Cao Bá Quát Khóc Con[1]
Hữu Bình
1. Dẫn Nhập
Đối với giới văn học, sinh viên, học sinh miền
Nam trước 1975 (trong đó có người viết), Cao Bá Quát có thể xem là một
người bị hiểu lầm nhiều nhất trong số các nhà thơ lớn của Việt Nam trong
thời kỳ cận đại (từ cuối thế kỷ 18 đến nay).
Sự ngộ nhận này có hai nguyên
nhân chính. Thứ nhất, các
nghiên cứu trong miền Nam trước 1975 về Cao Bá Quát, tuy không ít, chưa
đủ rộng và sâu vì thiếu thốn tài liệu về văn thơ của Ông (xem Đinh Thị
Thái Hà (2003: trang 7 và 8)).[2]
Về phương diện tiểu sử, hầu hết các
nghiên cứu này dựa vào Cao Bá
Quát Danh Nhân Truyện Ký của Trúc Khê Ngô Văn Triện (1940), một tác
phẩm có xu hướng dùng giai thoại dân gian dựng nên tiểu sử, lấy đó làm
cơ sở đánh giá, nhận định con người Cao Bá Quát.
Thứ hai, Cao Bá Quát sáng tác rất nhiều và đại đa số là thơ chữ
Hán (xem Nguyễn Ngọc Quận (2005)) nhưng chỉ một số rất nhỏ các bài thơ
của Ông được trích giảng trong chương trình Việt Văn năm đệ nhị ban sinh
ngữ và cổ ngữ trong miền Nam (Đàm Xuân Thiều và Trần Trọng San (1965,
trang 42-60)).[3]
Các bài này hầu hết là các bài hát nói và một bài phú bằng chữ Nôm, chỉ
có một bài thơ cổ phong chữ Hán Đạo đường ngã phu (Dọc đường
gặp người đói).
Ngày nay, muốn tìm hiểu về Cao Bá Quát đúng
đắn hơn, chúng ta phải dựa vào toàn bộ tác phẩm, nhất là các bài thơ chữ
Hán của Ông, và phải đặc biệt lưu ý đến không gian, thời gian cũng như
hoàn cảnh sáng tác. Việc
này hiện nay tương đối dễ dàng hơn vì (i) hai bộ sách tập hợp toàn bộ
tác phẩm của Cao Bá Quát, chữ Nôm và chữ Hán kèm với các bài thơ dịch,
đã ra đời (Trung Tâm Quốc Học (2009); Mai Quốc Liên (2012)), và (ii) có
nhiều bài viết/luận văn phân tích thơ văn, cuộc đời và nhân sinh quan
của Cao Bá Quát trên trang mạng (ví dụ như Nguyễn Ngọc Quận (2005; 2011;
2015)). Nhân dịp kỷ niệm
lần 212 năm sinh của thi hào Cao Bá Quát, người viết xin giới thiệu bài
thơ Mộng vong nữ (Mơ
thấy con gái đã mất)[4]
để góp phần làm sáng tỏ hơn về con người, đời sống và tư duy của Cao Chu
Thần tiên sinh.
Bài
Mộng vong nữ được chọn vì hai lý do chính.
Thứ nhất, đây không phải là một bài thơ quen thuộc với đa số
người đọc. Thật ra, đối với
giới văn học, sinh viên, học sinh miền Nam, bài thơ này là một bài rất
xa lạ. Thứ hai, khác
với nhiều nhà thơ trước, sau hay cùng thời, Cao Bá Quát là một nhà thơ
với ‘cái tôi’[5]
trữ tình. Cái tình trong thơ văn
của Ông thật lai láng, bao gồm từ tình yêu quê hương đất nước hay tình
cảm đối với gia đình, bạn bè, làng xóm cho đến tình cảm riêng tư hay
tình thương các người nghèo khổ bất hạnh.
Đọc Mộng vong nữ, hình
ảnh một kẻ sĩ chí khí, tự
cao, ngang tàng trong các giai thoại hoàn toàn biến mất, mà chỉ còn lại
tiếng kêu than thống thiết của người cha thương con.
Đây đúng là một góc cạnh ‘mềm’, rất cần tìm hiểu thêm về Cao Bá
Quát.
Bố cục các phần còn lại của bài viết ngắn này như sau.
Phần 2 tìm hiểu xuất xứ của bài thơ Mộng vong nữ.
Phần 3 giới thiệu và dịch nghĩa bản phiên âm chữ Việt của bài
thơ, cũng như thảo luận các chủ đề lớn trong bài.
Phần 4 phân tích từng câu sâu hơn.
Phần 5 kết luận.
Phần phụ lục trích đăng nguyên bản chữ Hán và năm bài thơ dịch.
2. Xuất xứ
Bài thơ Mộng vong nữ là bài xa lạ cho
giới văn học miền Nam trước 1975 nói riêng và người đọc nói chung.
Lý do chính bài thơ này không nằm trong các tập thơ chữ Hán của
Cao Bá Quát như Cao Bá Quát Thi Tập, Cao Chu Thần Thi Tập,
Cúc Đường Thi Loại, Mẫn Hiên Thi Văn Tập, vv.
(xem Nguyễn Ngọc Quận (2011)).
Như vậy, Mộng Vong Nữ chắc là một trong các bài chép
từ những sách “do các vị túc nho còn giữ được cho mượn” (Vũ Khiêu và các
đồng nghiệp (1984: trang 49)).
Nội dung bài thơ rất phù hợp với các
hiểu biết rất ít ỏi về cuộc đời Cao Bá Quát, cho nên không có lý do gì
để nghi ngờ đây không phải là tác phẩm của Ông.
Hoàn cảnh sáng tác của bài
thơ
Mộng vong nữ
rất rõ ràng: tác giả làm
ra khi đi làm việc xa và sau khi con gái mới bị mất.
Tuy nhiên, đứa con gái mất khi mấy tuổi và vì lý do gì thì không
hoàn toàn chắc chắn. Các
nhà nghiên cứu thường giả thử là con gái của Ông qua đời lý do bệnh tật
khi chưa đến tuổi trưởng thành.
Hai điều này có thể tin được vì chính Cao Bá Quát mất khi còn
tương đối trẻ (47 tuổi) và gia đình Ông luôn sống trong cảnh đói nghèo.
Nhưng việc này xẩy ra trong giai đoạn nào của cuộc đời Ông thì
không chắc chắn, lý do chính vì các tài liệu về tiểu sử của Ông đã bị
tiêu hủy hầu hết.
Nhìn chung, thơ chữ Hán của Cao Bá Quát có thể xếp loại theo thời gian
như sau:
·
làm trong hay trước khi đi thi hội;
·
làm trong lúc bị giam cầm vì án sửa bài thi;
·
làm trong lúc đi dương trình hiệu lực;[6]
·
làm sau khi được tha tội và bổ vào Viện Hàm Lâm; và
·
làm không rõ lúc nào.
Ví dụ như bài
Thập ngũ dạ đại phong
(Ngày rằm gió to) trong đó Ông nhắc đến cửa Thuận An và kết luận “Yếu đả
hồng di cự hạm hồi” (Đánh đuổi tàu chiến người da trắng chạy về nước).
Điều này cho thấy Ông đã sáng tác
Thập ngũ dạ đại phong
tại Huế, sau khi xuất ngoại đi Nam Dương và Tân Gia Ba.
Nếu
chỉ căn cứ vào nội dung, bài thơ
Mộng vong nữ thuộc loại không rõ làm ra vào thời gian nào.
Tuy nhiên, một số các nhà nghiên cứu lý luận có lẽ Cao Bá Quát
làm bài này vào những năm cuối đời.
Có tác giả, ví dụ như Lại Quảng Nam (2018), cho rằng Cao Bá Quát
có thể sáng tác Mộng vong nữ
khi đang làm Giáo thụ Quốc Oai (1850) hay trước khi
khởi binh chống
lại triều đình Tự Đức (1854).
Tuy nhiên các tác giả này không nêu được chứng cớ cụ thể gì để
ủng hộ thuyết này.
Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân (2004) lại đề xuất Cao Bá Quát viết bài
Mộng vong nữ khi làm việc cho
Viện Hàn Lâm tại Huế (1847-50),
tức là trước khi được bổ làm Giáo thụ Quốc Oai.
Trong một bài tham luận tại hội thảo về Cao Bá Quát, nhà nghiên
cứu Nguyễn Đắc Xuân viết như sau:
Chuyện kể rằng: Sau khi nghe tin Cao Bá Quát về Kinh phục chức (1847),
có người đã đem cho ông xem những bài thơ xướng hoạ trong Thi xã, ông
xem qua rồi vừa lắc đầu vừa bịt mũi ngâm hai câu:
Ngán cho cái mũi vô duyên
…. Riêng chỉ có hai anh em ông
Miên Thẩm và Miên Trinh là những người có độ lượng và biết trọng nhân
tài, trước đây họ đã nghe tài thơ của Cao Bá Quát và cũng đã biết rất rõ
cái tính ngông của Cao Chu Thần nên vẫn thấy bình thường.
...
Từ đó hai ông Miên Thẩm và Miên
Trinh lui tới thăm viếng đàm đạo chuyện thơ văn với Cao Bá Quát thường
xuyên. Chia xẻ bớt một phần khó
khăn về đời sống của nhà thơ “tài tử đa cùng,” hai ông thường giúp đỡ
bạc tiền, nhiều khi còn tặng cho Cao những hàng tơ lụa quí mà nhà vua đã
ban tặng cho hai ông. Đang trong
thời gian giao thiệp vui vẻ thì một người con Cao Bá Quát bị bệnh và qua
đời ở Hà Nội. Ông thương con đau buồn vô cùng, nhưng ông cố giấu nỗi
lòng mình. Không ngờ Tùng Thiện
công biết đem đến tặng ông mấy thứ phẩm vật cần thiết kèm theo một bài
thơ. ….
Chi tiết đứa con bị mất phù hợp với bài thơ
Mộng vong nữ.
Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Đắc Xuân không cho biết nguồn của thông
tin này, thành ra có lẽ đây chỉ là chuyện truyền miệng.
Hơn nữa, những chi tiết còn lại trong trích dẫn nói trên không
phù hợp với những thông tin khác về tình bạn giữa Tùng Thiện Vương và
Cao Bá Quát. Ví dụ như bài
Tặng Cao Bá Quát của Tùng
Thiện Vương (xem Lương An (1994)) có phần kết như sau:
Giao tình vi nhĩ ân
Nam cố (Vì tình bạn với Ông nhìn về phía Nam lo lắng)
Hai câu trên rõ ràng nói đến chuyến đi dương trình hiệu lực năm 1844 của
Cao Bá Quát, và chứng tỏ rằng Tùng Thiện Vương và Cao Bá Quát đã thân
nhau khá lâu trước khi Cao Bá Quát trở lại kinh đô Huế năm 1847.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận (2005:
20), Cao Bá Quát liên tiếp mất hai người con trước khi Ông vào Huế nhậm
chức năm 1841.[7]
Không
rõ người con gái trong Mộng vong Nữ có là một trong số hai người
ấy không? Nếu người con gái
là một trong hai đứa con mất sớm thì Cao Bá Quát sáng tác Mộng Vong
Nữ vào khoảng năm 1841, khi mới vào Huế làm quan lần đầu.
Nói tóm lại, hiện nay chưa đủ bằng cớ khẳng định Cao Bá Quát sáng tác
Mộng vong nữ vào thời kỳ nào,
tuy rằng có lẽ Ông đã làm bài thơ này khi nhậm chức tại Huế lần thứ nhất
(năm 1841) hay lần thứ hai (khoảng từ 1847 đến 1850).
3. Các chủ đề chính
trong Mộng vong nữ
Mộng vong nữ
là bài thơ Đường luật chữ Hán, thể loại tám câu năm chữ (xem nguyên bản
chữ Hán và bốn bài thơ dịch trong phần Phụ lục).
Bản phiên âm và dịch nghĩa bài
thơ như sau.
Mộng vong nữ
(Mơ thấy Con gái Đã mất)
Thân viễn
ngô đương bệnh (Xa cha
mẹ/người thân mình đang ốm)
Tư nhi
mỗi
tiết ai (Mỗi lần nhớ con nén
đau thương xuống)
Hốt nhiên
trung dạ
mộng (Bỗng nhiên trong giấc
mơ giữa đêm)
Sậu kiến
lệ
như thôi (Nhác thấy (con)
nước mắt thôi thúc chẩy)
Y phục
hàn
nhưng phá (Áo quần vẫn rách
không đủ ấm)
Dung nhan
thảm
bất khai (Sắc mặt buồn không
tươi nở/không tan)
Thái diêm
bần
vị khuyết (Dưa muối (nhà tuy)
nghèo không thiếu)
Tân khổ
nhữ
quy lai ((Dù) đắng cay
mày/con hãy quay về)
Nhìn chung, ngược với các bài thơ chữ Hán khác của Ông, Cao Bá Quát
không sử dụng điển tích hay ý tưởng mới lạ trong bài thơ này, tuy rằng
cách dùng chữ vẫn biểu lộ thi tài của tác giả.
Bài thơ rất xúc tích!
Chỉ trong vỏn vẹn 43 chữ Hán (kể cả tiêu đề bài thơ) tác giả đã
tiết lộ khá nhiều về cá nhân và gia đình mình.
Thứ nhất, mộng mị là một đề tài lớn trong thơ văn Cao Bá Quát.
Thứ hai, tác giả là người không được khỏe mạnh, bị đau ốm thường
xuyên. Thứ ba, nhà thơ gia
cảnh bần hàn, đời sống vật chất khó khăn.
Các điểm này sẽ được lần lượt khai triển dưới đây.
Thứ nhất, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận (2015), Cao Bá Quát đã
dùng từ ‘mộng’ 129 lần trong các bài thơ chữ Hán của mình.
Mộng mang nhiều hình thái khác nhau trong thi văn của Ông:
·
có khi trừu tượng như mộng phù vân của Phật
giáo;[8]
·
có khi mộng là lý tưởng, ước vọng;[9]
·
có khi mộng là chút mơ màng, lãng mạn;[10]
·
có khi mộng là kinh nghiệm thực tế;[11]
·
nhưng đa số mộng là giấc ngủ mơ.
Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận (2015), Cao Bá Quát có 43 bài
nói về giấc mơ của mình. Đề
tài của các giấc chiêm bao này cũng khá là đa dạng:
·
có khi là khát vọng công danh;[12]
·
có khi là chuyện huyễn hoặc;[13]
và
·
có khi là dư âm kỳ diệu của thơ ca.[14]
Tuy nhiên, chủ đề chính trong những bài thơ liên quan đến giấc mơ của
Cao Bá Quát là những “cảnh
vật, con người gắn bó thân thiết trong cuộc sống đời thường, cá nhân của
ông” (Nguyễn Ngọc Quận (2015)). Cao Bá Quát chiêm bao về
quê nhà hay mơ thấy bạn bè.
Mộng vong nữ là một sáng tác thuộc loại này.
Thứ hai, Cao Bá Quát là người có thể trạng yếu đuối, đau ốm khá thường
xuyên. Điều này đã được Ông
đề cập nhiều lần trong thi văn của mình.
Trong chuyến xuất dương đi Nam Dương và Tân Gia Ba, Ông làm bài
thơ bẩy câu tám chữ nhan đề
Thuyền hồi quá Bắc Dữ, dư bão bệnh sổ nhật hĩ,
… (Thuyền
về qua đảo Bắc
Dữ, ta bệnh
đã
mấy ngày rồi,
…).
Trong bài Đáp
Trần Ngộ Hiên (Trả
lời Trần Ngộ Hiên),
Ông tiết lộ thêm:
“Đa
bệnh cánh trì khu”
(Nhiều bệnh chạy ngược xuôi).
Trong bài Độc dạ (Đêm ngồi một mình) Ông than thở:
“Càn khôn lão bệnh phu” (Giữa trời đất, thân già bệnh hoạn).
Có khi bệnh tật lại chính là nhan đề cho bài thơ, ví dụ như bài
Bệnh trung (Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng) (Đang lúc
bệnh (Sang xuân dến nay, cả tâm lẫn sức đều đáng ghét cả hai))
hay bài Dữ gia nhân tác biệt thị dạ dư bệnh chuyển phát (Từ
biệt người nhà, ngay đêm ấy lại phát bệnh).
Theo học giả Thái Trọng Lai (2014), lý do chính Cao Bá Quát hay
đau ốm là vì Ông bị bệnh tiểu đường.
Lý do phụ là Ông sống xa nhà, ít người chăm sóc, lại ăn uống kham
khổ, thiếu kỷ luật (ví dụ như uống rượu nhiều).
Thứ ba, Cao Bá Quát đã sinh hoạt trong điều
kiện kinh tế thiếu thốn.
Ông sinh ra trong một gia đình thanh bạch, đời sống vật chất khó khăn,
con đường thi cử trắc trở.
Đến năm 33 tuổi Ông mới ra làm quan, mà làm chức thấp, lại đi làm xa, bị
bệnh kinh niên, nhiều chi phí, cho nên lương bổng chắc chỉ vừa đủ sống.
Rất may, những người bạn tốt như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương
thỉnh thoảng có trợ cấp cho Ông.
Theo tìm hiểu của học giả Thái Trọng Lai (2014), vì hoàn cảnh tài
chính eo hẹp,
vợ
Cao Bá Quát
buộc lòng dắt con gái nhỏ
(đây có thể là người con gái sau này bị bệnh mà mất)
theo mình lang thang kiếm sống ở các chợ quê, mưu sinh bằng nghề bói
Dịch.
Ông đã mang cái nghèo của mình vào bài phú tiếng Nôm nổi tiếng
Tài tử đa cùng
(Người tài tử lắm khốn cùng).
Hãy nghe Cao Bá Quát mô tả sự khổ sở của đói ăn như sau:
“Mộ
lai khuyết úng tôn, Khô trường tẩu vạn nhĩ” (Chiều
nay không có cơm, Ruột quặn cồn cào như vạn kiến bò),
trích trong bài Mộ phạn bất cấp hý bút ký sự
(Bữa chiều không cơm, viết đùa
ghi việc).
4. Phân tích
Thân viễn
ngô đương bệnh
‘Thân
viễn’
nghĩa đen là
xa cha mẹ,
nghĩa chung là
xa người thân,
xa nhà
hay
xa quê hương xứ sở.
Như vậy, tác giả làm ra bài thơ
này khi đang nhậm chức ở xa, rất có thể là Huế.
Trong hoàn cảnh này, dịch ‘thân viễn’ thành ‘xa nhà’ là chuẩn xác
hơn hết. Không biết tác giả
lâm bệnh vì thể trạng yếu kém (như đã bàn trong Phần 3) hay vì tinh thần
xuống dốc khi nghe tin buồn con gái vừa qua đời?
Nhưng dù sao đi nữa, bị bệnh lúc xa nhà, không ai chăm sóc, thật
đáng thương. Chữ ‘mỗi’
trong câu hai nghĩa là thường, mỗi lần, còn chữ ‘tiết’ nghĩa là kiềm
chế, nén lại. Tuy thương
nhớ con gái mới mất, tác giả biết sức và hoàn cảnh của mình, cố gắng nén
nỗi đau thương lại mỗi khi nghĩ đến con, để bệnh tình đừng trở lên nặng
hơn. Dùng chữ ‘mỗi’ ở câu hai,
tác giả cho chúng ta thấy Ông đã nhớ con nhiều lần trước giấc mơ, và mỗi
lần nhớ con là mỗi lần cố nén đau thương.
Hốt nhiên
trung dạ
mộng
Tác giả ban
ngày thì
cố gắng nén
đau thương
mỗi lúc nhớ con, nửa đêm bỗng nhiên
nằm mộng thấy con
về. Mơ thấy con gái là điều
dễ hiểu vì tác giả đi làm việc xa nhà, không thấy mặt con lúc con mất,
lúc nào cũng ước được nhìn thấy con một lần cho hả dạ.
Dùng ngôn ngữ của tâm lý học, cái chết của người con đã trở thành
ám ảnh cho tác giả.
Nỗi đau buồn bị
kiềm chế như một uẩn ức,
trong giấc mơ
vô thức
liền
được giải tỏa.
Trong thế giới vô thức, tác giả không thể nào kềm chế cảm xúc của
mình, chỉ vừa nhác thấy (‘sậu kiến’) dáng con, nước mắt như bị thôi thúc
chẩy ràn rụa không ngừng (‘lệ như thôi’).
Y phục
hàn nhưng phá
Giấc mơ của tác giả không nhòe nhạt mà rất cụ thể: Ông nhìn thấy nét mặt
không vui và quần áo sờn rách của người con gái mới mất.
Những hình ảnh đó cứa rách trái tim của tác giả.
Nhưng tại sao quần áo của đứa
con lại không đủ ấm (‘hàn’), vẫn (‘nhưng’) cũ rách (‘phá’)?
Theo phong tục Việt Nam người chết thường được chôn với những bộ
quần áo mới và đẹp nhất.
Nếu tác giả không có mặt trong tang lễ, Ông không thấy con gái trong bộ
táng phục. Trong ký ức, tác
giả chỉ quen nhìn thấy con gái của mình với bộ quần áo cũ rách phong
phanh mặc không đủ ấm hàng ngày.
Nếu tác giả có mặt trong tang lễ, Ông đã thấy con gái trong bộ
táng phục lành lặn. Nhưng
trong giấc mơ vô thức, Ông chỉ thấy con gái trong bộ quần áo rách rưới
hàng ngày. Trong cả hai
trường hợp, hình ảnh on gái với quần áo cũ rách có lẽ đã bám chặt vào
tâm thức/tiềm thức của tác giả như là một mặc cảm (cha không chu cấp đầy
đủ cho con cái), và do đó hiển hiện ngay lên trong giấc chiêm bao.
Tương tự cho câu sau, trẻ em bình thường vui tươi hồn nhiên, nhưng nghèo
túng và bệnh tật đã làm nét mặt con gái tác giả buồn bã không tươi nở.
Một nghĩa khác của ‘bất khai’ là ‘không tiêu tan’.
Theo cách giải thích này, sự buồn khổ của con gái tác giả là liên
tục từ trước đến nay, không hề tan biến, ngay khi đã vào âm thế.
Lối thông hiểu này rất phù hợp với của câu năm của bài thơ.
Hai câu rất quan trọng này
tiết lộ đầy đủ về đời sống vật chất cơ hàn của người con gái, và từ đó
chúng ta có thể suy ra cuộc sống khó khăn của tác giả và gia đình nói
chung.
Thái diêm
bần
vị khuyết
Hai câu cuối đánh tan tất cả nghi ngờ của người đọc, nếu có, về gia cảnh
của tác giả. Không phải chỉ
thiếu mặc, mà tác giả và gia đình còn thiếu ăn.
Gia cảnh của tác giả nghèo đến độ trong nhà chỉ có ít nhiều (‘vị
khuyết’ nghĩa đen là không thiếu) dưa muối (‘thái diêm’).
Bài thơ kết thúc bằng tiếng van xin thảng thốt của người cha, cầu
mong con gái trở lại sum họp gia đình.
‘Tân khổ’ nghĩa đen là đắng cay, ‘nhữ’ là mày, đại danh từ cho
ngôi thứ hai, chỉ người bề dưới, hay là tiếng âu yếm gọi con.
Tuy nhiên, ngay cả trong lời cầu xin đó, tác giả vẫn tỏ ra sự bất
lực của mình, không thể hứa hẹn với con gái một đời sống kinh tế ấm no
sung túc hơn! Thật là một
nỗi đau đứt ruột cho bất kỳ người cha nào, nhất là một người tự biết khả
năng thiên phú của mình!
Bài thơ đến đây là chấm dứt.
Sau lời van cầu đau đớn, vô vọng đó, rất có thể Cao Bá Quát đã
giật mình bừng tỉnh giấc? Lúc
này chắc Ông không còn khả năng kiềm chế nỗi nhớ thương người con gái
mới qua đời nữa. Niềm đau
cứ tiếp tục dồn dập đến khôn nguôi.
Đọc xong bài thơ, dù muốn dù không, chúng ta cũng không tránh khỏi liên
tưởng đến đời sống kinh tế của dân Việt vào thời đó.
Bài thơ đã gián tiếp vẽ ra một bức bức tranh xã hội khá bi đát.
Tuy làm chức nhỏ nhưng dẫu sao Cao Bá Quát vẫn là một ông quan.
Nếu quan còn sống vất vưởng không lo nổi cho gia đình như thế thì
đại đa số người dân sống như thế nào?
5. Kết luận
Bài thơ Mộng vong nữ, làm ra
sau khi con gái mất, có lẽ vào cuối đời Cao Bá Quát,
tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình giàu tinh thần nhân văn
của nhà thơ. Các thi sĩ,
thời trước cũng như thời sau, thường làm thơ khóc cha, khóc mẹ hay khóc
vợ, khóc chồng, hoặc giả là khóc bạn, rất ít ai làm thơ khóc con như Cao
Bá Quát. Trong thi văn
truyền khẩu, người ta cũng thường nhắc đến tình mẹ con, lòng mẹ, chứ
không nhiều khi nói đến tình cha con, lòng cha.
Trong khía cạnh này, bài thơ
Mộng vong nữ có chỗ đứng rất
đặc biệt, nếu không nói là độc đáo, trong văn học Việt Nam.
Cao Bá Quát
đã
từng quan niệm: “Bàn về thơ, tuy có phải trọng về quy cách, nhưng làm
thơ thì phải gốc ở tính tình”
(Tựa Thương Công Sơn Thi Tập; xem
Nguyễn Thị Tính (2015)).
Quan niệm sâu sắc đó được thể hiện
rõ ràng, cụ thể trong bài
thơ ngắn
Mộng vong nữ.
Ngược với nhiều sáng tác chữ Hán
khác của Ông, Cao Bá Quát không sử dụng điển tích hay mỹ từ pháp trong
bài này, tuy rằng lối dùng chữ vẫn biểu lộ văn tài của mình.
Giá trị cốt lõi của Mộng
vong nữ là tinh thần nhân văn của bài thơ.
Chỉ trong vòng một số chữ rất ít, Cao Bá Quát
đã
rất thành công trong việc
diễn tả một cách
đơn
giản mà
sâu sắc
tình
cha con,
một trong những dòng tình cảm
quan trọng nhất của con người ở mọi nơi và mọi thời.
Nói tóm lại, Mộng Vong Nữ có thể xem là tiếng kêu thương thống
thiết của người cha bất lực trước sự ra đi vĩnh viễn của con gái, một
tiếng than làm chấn động đến trái tim của các bậc cha mẹ cõi thế gian.
Đọc bài này, chúng ta thấy
tinh cảm sâu kín của Cao Bá Quát với gia đình, niềm riêng thương xót của
một người cha, khác hẳn với hình ảnh của một người kiêu căng, ngạo mạn
đầy rẫy trong các giai thoại dân gian.
Bốn câu chót cho thấy tác giả có hàm ý tự trách mình, không đủ
khả năng chăm sóc đời sống vật chất của con.
Một hàm ý khác của Mộng
vong nữ là chúng ta nên tránh vội vàng kết luận hay tổng quát hóa về
con người, tư tưởng, hành vi và nhân cách của Cao Bá Quát ngay sau khi
đọc xong một số nhỏ các bài thơ của Ông hay là mới nghe qua một vài giai
thoại dân gian về Ông.
Tài liệu tham
khảo
Đàm Xuân Thiều và Trần Trọng San (1965),
Việt-Văn Độc-Bản Lớp Đệ Nhị, Bộ Văn Hóa Giáo Dục xuất bản lần thứ 4,
Sài Gòn.
Đinh Thị Thái Hà (2003), ‘Cao Bá Quát
-
Lương tâm và khí phách qua thơ chữ Hán’, Luận ván Thạc sĩ Khoa học
Ngữ văn, Đại Học Sư Phạm T/P Hồ Chí Minh,
Lại Quảng Nam (2018), ‘Mộng vong nữ Cao Bà Quát’, truy cập 9/2/2020
<http://chimviet.free.fr/vanhoc/laiquangnam/lqnt056.htm>
Lương An (tuyển chọn và giới thiệu) (1994), Thơ Miên Thẩm Tùng Thiện
Vương, Nhà Xuất Bản Thuận Hoá,
Huế.
Mai Quốc Liên (2012), Cao Bá Quát
Toàn Tập – Tập 2, Nhà Xuất bản Văn Học, Hà Nội.
Trúc Khê Ngô Văn Triện (1940),
Cao Bá Quát Danh Nhân Truyện Ký, Tân Dân, Hà Nội.
Nguyễn Đắc Xuân (2004), ‘Cao
Bá Quát thời ở Kinh đô Phú Xuân’,
Cao Bá Quát Tham Luận Hội Thảo, Trung Tâm
Nghiên Cứu Quốc Học và Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Quận (2005), ‘Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến trình văn
học dân tộc’, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia T/P Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ngọc Quận (2011),
Vấn đề văn bản tác phẩm Cao Bá Quát, Khoa Văn Học, Đại Học
Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại Học Quốc Gia T/P Hồ Chí Minh,
truy cập 16/2/2020,
http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1759:vn-vn-bn-tac-phm-cao-ba-quat-&catid=65:han-nom&Itemid=153
Nguyễn Ngọc Quận (2015), ‘Mộng mị và ảo giác
trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát’,
Tạp Chí Đại Học Sài Gòn, Bình Luận Văn Học, truy cập 21/3/2018,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-‘vi%E’1%BB%87t-nam/6550-m%E1%BB%99ng-m%E1%BB%8B-v%C3%A0-%E1%BA%A3o-gi%C3%A1c-trong-th%C6%A1-ch%E1%BB%AF-h%C3%A1n-cao-b%C3%A1-qu%C3%A1t.html
Nguyến Thị Tính (2015), ‘Bàn thêm về quan niệm
thơ ca của Cao Bá Quát’, truy cập 18/2/2020,
https://123doc.net/document/3040961-ban-them-ve-quan-niem-tho-ca-cua-cao-ba-quat.htm
Thái Trọng Lai (2014), ‘Gian nan việc dịch thơ
Cao Bá Quát’, truy cập 13/3/2018,
http://havuvhp.blogspot.com.au/2015/01/gian-nan-viec-dich-tho-cao-ba-quat-thai.html
Trần Nam Bình (2018), ‘Cao Bá Quát: Nhà thơ
tiên tri thời cuộc’, truy cập 1/6/2019,
https://nghiencuulichsu.com/2018/08/24/cao-ba-quat-nha-tho-tien-tri-thoi-cuoc/
Trần Nho Thìn (1993), ‘Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái tôi
tác giả’,
Tạp chí Văn học, 6: 33-36.
Trung Tâm Quốc Học (2009), Cao Bá
Quát Toàn Tập – Tập 1, Nhà Xuất bản Văn Học, Hà Nội.
Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Trác, Hoàng Hữu Yên và Hoàng Tạo (1984),
Thơ văn Cao Bá Quát, in lần
thứ ba có bổ sung, sửa chữa, NXB Văn Học, Hà Nội.
Phụ lục
Nguyên tác chữ Hán
夢
亡
女
親遠
吾
當病
辛
苦
汝
歸來!
Nguồn:
Vũ Khiêu và nhiều đồng nghiệp (1984), Bài số 122.
Vì chữ Hán rất xúc tích so với chữ Việt và thường có nhiều nghĩa, dịch
thơ chữ Hán ra chữ quốc ngữ là chuyện rất khó, nếu muốn giữ đúng và lột
tả hoàn toàn ý của tác giả.
Điều này càng khó hơn nếu người dịch vẫn giữ dạng tám câu năm chữ.
Tuy có khá nhiều bản dịch hiện nay, người viết xin chỉ chọn năm
bài thơ dịch, ba bài theo thể tám câu năm chữ và hai bài dùng thể sáu
tám. Bản dịch của Nguyễn
Văn Bách là bản dịch chính thức (in vào sách) và được nhiều người biết
nhất,
Mộng thấy con gái đã mất,
Bản dịch của NĐC (1/2010)
Đang bệnh lại xa nhà
Nguồn:
https://vandan.vn/bai-viet/m%E1%BB%99ng-vong-n%E1%BB%AF.154/,
truy cập 1/6/2019.
Mơ về người con gái đã mất,
Bản dịch Nguyễn Vũ Dũng (12/2/2020)
Xa nhà mình đang bịnh
Nguồn: Điện thư từ người dịch ngày 12/2/2020.
Mơ thấy con gái đã mất,
Bản dịch Hữu Bình (27/2/2020)
Đang ốm lúc xa nhà
Khi nhớ con nén dạ
Nửa dêm bỗng nằm mơ
Nhác thấy lệ chan hòa
Áo quần vẫn rách lạnh
Nét mặt buồn chưa tan
Dưa muối nghèo đâu thiếu
Đói no con về nhà!
Chiêm bao thấy con gái đã mất,
Bản dịch Nguyễn Văn Bách
Nhà xa bệnh lại dày vò,
Nhớ con hằng nén xót chua nghẹn ngào.
Đêm qua bỗng thấy chiêm bao,
Gặp con giọt lệ tuôn dào như mưa.
Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
Ủ ê nét mặt bơ phờ hình dung!
Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Đắng cay con hãy về cùng với cha!
Nguồn:
Vũ Khiêu và nhiều đồng nghiệp (1984), Bài số
122.
Nằm mơ thấy con gái đã mất,
Bản dịch Hữu Bình (2/2020)
Xa nhà mình lại bệnh rồi
Nhớ con cố nén bồi hồi xót đau
Nửa đêm, chợt giấc chiêm bao
Thấy con nước mắt tuôn trào chứa chan
Vẫn quần áo rách cơ hàn
Dáng hình tiều tụy, dung nhan âu sầu
Nhà nghèo dưa muối thiếu đâu?
Đói no con hãy trở đầu về thôi!
[1]
Người viết xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Vũ Dũng, chị
Nguyễn Thị Bich Liên, bạn Cao Kim Nguyên và bạn Đinh Anh Tài đã
nhuận sắc bài viết này, giúp bài viết trở nên mạch lạc và bài
thơ dịch hoàn chỉnh hơn,
[2]
Theo tác giả Đinh Thị Thái Hà, (2003: trang 7 và 8), việc nghiên
cứu và giới thiệu về Cao Bá Quát rất phát triển tại miền Nam so
với miền Bắc trong giai đoạn 1954-75.
[3]
Cao Bá Quát không nằm trong danh sách các nhà thơ được trích
giảng trong chương trình Việt Văn năm đệ nhị ban toán và khoa
học thực nghiệm.
[4]
Bài thơ
Mộng vong nữ
này đã được mang vào giáo trình bậc
trung học Việt Nam (xem phần đọc thêm
Sách Giáo Khoa Văn học 11 giai đoạn 1990-2006)
nhưng đã bị lược bỏ trong Sách Giáo Khoa Ngữ văn 11 từ
2007.
[5]
“Cái
tôi là
hình tượng tác giả trong tác phẩm, là sự diễn tả, giãi bày thế
giới tư tưởng, tình cảm riêng tư thầm kín của tác giả. Nhìn từ
góc độ phản ánh luận thì cái tôi lại là đối tượng phản
ánh của bản thân nhà thơ, là kết quả của sự tự ý thức, tự đánh
giá, tự miêu tả của nhà thơ.” (Trần Nho Thìn, 1993).
[6]
Xem Trần Nam Bình (2018), “Cao Bá Quát: Nhà thơ tiên tri thời
cuộc”, truy cập 1/6/2019 tại <https://nghiencuulichsu.com/2018/08/24/cao-ba-quat-nha-tho-tien-tri-thoi-cuoc/>
[7]
Suy ra từ câu dẫn của bài thơ Tạc ức: “Dư lâm hành nhật,
thất nội liên táng nhị tử; Đáo bộ vị kỷ, hựu thất nhất bộc”
(“Ngày ta gần đi, trong nhà mất liền hai đứa con; Đến Bộ chưa
bao lâu, lại mất một người giúp việc”).
[8]
Ví dụ như “Mộng
đáo chư thiên tối thượng đầu” (“[Có
phải] mơ đến các cõi trời là trên hết cả chăng” trong
Du Nam
Tào sơn tự lâu thượng
ký vọng đề bích trình Thúc Minh,
kỳ nhị (Chơi chùa núi
Nam Tào, trên lầu trông xa đề vách trình ông Thúc Minh, bài
2)) hay là giấc mộng Nam Kha hư ảo như “Thí
vấn cổ thần đàm mộng sự, Bách niên lai vãng kỷ hoàng lương” (“Thử
hỏi thần xưa nói chuyện mộng, Trăm năm qua lại, kể đã mấy giấc
hoàng lương rồi” trong bài
Tống Thổ Khối Nguyễn Kinh Lịch Bắc hồi
(Tiễn Ông Nguyễn Kinh Lịch người Thổ Khối về bắc)).
[9]
Ví dụ như “Tiền
đồ lịch lịch câu nhàn mộng”
(“Con đường phía trước rõ là giấc mộng viễn vông” trong
Hoạ Thúc
Minh lưu biệt Doãn Trai chi tác kiêm thứ kỳ vận (Họa
vần bài thơ của Thúc Minh tiễn biệt Doãn Trai)),
[10]
Ví dụ như “Khởi
lai đắc đắc hương sinh mộng”
(“Đứng dậy ngửi được mùi
thơm sinh mơ mộng” trong
Thử khốn
hí ngoạ hà diệp đồng Phan Sinh,
kỳ nhất (Nắng
nóng đùa, nằm trên lá sen cùng Phan Sinh,
bài 1))
[11]
Ví dụ như cảnh suýt chết trong lũ lụt hãi hùng của tác giả với
hai người bạn:
“Tàn
mộng do kinh cửu dạ phong”
(“Ác
mộng đã tàn mà vẫn còn hãi vì chín đêm gió lộng” trong
Đồng Lê Ứng Khanh dạ ẩm
(Tối cùng uống rượu với Lê Ứng Khanh))
[12]
Ví dụ như “Tử
khuyết vân yên thường ngọ mộng”
(“Mây khói kinh thành,
ban trưa thường nằm mộng” trong bài
Phái
vãng dương trình chu hành phó Đà Tấn, tẩu bút lưu biệt thân thức
(Bị
đầy đi nước ngoài,
qua biển Đà Nẵng, viết vội
cho người thân))
[13]
Ví dụ như Lý Bạch:
“Tạc
dạ mộng hồn phi quá lĩnh, Ách quân trực hạ nguyệt giang cao”
(“Đêm qua hồn chiêm bao
bay qua đỉnh núi, Đường hẹp ông rơi thẳng xuống mé sông trăng”
trong bài
Ký
Thượng Mão Nguyễn tứ tú tài Dưỡng Chính),
[14]
Ví dụ như
“Tạc
dạ ngâm thi thanh đáo hiểu, Mộng trung thượng giác dư thanh
nhiễu, Khởi lai nhất bán hoặc xuân tâm, Phi nhập khinh yên uất
mộng liễu“
(“Hôm qua ngâm thơ cho
đến sáng, Trong mộng còn biết dư âm quanh quẩn bên mình, Tỉnh
dậy ít nhiều còn ngờ vực lòng xuân, Cơ sự ấy hoà vào khói mây,
niềm u uất trong mộng được xua tan” trong bài
Tân xuân
thí bút,
kỳ nhị (Đầu xuân xuống bút, bài 2).
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 4-3-2020
|