Bác Tô Hoài –
Hồ Anh Thái
Thản nhiên để viết
Bác Tô Hoài là cây đa cây đề trụ vững
hàng chục năm ở Hội Văn học nghệ thuật thủ đô. Thế cho nên khi tôi được
bầu làm chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội thì có người cười: Chắc Hội thủ đô
đã đổi mới? Hay là Hội để bọn trẻ nó trèo lên cổ mấy ông già? Người ta
nói thế vì tôi ba mươi lăm tuổi được bầu vào Ban Chấp hành hội. Còn năm
2000 tôi làm chủ tịch hội nhiệm kỳ đầu, báo chí viết lâu lắm mới có
người làm chủ tịch một hội nhà văn ở tuổi bốn mươi. Bốn mươi thì vẫn là
“nhà văn trẻ”.
Tôi hay đến thăm bác Tô Hoài, lúc thì
đến nhà trong cái phố cụt Đoàn Nhữ Hài, lúc thì ở nhà con gái bác trong
khu tập thể Nghĩa Tân. Có khi tôi gọi điện báo trước, cháu sắp đến. Có
khi chẳng báo trước, cứ thế mà đến, đến thì thấy bác đang ra mở cánh cửa
sắt như là có linh tính.
Tôi thích nhiều tác phẩm của Tô Hoài,
đặc biệt là tập hồi ký gây dư luận
Cát bụi chân ai. Có lần bác
cho tôi mượn bản thảo tập hồi ký tiếp theo là cuốn
Chiều chiều, chưa gửi in. Chữ
viết tay nhỏ li ti. Ở Hội Nhà văn ngày trước chỉ có vài nhân viên đánh
máy quen chữ của bác, khi nghỉ hưu rồi, bác vẫn hay quay lại thuê họ
đánh máy. Một số chữ có dấu sắc “không cần thiết” thì bác có thói quen
bỏ dấu: hêt sạch, ich lợi, quả ơt, sưt mẻ…
Ngồi
nói chuyện ở nhà trong khu Nghĩa Tân,
có lúc bác
dẫn tôi
ra quán
bia hơi cách đấy vài chục mét.
Bác
hướng
về ông chủ trung niên đang chạy qua chạy lại đưa bia cho khách, nói vừa
đủ nghe: Ông này đi Đức về, có ba con gái. Người nào việc nào rành rẽ
đâu ra đấy. Hay đến chơi như vậy,
có ngại làm mất thời gian của bác hay không? Thì chính bác đã bảo:
Tôi thì lúc nào cũng bận mà lúc nào cũng cứ là
“chiều
chiều”.
Nhà báo từ Sài Gòn ra, đến đặt bác viết bài. Thói quen cẩn thận của
người làm báo, trước khi ra về, nhà báo nhắc: Bác viết đúng hẹn cho cháu
nhé. Bác Tô Hoài đáp: Cô yên tâm, ngày rộng tháng dài. Thú vị. Bác Tô
Hoài lúc ấy gần chín mươi rồi, thế mà vẫn đủng đỉnh “ngày rộng tháng
dài”.
Bác Tô Hoài sinh năm 1920, đến chín mươi
tuổi mà vẫn viết hàng ngày, viết đều đặn, viết minh mẫn. Sách in và tái
bản, thống kê được là khoảng 150 cuốn. Đầu xuân 2010, Hội Nhà văn Hà Nội
chúng tôi tổ chức chúc thọ bác tại nhà. Thuê bàn ghế giản đơn, đặt ngay
ngắn trong cái sân nhỏ ở khu Nghĩa Tân, mang hoa quả bánh kẹo đến. Một
bó hoa và một phong bao mừng tuổi. Chín mươi xuân, nhà văn vẫn nói năng
hóm hỉnh nhẹ nhàng. Hôm ấy, tôi mang tặng bác một con dế mèn bằng đá.
Tình cờ thấy con dế mèn trong một hiệu đồ lưu niệm ở
Làm quản lý ở
Hội Nhà văn, không ít khi tôi gặp chuyện gây ức chế hoặc
có nguy
cơ phản ứng bột phát. Những lúc
ấy, tự
lấy làm
lạ, chả lẽ thời công tác ở hội,
bác Tô Hoài
không bao giờ nóng nảy, không bừng bừng phẫn nộ, không cãi cọ với bất kỳ
ai?
-
Không. Không bao giờ đến mức ấy. Tôi vẫn nghĩ chẳng đáng gì.
Lại hỏi
bác
có khi nào ngồi ở văn phòng hội mà bất chợt tự thấy đang làm những việc
thật là vô nghĩa? Ông già lại cười cười, hình như một câu nói lại thoảng
qua, đừng có để mọi việc làm bận tâm, không viết được nữa. Chẳng đáng
gì.
Chẳng
đáng gì. Ngẫm cho cùng ở cái cuộc đời vô thường này cái gì cũng đáng mà
cái gì
cũng
chẳng đáng. Sự thản nhiên ấy chỉ có ở người đã ngộ. Chưa bao giờ Tô Hoài
nói chuyện về Phật giáo, nhưng tôi nghĩ ở
bác
có điều gì đó như là giác ngộ, như thành chính quả. Không hẳn là cái đắc
đạo của người hiểu giáo lý, mà của người sống nhiều, sống kỹ, ngộ qua
con đường trải nghiệm.
Có người ví thái độ sống của Tô Hoài là thản nhiên như nước. Dòng chảy
tự nhiên có thể là sức nước đẩy thuyền, là nước chảy đá mòn, nước cũng
là môi trường đón nhận và thanh lọc mọi thứ. Hầu như ai đặt bài là viết,
không ngại dăm ba bài báo vặt làm hư hại uy tín. Không ngại nhận việc
này việc khác bị người ta kêu là tham. Không ngại. Nước đón nhận mọi
thứ, rửa sạch mọi thứ trong lòng nó.
Vấn đề là ở chỗ phải tu luyện thế nào để có thể trở thành nước.
Phải là nước thì mới có thể theo dòng
lên thác xuống ghềnh như thế. Không phải là bác đã vô trùng miễn nhiễm
được giữa thời cuộc, nhưng duy trì được việc viết, và viết có chất
lượng, đấy là cách tốt nhất thể hiện đạo đức của nghề.
Phải là nước mới thản nhiên được trước
những điều bất như ý trong và ngoài hội đoàn. Qua bác Tô Hoài, tôi biết
nhiều chuyện về thời trước của các hội viên kỳ cựu. Ông tác gia giữa cơ
quan ôm mặt khóc hu hu rằng Khrushchev đưa di hài Stalin ra khỏi lăng
rồi, tôi đi tự tử đây. Thế là ông Chế Lan Viên chỉ mặt mắng: Anh đương
ngồi với những người đứng đắn cả, anh không được nói dối, tôi thách anh
dám đi thắt cổ đấy… Rồi chuyện hai ông nhà thơ cao ngạo “chỉ chơi với
nhau chứ chẳng chơi với ai”. Rồi chuyện ông nọ một thời phải im lặng,
giờ thời thượng trở lại “chúng tôi từng đặt biệt danh ông ấy là Vương” –
bác không giải thích nhưng rõ ràng hàm ý ông ấy một thời nếu khốn khổ
thì cũng là vì cái mồm, nói năng
như vương như tướng. Rồi chỉ bằng vài chữ mà bác bình đích xác, thơ ông
nọ giống như “giấy trang kim”. Một thứ giấy sặc sỡ, bóng bẩy, thường
dùng để trang trí hoặc làm hàng mã…
Có khi nói chuyện thế sự, tôi mang mấy
cái băng video phim gốc mua ở Mỹ, chất lượng hình ảnh tốt, đem đến văn
phòng hội thuyết minh cho bác xem. Phim
Vĩnh biệt ái thiếp của Trần
Khải Ca và Phải sống của
Trương Nghệ Mưu về cách mạng văn hóa Trung Quốc. Phim
Mặt trời thiêu đốt của Nikita
Mikhalkov về số phận trí thức Liên Xô thời Stalin.
Chiều
chiều ngồi đối diện bác
Tô
Hoài, tôi thường xuyên có cảm giác thú vị như đối diện một ẩn số. Sức
khỏe ở đâu mà sang tuổi chín
mươi vẫn miệt mài ngồi viết hàng ngày? Xem ra cả đời
bác
không gắng công
thể dục thể thao gì quá mức. Hình như nhờ sự bình ổn điều độ mà giữ được
sức lao động. Cảm hứng ở đâu ra mà vẫn bền bỉ đều đều như vậy?
Vẫn còn
điều bí ẩn hơn cả: làm sao để sống thản nhiên như
bác,
để mà viết? Lối sống ấy xem ra thích hợp hơn cả với người làm nghề văn.
Chứ lãng mạn quá, nồng nhiệt quá, tôn thờ văn chương quá đi đến lý tưởng
hóa nghề, lý tưởng hóa mọi điều thì sao cũng có lúc giận người, giận
đời, giận mình rồi quay ra thấy cái vô nghĩa của nghề. Hết muốn viết.
Chữ nghĩa là gốc của văn chương
Tô Hoài chú trọng tìm chữ, thấy chữ nào
hay chữ nào mới trong dân gian là ghi nhớ. Có khi tự cấu tạo từ mới,
thao tác theo kiểu sử dụng nguyên âm hoặc phụ âm sẵn có ghép với một phụ
âm hoặc nguyên âm khác, ra một từ tượng thanh mới, tượng hình mới. Trên
cành lúc lỉu những quả. Chữ lúc lỉu này bây giờ đây đó có người dùng lại
thành quen quen, thực ra ban đầu là của Tô Hoài. Phụ âm e lờ gợi cảm
giác lung lay lủng lẳng. Hai âm tiết úc ỉu gợi cảm giác lúc nhúc chen
chúc. Lúc lỉu là quả rất sai, chen chúc đung đưa trên cành.
Cũng chỉ trong hệ thống ngôn ngữ của Tô
Hoài, mới thấy chữ “cỏ xanh eo éo”. Nó xanh là màu sắc, chứ đâu phải là
âm thanh mà eo éo lên như vậy. Nhưng mà nó xanh rợn xanh biếc xanh đinh
tai nhức óc, xanh như bật lên cả âm thanh rất chua giọng mái. Xanh eo
éo.
Cũng là bác Tô
Hoài từng kể, cứ băn khoăn mãi câu Kiều:
Một vùng cỏ áy bóng tà / Gió hiu
hiu thổi một và bông lau. Cho đến lần đi thực tế ở Thái Bình, thấy
dân vùng ấy gọi cỏ áy là loại cỏ bị héo bị ngả vàng, cỏ úa. Lúc ấy nhà
văn mới nhớ ra Thái Bình là quê mẹ Nguyễn Du, đại thi hào đã dùng một
chữ của quê ngoại, cũng như đã dùng nhiều chữ của quê nội Hà Tĩnh trong
Truyện Kiều.
Viết tự truyện, hồi ký, bút ký, những
hồi ức kiểu chuyện cũ Hà Nội, Tô Hoài chủ ý chỉ viết những điều mình
thấy mình biết, không viết những gì mình chỉ nghe người khác kể lại. Bác
kể trong hồi ký là mình học hành dở dang rồi đi làm cách mạng. Nhưng cái
dở dang của anh Nguyễn Sen, tên chào đời của bác, cũng giúp cho nhà văn
Tô Hoài tự học thêm để đọc được sách tiếng Pháp. Tô Hoài thích nhà văn Ý
Alberto Moravia, thích những cuốn như
Thiếu phụ thành
Có nhà thơ nữ viết một câu như thế này:
chỉ có cô hở ra thì cậu ấy mới biết. Bác Tô Hoài bảo: Cô này vô ý. Bác
lấy bút thêm vào bản thảo chữ “nói”, giữa chữ “cô” và chữ “hở”: chỉ có
cô nói hở ra. Không nhầm được nữa, chứ cô hở ra là hở cái gì bây giờ.
Một lần khác, bác Tô Hoài duyệt bài cho
báo. Trên một bài thơ, tác giả viết: tặng XYZ. Bác xóa ngay câu đề tặng
này, bảo: Muốn tặng nhau thì mua thêm một tờ báo mà tặng. Hàm ý bài in
ra là để cho công chúng rộng rãi, không hẳn là thứ để giao đãi riêng
giữa tác giả và một XYZ nào đó.
Tinh về chữ nghĩa, bác Tô Hoài cũng rất
bài bản trong làm báo làm sách. Tập sách nhiều tác giả, mỗi người góp
một vài bài, các nhà xuất bản hay ghi lên bìa dòng chữ: nhiều tác giả.
Ghi đúng vào phía trên bìa sách, đúng vị trí người ta đặt tên tác giả.
Nhiều tác giả. Bác Tô Hoài cầm cuốn sách lên cười: Ông này họ Nhiều tên
Giả. Cái cười khiến cho chữ Nhiều Tác Giả trên bìa sách bỗng hóa ra quê.
Sau này tôi được biết đấy là quy định của cơ quan quản lý xuất bản, phải
ghi như vậy, khi sách là của một nhóm tác giả. Nếu để bác Tô Hoài phản
biện, bác sẽ bảo ngay cả quy định như vậy thì cũng sẽ có cách thực hiện
sang trọng hơn. Một li thế thôi, nhưng nó thể hiện sự tinh tế.
Lan man một tí: nhiều lần điều hành các
hội nghị hoặc đại hội, tôi thường yêu cầu người dẫn chương trình khi
chào cờ thì không nên hô một câu rất vụng: Nghiêm, chào cờ, chào. Sau
này tôi thấy một người tác phong lịch thiệp tinh tế như nhạc sĩ Hồ Quang
Bình cũng làm như vậy. Anh điều khiển đại hội, giọng ấm áp: Xin mời toàn
thể đại hội làm lễ chào cờ. Phối hợp chính xác, lập tức quốc ca nổi lên,
như vậy là buộc tất thảy phải đứng nghiêm và im lặng. Dứt khoát không
đèo thêm những câu khẩu lệnh quê kệch thô sơ.
Yêu chữ đến mức trọng chữ, rất nghiêm
cẩn với chữ. Bác Tô Hoài đọc sách của một bạn mới viết thì tỏ ý không
bằng lòng việc tác giả gọi cha mẹ mình là “họ”, là “ông ấy, bà ấy”, rồi
thậm chí có tác giả viết cả khẩu ngữ “ông ý, bà ý”. Chữ nghĩa thể hiện
văn hóa của người dùng nó, rất đậm.
Một người viết suốt đời, không bỏ phí
một chi tiết nào trong đời mình, không phí một chi tiết nào thu nhận
được từ đời sống. Có lẽ là không. Tô Hoài khác hẳn một vài bạn viết cùng
thời, khác với những vị suốt đời chỉ dọa viết. Chữ “dọa” là của bác Tô
Hoài. Ông ấy chỉ dọa viết chứ không viết thật. Ông ấy viết tên truyện
lên đầu một trang giấy trắng, kẹp trang giấy ấy vào một tấm bảng, để
trước mặt. Bao nhiêu ngày tháng trôi đi vẫn chỉ có cái tên truyện, không
bắt đầu viết được chữ nào.
Tô Hoài nói phải ngồi vào bàn và huy
động cảm hứng đến. Đêm nằm nghĩ ra ý tưởng, nghĩ thì hay ho lắm, nhưng
sáng ra ngồi vào bàn thì chữ nghĩa bỏ đi đâu hết. Bác Tô Hoài không nói
thêm, nhưng tôi hiểu đấy là một cách làm việc chuyên nghiệp: nhà văn tài
năng là người có đủ kỹ năng để chủ động khơi dậy cảm hứng chứ không thụ
động chờ nó đến. Chờ thì có khi chẳng bao giờ cảm hứng đến.
Nhà văn làm gì cũng chỉ để nhằm một mục
đích là để viết được. Yêu đương. Rong ruổi du ngoạn. Làm việc. Tất cả
đều phải gây thêm cảm hứng cho việc viết. Yêu mê mải, đi mê mải, lên
diễn đàn tuyên ngôn mê mải… rồi không viết được nữa, thì đấy là điều hại
cho nhà văn. Chung cuộc, người ta hỏi nhà văn tác phẩm của anh đâu, chứ
không nghĩa lý gì mà biết anh đã trải bao mối tình, đi bao nhiêu chuyến
gần xa, khuấy động được bao người trên những diễn đàn ồn ào to tát.
Nghề văn cũng như mọi nghề làm hàng.
Viết bài báo tết, Tô Hoài gọi là làm hàng tết. Hầu như ai đặt viết cũng
nhận, hầu như báo nào đặt bài cũng nhận. Thập kỷ chín mươi của thế kỷ
hai mươi, tôi đặt bác Tô Hoài viết cho một chuyên mục theo kiểu chuyện
cũ Hà Nội. Viết. Đều đặn hàng tuần. Bài có khi bài bị tòa soạn cắt bớt.
Có khi nhuận bút hơi thấp. Cầm báo và nhuận bút đến cho bác, tôi tỏ ra
áy náy. Nhưng bác Tô Hoài đặt tờ báo và phong bì nhuận bút sang bên, dẫn
tôi sang quán bia cạnh nhà, chuyện trò như không. Đấy là xử sự của một
người từng trải, một người làm báo đã thành tinh, việc cắt bài, việc hạ
nhuận bút không hề xa lạ. Cắt cũng được, trả bao nhiêu cũng được. Tự
tin. Không phải vì thế mà suy giảm giá trị của mình.
Một lần tôi kể vừa mua cuốn sách mới của
một nhà văn lão làng, rồi đưa cho bác ấy ký lưu niệm. Tô Hoài gật đầu:
Ừ, như vậy lịch sự hơn. Đúng là lịch sự hơn người cứ gặp tác giả là nhắc
nhở tặng sách.
Đời là những chuyến đi
Nhiều chuyến tôi đi dự hội nghị nhà văn
nước này nước nọ về, bác Tô Hoài hỏi chuyện đi những đâu làm những gì,
rồi bình một câu: Tôi bây giờ có cho đi như thế cũng chẳng đi được nữa.
Không chỉ là tấm gương lao động, Tô Hoài
có lẽ cũng là tấm gương sống nhiều sống thọ. Cứ sống bình thản trước mọi
sự, không giận dữ, không dồn sức, không tự gây khó cho mình bằng những
cố lên cố lên. Làm việc không ngừng nghỉ, tham gia công việc của cơ quan
của phường phố, tản bộ ung dung chứ không nhất thiết phải gắng sức tập
tành… Cứ thế mà đi gần trọn một thế kỷ.
Mấy năm cuối, bác Tô Hoài mắt mờ, không
đọc được nữa . Tôi nhớ bác Tô Hoài đọc báo hàng ngày, đọc từ bài dài cho
đến những mẩu tin con con, “tôi đọc rất tốn báo” như lời bác nói. Rất
tốn sách nữa. Bác Tô Hoài nhận được
sách tặng của mọi người, đọc, ghi lại đôi dòng để nhớ, rồi bỏ cuốn sách.
Chắc là kiểu triết lý buông bỏ như tôi từng viết và bắt đầu thực hành.
Tôi cũng làm thế, mỗi tuần đọc ít nhất một cuốn sách, đọc xong cũng ghi
dăm ba trăm chữ vào sổ tay để nhớ, cho nên khi làm chuyên mục điểm sách
hàng tuần cho báo thì chỉ việc lấy ra từ sổ tay.
Bác Tô Hoài bảo đọc là học, đọc cái dở
cũng học được. Đúng là vậy. Không phải học theo cái dở, mà rút được kinh
nghiệm từ cái dở. Không nên dẫn chuyện kiểu này, không nên lộ quan điểm
và cảm xúc kiểu này, không nên sử dụng ngôn ngữ kiểu này. Một lần, chị
bạn văn bảo tôi đang ở xa, vậy để chị mua cuốn sách mới của tôi mang đến
cho bác. Tôi phải nói ngay: Chị đừng làm thế, mắt bác giờ không đọc
được, sao lại đưa sách đến.
Lại nhớ chuyện bác Tô Hoài kể. Lần ấy,
Tô Hoài định vui chuyện nói với Nguyễn Tuân rằng mình sắp đi Cát Bà.
Nguyễn Tuân thì vừa chống gậy đi đâu về, mệt mỏi nằm ra giường, bảo Tô
Hoài tự lấy chai rượu rót ra mà uống. Được một lúc thì Tô Hoài len lén
ra về. Thôi, không kể chuyện mình sắp đi xa một chuyến, không kể với
người thèm đi mà chân cẳng như thế không đi được nữa.
Những điều này, tôi nhớ lại khi đang
ngồi giữa thủ đô
Đúng là bác Tô Hoài còn kịp nghe đọc bài
của tôi vừa in trên báo. Sau đó một thời gian, tôi được tin bác ra đi,
ngày 6-7-2014. Tôi không thấy quá hẫng hụt vì phải tiễn biệt bác từ xa.
Điều quan trọng là đã được chia sẻ gần gũi đến như vậy khi bác còn trên
dương thế.
29 tháng 7 năm 2020
H.A.T
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 15-10-20 |