gần gũi với Nxb Thời Mới, Nxb
Giao Điểm của Trần Phong Giao xuất bản, bên cạnh tủ sách sáng tác và
dịch thuật, một số sách bàn luận về văn học Pháp và văn học Việt Nam
như Sứ mệnh văn nghệ hiện đại
của A. Camus (Bản dịch của Trần Phong Giao),
Vũ trụ thơ của Đặng Tiến,
Chúng ta qua cách viết
của Võ Phiến…
Hai nhà xuất bản do các tu sĩ Phật giáo có tinh thần dân tộc sáng
lập là Lá Bối và An Tiêm đã cho ra mắt nhiều cuốn sách công phu về
triết học và văn học. Lá Bối do Nhất Hạnh và Từ Mẫn chủ trương, xuất
bản nhiều sách về tư tưởng triết học và văn học phương Tây, đồng
thời với sách về tư tưởng phương Đông, đề cao sự nhập cuộc và hiện
đại hóa của Phật giáo. An Tiêm, do Thanh Tuệ chủ trương, cũng gần
với khuynh hướng Phật giáo nhập cuộc và hiện đại hóa của Lá Bối,
nhưng có phần “phá cách” hơn. Nơi đây ấn hành bản dịch của những
công trình có giá trị, như
Đường vào hiện sinh của Krishnamurti (Bản dịch của Trúc Thiên,
1969), Văn học thế giới hiện
đại của nhiều tác giả (Bản dịch của Bửu Ý, 1973), có cả những
công trình nổi tiếng thế giới nhưng chưa hẳn phù hợp với quan điểm
Phật giáo thuần thành, như
Nghiên cứu phân tâm học của S. Freud (Bản dịch của Vũ Đình Lưu,
1969), Triết lý là gì?
của M. Heidegger (Bản dịch của Phạm Công Thiện, 1969).
Những cuốn sách mang tinh thần “phá cách” và “phá chấp” nhất do An
Tiêm xuất bản là của Phạm Công Thiện, tức Thích Nguyên Tánh:
Hố thẳm của tư tưởng,
Im lặng của hố thẳm, đặc
biệt là Ý thức mới trong văn
nghệ và triết học. Là người có tư duy triết học sâu sắc kết hợp
với cảm quan nghệ sĩ tinh tế, vừa được đào tạo quy củ, vừa có tinh
thần “nổi loạn” với nhà trường và xã hội, Phạm Công Thiện đã đặt lại
nhiều vấn đề tư tưởng và văn hóa, khiến một số thức giả đương thời
phiền lòng, nhưng lại cảm hóa và thu hút nhiều độc giả trẻ. Mang
tinh thần chủ toàn của đạo học Đông phương, Phạm Công Thiện kết hợp
triết học và mỹ học phương Tây với tinh thần Phật giáo. Là những bài
viết đăng rải rác trên các tạp chí được tập hợp, những cuốn sách của
ông phản ánh “tâm trạng của một người bị giam hãm trong đời sống”,
như lời tác giả, nhiều khi chứa đựng những ẩn dụ thi vị của một
triết nhân hơn là những luận chứng chặt chẽ của một nhà khoa học.
Trong khi đó, Nam Sơn và Trình Bầy là hai nhà xuất bản quy tụ nhiều
trí thức Công giáo khuynh tả dấn thân. Nam Sơn công bố nhiều công
trình nghiên cứu sâu sắc về khoa học xã hội và nhân văn mà ít sáng
tác văn học. Hầu hết sách của Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn, Lý
Chánh Trung đều thuộc tủ sách
Nghiên cứu xã hội của Nxb này, trong đó phổ biến rộng nhất có
thể kể: Triết học tổng quát,
Đưa vào triết học,
Lược khảo văn học (3
tập), Ca tụng thân xác,
Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết,
Hành trình trí thức của Karl
Marx, Nhận định (6
tập) của Nguyễn Văn Trung;
Hành trình đi vào triết học,
Tìm hiểu đời sống xã hội,
Xã hội và con người,
Tìm hiểu triết học của Karl
Marx của Trần Văn Toàn;
Tìm về dân tộc, Cách mạng
và đạo đức, Ba năm xáo
trộn của Lý Chánh Trung…
Thành lập muộn hơn Nxb Nam Sơn, Nxb Trình Bầy do Thế Nguyên đứng tên
xin phép, in cả sáng tác và khảo luận, đặc biệt có tủ sách
Nghiên cứu triết học do
Nguyễn Ngọc Lan điều khiển và tủ sách
Nghiên cứu và phê bình văn
học do Đỗ Long Vân điều khiển. Tủ sách thứ nhất cho ra đời một
số công trình khá độc đáo như
Descartes, nhìn từ phương Đông của Nguyên Sa;
Đâu là căn nguyên tư tưởng
hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger của Lê Tôn Nghiêm,
Luận lý và tư tưởng trong
huyền thoại (Đặt lại vấn đề văn minh với C. Lévi-Strauss) của
Trần Đỗ Dũng… Tủ sách thứ hai có
Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân
Hương và Vô Kỵ giữa chúng
ta (Hiện tượng Kim Dung) của Đỗ Long Vân,
Mấy vấn đề văn nghệ của
Lữ Phương, Một bông hồng cho
văn nghệ của Nguyên Sa,
Ngôn ngữ và thân xác của Nguyễn Văn Trung,
Sinh khí và nhịp điệu của
Vũ Đình Lưu, Marcel Proust –
con người xã hội và Tuyển
tập các nhà văn Pháp hiện đại của Hoàng Ngọc Biên … Hoạt động
của cả tạp chí và Nxb cùng tên Trình Bầy cho thấy một khuynh hướng
trí thức có tinh thần dân chủ – xã hội ở miền Nam, đồng thời rất coi
trọng việc học tập tri thức phương Tây.
Nxb Ca Dao do Hoài Khanh sáng lập đã ấn hành một loạt dịch phẩm
nghiêm túc và có chất lượng cao:
Triết học nhập môn của K.
Jaspers (Bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, 1974),
Kierkegaard – người chứng của
chân lý của G. Gusdorf (Bản dịch của Tôn Thất Hoàng, 1969),
Siêu hình học là gì? của
M. Heidegger (Bản dịch của Trần Công Tiến, 1974),
Những tiếng kêu lớn của chủ
nghĩa nhân bản hiện đại của A. Niel (Bản dịch của Mạnh Tường,
1969), Triết học Tây phương
hiện đại của I. Bochenski (Bản dịch của Tuệ Sỹ, 1969),
Nietzsche – cuộc đời và triết
lý của F. Challaye (Bản dịch của Mạnh Tường, 1969),
Nghệ thuật, truyền thống và
chân lý của W. Kaufmann (Bản dịch của Hoài Khanh, 1967)…
Nxb Lửa Thiêng do một nhóm giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn sáng
lập, xuất bản sách sử dụng trong nhà trường đại học. Về tư tưởng
phương Tây, có những cuốn
Triết học và khoa học,
Triết học và văn chương,
Chân dung triết gia của Đặng Phùng Quân,
Văn học và ngữ học (2
quyển) của Bùi Đức Tịnh, Thẩm
mỹ học thông khảo của Nguyễn Văn Xung,
Descartes của Trần Đỗ
Dũng… Đáng chú ý nhất trong số đó là công trình
Thẩm mỹ học thông khảo
(1974) của Nguyễn Văn Xung, trình bày mạch lạc một số học thuyết
thẩm mỹ phương Tây như thuyết “cái đẹp phi khái niệm” của Kant,
thuyết “trực giác và hình tướng” của D. Croce, thuyết “cự ly tâm lý”
của Bullough, thuyết “di tình tác dụng” hay “vật ngã đồng nhất” của
Lipps, thuyết “nội mô phỏng” của Munsterberg, K. Groos và Vernon
Lee. Mặc dù có phần chịu ảnh hưởng từ công trình
Tâm lý văn nghệ của Chu
Quang Tiềm, cuốn sách của Nguyễn Văn Xung có lẽ là một trong những
công trình sớm nhất ở nước ta giới thiệu một cách hệ thống các
trường phái mỹ học phương Tây hiện đại, bước đầu vận dụng giải thích
một số hiện tượng văn nghệ Việt Nam.
Sự truyền bá tư tưởng mỹ học và văn học phương Tây được nhận diện
trực tiếp và rõ ràng nhất qua các công trình dịch thuật và nghiên
cứu những nền văn hóa khác nhau: Pháp, Đức, Mỹ… Trong các kênh
truyền dẫn tư tưởng phương Tây vào miền Nam, trực tiếp nhất vẫn là
kênh dịch thuật. Nhiều công trình nghiên cứu và sáng tác của các tác
gia Âu-Mỹ đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt có thể xem là đóng góp
rõ rệt nhất của các dịch giả miền Nam. Những năm gần đây, một số
dịch phẩm này đã được phép tái bản, trở thành tài liệu tham khảo cho
giới nghiên cứu nước ta, chẳng hạn sách của F. Nietzsche, S.
Kierkegaard, S. Freud, M. Heidegger, K. Jaspers, J.-P. Sartre, A.
Camus, A. Gide, S. de Beauvoir… Các cuốn sách
Tổng kết văn học thế kỷ 20
(Bản dịch của Phạm Đình Khiêm, Đại học Huế xb, 1963) và
Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn
học châu Âu thế kỷ 20
(Bản dịch của Vũ Đình Lưu, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb,
1971) của R. Albérès, Văn học
thế giới hiện đại (Bản dịch của Bửu Ý, Nxb An Tiêm, 1973) của R.
Albérès và các cộng sự, Tiểu
thuyết hiện đại (Bản dịch của Dương Thanh Bình, Phủ Quốc vụ
khanh đặc trách văn hóa xb, 1971) của D. Brewster và J. A. Burrell
cũng là những trường hợp đưa tư tưởng văn học phương Tây đến với
công chúng miền Nam bằng con đường dịch thuật. Gần như đồng thời với
dịch thuật là các công trình biên khảo, tổng thuật, giới thiệu các
trào lưu và tác gia tư tưởng Âu-Mỹ, từ khái quát đến cụ thể. Gần đây
có một ít cuốn sách dạng này được tái bản, như sách của Trần Thái
Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn, Huỳnh Phan
Anh…
Về mặt xuất bản và phát hành, dân số miền Nam giai đoạn 1954-1975
khoảng 20 triệu người, tức là chưa bằng một phần tư hiện nay, nhưng
tirage sách khảo cứu lý luận, phê bình trung bình khoảng 2.000, còn
tạp chí văn học khoảng 3.000. Cá biệt có trường hợp như cuốn
Triết học hiện sinh của
Trần Thái Đỉnh in hai lần, số lượng lên đến 7.000 cuốn.
Tư tưởng văn nghệ hiện đại Âu - Mỹ được
phân tích và giới thiệu cặn kẽ trên các trang tạp chí trước khi tập
hợp để xuất bản thành sách đã có ảnh hưởng nhất định đến các nhà
văn. Cùng với điều đó là việc dịch thuật và quảng bá các tác phẩm
văn học cổ điển và hiện đại nước ngoài. Phân tâm học, hiện tượng
luận, kỹ thuật dòng ý thức được vận dụng vào việc miêu tả thế giới
và con người trong văn xuôi. Những sáng tác thơ, truyện, kịch chịu
ảnh hưởng tư tưởng văn nghệ Âu-Mỹ một cách gián tiếp thông qua những
hình tượng là những hiện tượng phức tạp và luôn gây tranh cãi.
Trường hợp này đang được đánh giá và chọn lọc rất dè dặt, vì khối
lượng tác phẩm quá lớn, đòi hỏi một lực lượng nghiên cứu đông đảo.
Gần đây, chỉ có một số rất ít tác phẩm thuộc loại này được nhắc đến
một cách thận trọng trên báo chí. Ngoài ra, còn có thể nói đến ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của tư tưởng văn nghệ phương Tây
trong quan niệm sống và lối sống của một bộ phận công chúng, đòi hỏi
cần có sự khảo sát kỹ lưỡng, đặc biệt qua những cuộc điều tra xã hội
học.
4.
Kết luận
Trên đây có thể xem là những phương diện khác nhau của bức tranh
toàn cảnh về sự du nhập các lý thuyết văn nghệ phương Tây ở miền
Nam. Cùng với điều đó, và có lẽ quan trọng hơn, là đi sâu nghiên cứu
những trào lưu tư tưởng với những tác gia của nó, đã được truyền bá,
tiếp thu và gây ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau trong đời sống
văn học nghệ thuật miền Nam như thế nào. Đó là chủ nghĩa hiện sinh,
phân tâm học, tiểu thuyết dòng ý thức, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa
Marx, lý thuyết tíếp nhận…
Ở đây có hai hiện tượng cần đặc biệt nhấn mạnh. Hiện tượng thứ nhất
là chủ nghĩa hiện sinh, trào lưu gây nhiều ảnh hưởng trái nghịch
nhất, được tiếp thu cả từ phía những người khuynh tả lẫn những người
khuynh hữu, những người vô thần lẫn những người hữu thần, từng được
đề cao hết lời nhưng cũng bị đả kích kịch liệt. Nó đã tác động không
chỉ trong lĩnh vực văn học mà cả trong lĩnh vực âm nhạc, hội họa,
sân khấu, điện ảnh…
Hiện tượng thứ hai là mỹ học, lý luận - phê bình văn học mác-xít,
vượt qua những rào cản của một chế độ kiểm duyệt khắc nghiệt, bằng
nhiều cách khác nhau, đã hiện diện và được vận dụng ngay “trong vòng
phấn trắng” (chữ của Thế Nguyên) của văn nghệ các đô thị miền Nam.
Trong phạm vi đại học miền Nam, chủ nghĩa Marx được nghiên cứu và
giảng dạy là một chủ nghĩa Marx đã khúc xạ qua lăng kính học thuật
Âu – Mỹ, được coi trọng khai thác khía cạnh nhân bản và thiên về lý
thuyết, chủ yếu là các tác phẩm Marx thời trẻ. Một chủ nghĩa Marx
như vậy dễ dàng cộng hưởng với tâm thế của những trí thức khuynh tả
có khát vọng về độc lập dân tộc và công bằng xã hội.
Tìm hiểu việc quảng bá các lý thuyết văn học phương Tây ở miền Nam
giai đoạn 1954-1975, không thể không đặt câu hỏi: do đâu mà việc
truyền bá đó diễn ra mạnh mẽ trong một thời gian không dài như vậy?
Tính từ 1930 cho đến 1954, Sài Gòn và một số đô thị miền Nam vẫn nằm
trong ảnh hưởng của văn hóa phương Tây nhưng mặc dù quá trình hiện
đại hóa đang diễn ra, sự truyền bá về mặt này vẫn còn sơ sài và hạn
hẹp. Nếu chỉ xét trên chủ trương của nhà cầm quyền, thì khó nói là
những người cầm quyền như Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm… ít thiện cảm với văn minh phương Tây hơn Ngô Đình Diệm và
Nguyễn Văn Thiệu. Vậy có lẽ phải tìm câu trả lời từ nguyên nhân trực
tiếp.
Theo chúng tôi, việc quảng bá tư tưởng văn học phương Tây sở dĩ mạnh
mẽ như vậy trước hết là vì ảnh hưởng của những người truyền bá. Đó
là những trí thức du học ở các nước Âu-Mỹ (Pháp, Bỉ, Đức, Hoa Kỳ…)
đã thành tài và trở về sau 1954. Họ lần lượt chiếm giữ những vị trí
then chốt trong hệ thống nhà trường đại học và các cơ quan văn hóa.
Họ cũng mang về một quan niệm và kỹ thuật làm báo, làm xuất bản mới
ở phương Tây mà trước đây Nguyễn Văn Vĩnh, Nhất Linh… chỉ mới áp
dụng bước đầu. Vì vậy ảnh hưởng của lớp trí thức này có thể nhìn
thấy qua hoạt động của các trường đại học và của giới xuất bản, báo
chí. Ngược lại, khắng định vai trò của đại học, báo chí và xuất bản
trong việc truyền bá tư tưởng phương Tây cũng chính là khẳng định
vai trò của lớp trí thức ấy.
Sau hơn 40 năm nhìn lại, một cách tổng quát, có thể nói các lý
thuyết văn học phương Tây đã để lại ảnh hưởng không nhỏ trong đời
sống tinh thần của xã hội miền Nam. Việc giới thiệu và quảng bá các
trào lưu tư tưởng này trong nhà trường đại học và trên sách báo ở
miền Nam những năm 1954-1975 diễn ra không đều nhưng là một hoạt
động liên tục. Trên thực tế không có một sự thiên lệch giữa tư tưởng
phương Tây và tư tưởng phương Đông trong chương trình đào tạo của
các trường đại học. Trong các danh mục xuất bản, văn học Âu Mỹ cũng
không hoàn toàn áp đảo; mỗi nhà xuất bản có chủ trương riêng về việc
chọn đề tài phù hợp với khẩu vị độc giả của mình. Nhưng liên kết lại
các công trình xuất bản thành sách và công bố trên báo chí, thì có
thể hình dung một bức tranh vừa đa dạng, sinh động, vừa xô bồ, phức
tạp về mặt này.
Nhìn chung, ở miền Nam, giáo dục ngày càng nghiêng về ảnh hưởng của
nền giáo dục Mỹ, nhưng đời sống văn học vẫn chịu ảnh hưởng sâu đậm
tư tưởng Tây Âu. Dĩ nhiên không phải tất cả trí thức góp phần quảng
bá tư tưởng Âu-Mỹ đều đã được đào tạo ở các nước phương Tây, càng
không phải tất cả trí thức ở đô thị miền Nam đều mặn nồng với văn
học Âu-Mỹ. Nhưng chính là môi trường văn hóa, giáo dục và ngôn ngữ
phương Tây đã góp phần quảng diễn ảnh hưởng của tư tưởng văn nghệ
Âu-Mỹ. Một người như Nguyễn Hiến Lê, chưa bao giờ đặt chân đến một
xứ sở Âu-Mỹ, nhưng nhà trường Pháp-Việt đã tạo cho ông tầm văn hóa
để tiếp nhận và phổ biến tinh hoa văn học phương Tây cho độc giả
miền Nam.
Chúng ta sẽ nhận thấy một điều thú vị với so sánh sau đây: một số
nhà trí thức tài năng trước 1945 như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh,
Nhất Linh, Phan Khôi, Trương Tửu… đã có công lớn trong việc giới
thiệu tư tưởng xã hội và tư tưởng văn nghệ phương Tây, đồng thời
trực tiếp thực hành cách làm báo và làm xuất bản tân tiến; nhưng
trong số họ hầu như chưa có ai dịch thuật hay biên khảo một công
trình bề thế về lý thuyết mỹ học và văn học phương Tây. Trái lại, 30
năm sau, ở miền Nam, nhiều cuốn sách về triết học, mỹ học Âu-Mỹ đã
được dịch thuật, biên soạn, trong khi những công trình vận dụng lý
thuyết này vào nghiên cứu, phê bình lại xuất hiện hết sức dè dặt và
khiêm tốn.
Qua dịch thuật, nghiên cứu của những học giả miền Nam,
các lý thuyết văn học phương Tây vừa có sức hấp dẫn, vừa bộc lộ
những hạn chế lịch sử của nó. Tuy việc nghiên cứu ở đây chỉ mới dừng
lại ở bình diện lý thuyết và chưa có nhiều thành tựu về mặt vận dụng
vào thực tiễn sáng tác, phê bình văn học, nhưng nó có ý nghĩa đặt
nền tảng cho quá trình tiếp thu những khuynh hướng quan trọng của tư
tưởng trong khoa học nhân văn hiện đại mà mãi đến gần 20 năm sau khi
chiến tranh kết thúc, giới nghiên cứu Việt Nam mới khởi động trở
lại.
Từ 1986 đến nay, những đổi mới trong việc nghiên cứu, đánh giá sự
tiếp nhận tư tưởng mỹ học và các lý thuyết văn học phương Tây ở Việt
Nam nửa đầu thế kỷ 20 cung cấp những bài học quý giá có thể vận dụng
vào việc ứng xử với những hiện tượng văn học trong hoàn cảnh xã hội
miền Nam giai đoạn 1954-1975, một hoàn cảnh đen tối và cực đoan về
chính trị mà ngày nay nhìn lại, trong điều kiện hiện đại hóa và hội
nhập, cần rất nhiều tinh thần khoan hòa trong đối thoại văn hóa.
2015-2016
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Tài liệu
tham khảo
1.
Dolezel, Lubomir.,
(1990),
Occidental Poetics: tradition
and progress,
University of Nebraska Press.
2.
Fokkema D., Ibsch E.,
(1995),
Theories of Literature in the
Twentieth Century,
St. Martin Press, New York.
3.
Harland R.,
(1999),
Literary Theory from Plato to
Barthes,
Macmillan Press Ltd, London.
4.
Jaspers, K.,
(2003),
Ý niệm đại học,
Hà Vũ Trọng và Mai Sơn dịch, Nxb. Hồng Đức và Đại học Hoa Sen, TP Hồ
Chí Minh.
5.
La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như
Phương (đồng chủ biên),
(2015)
Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ
nước ngoài – kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại, Nxb. Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
6.
Nguyễn Văn Trung,
(1967),
Góp phần phê phán giáo dục và
đại học,
Nxb. Trình Bầy, Sài Gòn.
7.
Niculin N.,
(2000),
Văn học Việt Nam và giao lưu
quốc tế,
Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
8.
Thế Nguyên,
(1979),
“Báo chí và xuất bản miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy”, trong
Văn hóa, văn nghệ miền Nam
dưới chế độ
Mỹ
ngụy, Tập II, Nxb. Văn Hóa, Hà
Nội.
9.
Trần Văn Chánh,
(2014),
“Giáo dục miền Nam Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển”,
Tạp chí Nghiên cứu và Phát
triển, Huế, số 7-8.
10. Võ Phiến, (2000), Văn học
miền Nam – Tổng quan, Nxb. Văn Nghệ, California, in lần thứ ba.
[1]
Xem Trần Văn Chánh (2014): “Giáo dục miền Nam Việt Nam trên con
đường xây dựng và phát triển”, Tạp chí
Nghiên cứu và Phát triển,
Huế, số 7-8, tr. 13-14.
[2]
Nguyễn Lưu Viên (1966):
Chính sách văn hóa
giáo dục, Sài Gòn (không đề Nxb), tr. 5-22.
[3]
Xem Vĩnh Đễ (1971): Tâm
lý học 12 CD, Nxb Nam Giao, in lần thứ ba, Sài Gòn.
[4]
K. Jaspers (2003): Ý niệm
đại học, Hà Vũ Trọng và Mai Sơn dịch, NXB Hồng Đức và Đại
học Hoa Sen, TP Hồ Chí Minh, tr. 5. Bài viết “Những mạch sống
tinh thần của đại học” của Lê Tôn Nghiêm in trong sách này vốn
là bài giới thiệu tác phẩm
Ý niệm đại học của K.
Jaspers đã đăng trên tạp chí
Tư Tưởng của Viện Đại
học Vạn Hạnh số 01, bộ mới, chủ đề “Trước thềm đại học”, tháng
11-1974, tr. 183-189.
|